Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng công bố thông tin trên thị trường chứng khoán việt nam...

Tài liệu Thực trạng công bố thông tin trên thị trường chứng khoán việt nam

.DOC
20
679
147

Mô tả:

MỤC LỤC Lời nói đầu....................................................................................2 I) Chương 1:Thực trạng công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam................................................................3 1.Tổng quan về vai trò công bố thông tin..................................3 2.Những bất cập trong tính minh bạch công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam....................................................3 2.1.Chất lượng kém của một số báo cáo kiểm toán..................3 2.2.Trích lập dự phòng tài chính..............................................4 2.3 .Những báo cáo tài chính mập mờ......................................8 2.4.Thị trường thường luôn xuất hiện các tin đồn thiếu chính xác gây ảnh hưởng lớn đến tâm lý nhà đầu tư..........................9 II)Chương 2: Những giải pháp nhằm nâng cao tính minh bạch trên thị trường chứng khoán Việt Nam..........................10 2.Một số biện pháp nâng cao tính minh bạch trong công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam......................11 Nguồn tài liệu tham khảo..........................................................15 1 Lời nói đầu Thị trường chứng khoán Việt Nam sau một quá trình hình thành và phát triển đã đạt được những bước phát triển quan trọng,đóng vai trò tích cực trong quá trình phát triển kinh tế giống như kênh huy động vốn chủ đạo ,tạo tính thanh khoản trên thị trường,cũng như nâng cao năng lực hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam.Thị trường chứng khoán Việt Nam được kỳ vọng tiếp tục có những bước phát triển dài hơn trong tương lai.Tuy nhiên trong qúa trình phát triển,thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều bất cập và thách thức.Một trong những điểm bất cập đó là vấn đề minh bạch hoá thông tin trên thị trường.Đây là vấn đề then chốt để tạo sự phát triển bền vững,lành mạnh trên thị trường cũng như gây dựng niềm tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Để tìm hiểu vấn đề tính minh bạch trong công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam ,cũng như những giải pháp nâng cao tính minh bạch trên thị trường tôi ,tiểu luận bao gồm 2 chương chính: Chương 1:Thực trạng công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Chương 2:Những giải pháp nhằm nâng cao tính minh bạch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Để hoàn thành được bản tiểu luận này ngoài sự cố gắng tìm hiểu,nghiên cứu của bản thân còn có sự nhiệt tình hướng dẫn của các giảng viên khoá học Cơ bản chứng khoán 19-Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội.Nhân đây cho phép tôi được gửi lời chúc sức khoẻ và lời cảm ơn sâu sắc nhất đến các thầy cô. Hà Nội ngày 28 tháng 2 năm 2010 2 Trần văn Tình 3 I) Chương 1:Thực trạng công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 1.Tổng quan về vai trò công bố thông tin Minh bạch thông tin là một trong những nhân tố quan trọng nhất giúp thị trường chứng khoán phát triển. Với tư cách là một người chủ sở hữu của doanh nghiệp, cổ đông của công ty hoàn toàn có thể được quyền biết rõ tình trạng doanh nghiệp của mình, thậm chí khi các doanh nghiệp này đã được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thì câu chuyện không chỉ dừng lại ở những người chủ sở hữu mà còn là những nhà đầu tư. Doanh nghiệp niêm yết phải có trách nhiệm công bố thông tin một cách rõ ràng minh bạch theo đúng pháp luật để cho các nhà đầu tư có những quyết định đúng đắn. Không phải các nhà đầu tư nào cũng có đủ trình độ để đọc hiểu hết các báo cáo tài chính một cách cẩn thận để phát hiện ra những điều bất thường trong các báo cáo tài chính của công ty. Thậm chí các công ty hoàn toàn có thể làm đẹp các báo cáo tài chính để qua mặt các nhà đầu tư chuyên nghiệp nhất dưới sự giúp đỡ của các tổ chức trung gian như các công ty kiểm toán, các tổ chức đánh giá tín nhiệm, ngân hàng...Có lẽ không ít các nhà đầu tư tài chính đều biết đến vụ Scandal gian lận tài chính của Enron. Trước khi vụ gian lận này được phanh phui giá cổ phiếu của Enron đạt đến 60 USD/ CP. Tuy nhiên vào trung tuần tháng 12-2001, giá của nó chỉ còn có vỏn vẹn 60 xu. Thật khủng khiếp, một sự sụt giá đến 99%, thật là một thảm họa cho những ai nắm giữ cổ phiếu này, vậy những người nào nắm nó trước tháng 12 ? Đó chính là những người đã bị các CEO của Enron lừa dối; Jeff Skilling, Ken Lay đã lừa dối các cổ đông của họ, các nhà đầu tư, thậm chí cả các chuyên gia tại phố Wall bằng những báo cáo tài chính đẹp như mơ và những lời phát biểu hùng hồn (vào tháng 10/2001, tại phố wall, vẫn có ít nhất 6 nhà phân tích nổi tiếng khuyến nghị nên mua cổ phiếu của Enroll). Câu hỏi đặt ra là tại sao những khoản mập mờ, gian dối trong báo cáo tài chính của Enron lại không bị phát hiện ? công ty kiểm toán đã ở đâu ? Arthur Andersen, một trong 5 hãng kiểm toán lớn nhất thế giới đã gắn bó hơn 17 năm 4 với Enron là kẻ đã tiếp tay cho vụ Scandal tài chính đầy tai tiếng này. Họ đã giúp Enron biến những khoản thua lỗ của hãng này thành những khoản lợi nhuận để đánh lừa các chuyên gia và các nhà đầu tư. 2.Những bất cập trong tính minh bạch công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 2.1.Chất lượng kém của một số báo cáo kiểm toán Thị trường chứng khoán Việt Nam -một thị trường còn rất non trẻ trình độ hiểu biết về các báo cáo tài chính, các quy định tài chính còn rất hạn chế. Vì vậy điều kiện minh bạch hóa thông tin và các báo cáo tài chính càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của thị trường. Thật đáng tiếc cho các cổ đông của CTCP Bông Bạch Tuyết (BBT), các kiểm toán viên đã lờ đi những khoản mục nhạy cảm nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận công ty đó là khoản mục “các khoản phải thu khác”. Khi BBT bị phanh phui lợi nhuận trong các năm 2006 và 2007 bổng chốc trở thành những khoản thua lỗ. Các cổ đông của công ty không hề hay biết việc này, và nếu không may trong năm 2008 này công ty vẫn tiếp tục thua lỗ thì theo luật, SGD CK thành phố HCM sẽ phải hủy tư cách niêm yết của công ty. Hậu quả vẫn chưa dừng lại ở đó, với sự thua lỗ triền miên như vậy BBT hoàn toàn có thể bị tuyên bố phá sản, thật không may cho những ai giữ cổ phiếu này. 2.2.Trích lập dự phòng tài chính. Trong những năm 2006-2007, TTCK Việt Nam đã có những sự phát triển vượt bậc không dừng lại ở con số các công ty niêm yết, mà quy mô vốn hóa của Thị trường. Giá trị vốn hóa của thị trường cuối năm 2007 chiếm khoảng 40% GDP (không tính trái phiếu) so với 22,7% vào năm 2006, với khoảng 250 công ty niêm yết. Thị trường trái phiếu cũng có bước phát triển vượt bậc, tổng giá trị vốn hóa của trái phiếu lên đến 82.000 tỷ đồng, chiếm 8,4% GDP. Sự phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán đã thu hút rất nhiều nhà đầu tư, không chỉ vậy các công ty niêm yết cũng tham gia vào đầu tư tài chính để cải thiện thu nhập của mình: lợi nhuận từ hoạt động tài chính của HAP gấp khoảng 5 lần lợi nhuận 5 gộp của chính HAP, đầu tư chứng khoán cũng mang về khoảng 1.000 tỷ đồng lợi nhuận trong tổng số lợi nhuận của ACB năm 2007. Con số các công ty đầu tư tài chính thành công có đến hàng chục đơn cử như REE, CMC, TDH, STB, NLC…Mọi chuyện sẽ chẳng có vấn đề gì nếu TTCK vẫn tiếp tục phát triển. Nhưng “Họa vô đơn chí” thị trường chứng khoán Việt Nam đã suy thoái trầm trọng. Nếu tính từ đầu năm 2008 đến nay lúc Vn-Index ở mức 921,07 điểm thì cho đến ngày 08/08/2008 chỉ số này đã mất đi 51,7%. Sự sụt giảm mạnh mẽ này đã khiến rất nhiều nhà đầu tư trở nên thua lỗ nặng, thậm chí cả những người đã từng thành công trong năm 2007 cũng trở nên thua lỗ. Vậy còn những doanh nghiệp niêm yết tham gia đầu tư tài chính thì sao ? câu trả lời là họ cũng bị thua lỗ. Tuy nhiên cách hành xử của họ đối với khoản thua lỗ từ hoạt động tài chính này lại rất khác nhau. Có một vài doanh nghiệp đã công khai các khoản thua lỗ này để thể hiện sự minh bạch trong báo cáo tài chính của mình, điển hình nhất chính là CTCP cơ điện lạnh REE và BVSC. Lũy kế 6 tháng đầu năm, REE đã trích lập dự phòng hơn 268,4 tỷ đồng cho khoản đầu tư chứng khoán của mình, BVSC đã trích lập dự phòng hơn 353 tỷ đồng. Theo thông tư số 13 /2006/TT –BTC Hướng dẫn việc thực hiện trích lập đầu tư tài chính đã nêu rõ: Số lượng chứng Giá chứng Giá chứng Mức dự khoán bị giảm khoán hạch khoán thực phòng giảm giá tại thời x toán trên sổ tế trên thị giá đầu tư = điểm lập báo chứng kế toán trường cáo tài chính khoán Đã có một thời gian việc trích lập dự phòng này trở thành một vấn đề nóng bỏng khi các nhà đầu tư phát hiện ra con số chênh lệch hơn 5.000 tỷ đồng đầu tư chứng khoán của 2 đại gia STB và ACB. Tuy nhiên sau đó câu chuyện trở nên chấm dứt vì các ngân hàng này “phản pháo” cho rằng đầu tư cổ phiếu của họ chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ và rằng khoản mục “chứng khoán đầu tư” của họ phần lớn là trái phiếu thôi vì vậy không có chuyện phải 6 trích lập dự phòng. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là có đúng không ? Bất cứ ai từng học sơ qua lớp cơ bản về chứng khoán đều biết rằng, trái phiếu là một loại chứng khoán và trái phiếu cũng có cái giá của nó, tức là giá mua và giá bán. Giá của trái phiếu phụ thuộc vào nhiều nhân tố, tuy nhiên nhân tố quan trọng nhất đó chính là lãi suất. Các nhà đầu tư mua các trái phiếu với kỳ vọng các mức lãi suất khác nhau. Giả sử một trái phiếu kỳ hạn 1 năm, mệnh giá là 100 đồng với lãi suất danh nghĩa của trái phiếu là 8% / năm ( trái phiếu trả lãi hàng năm). Bây giờ lãi suất thị trường không còn 8% / năm nữa lên đến 16%/năm. Vậy giá trái phiếu này sẽ là bao nhiêu đây ? Nếu bạn có 100 đồng và bạn được chọn 2 trường hợp đó là mua trái phiếu với lãi suất 8% và đem tiền đi giử với lãi suất 16% thì bạn sẽ chọn phương án nào ? đơn giản nếu tôi sẽ chọn đem tiền đi giử ngân hàng với lãi suất 16%/năm, thay vì bỏ 100 đồng ra mua cái trái phiếu trên. Vậy để hấp dẫn người mua, trái phiếu trên chắc chắn phải có giá nhỏ hơn 100 đồng. Câu hỏi đặt ra là giá trái phiếu là bao nhiêu ? Công thức tính giá trái phiếu như sau: Trong đó: •P : giá của trái phiếu. • Po : mệnh giá của trái phiếu. • T : Là trái tức. • N : số năm trái phiếu đáo hạn. • R : lãi suất thị trường cùng kỳ hạn của trái phiếu (có thể là lãi suất kỳ vọng của nhà đầu tư hay thị trường) Áp dụng công thức trên ta tính được trái phiếu có mệnh giá là 100 với lãi suất danh nghĩa 8%/năm kỳ hạn 1 năm khi lãi suất thị trường là 16% thì có giá là 93 đồng. Một nhà đầu tư ban đầu bỏ ra 100 đồng để mua trái phiếu này vào đầu năm, tuy nhiên 2 tháng sau lãi suất thị trường bỗng nhiên vọt lên 16%/năm thì anh ta đã lỗ 7% trên 100 đồng đầu tư lúc ban đầu. 7 Theo báo cáo tài chính cuối năm 2007 của STB và ACB thì con số chứng khoán nợ (trái phiếu) của 2 ngân hàng này vào khoảng 10.400 nghìn tỷ đồng và 8.478 tỷ đồng. Hầu hết cái trái phiếu này được mua lúc năm 2006 và trong năm 2007. Điều đáng lưu ý là vào thời điểm đó nền kinh tế vẫn diễn biến một cách bình thường và mọi người vẫn rất kỳ vọng và sự tăng trưởng thần kỳ của Việt Nam, lãi suất huy động lúc đó chỉ khoảng 7-9%/năm. Thậm chí trái phiếu chính phủ có lãi suất cao nhất thời điểm lúc đó chỉ có 9,5% / năm. Tuy nhiên hiện tại lãi suất huy động không dưới 17%/năm . Như thế các ngân hàng đã thua lỗ rất lớn trong khoản đầu tư trái phiếu này. Theo thống kê của tác giả, giá của các trái phiếu này đã giảm không phanh dao động từ 10%-30% tính từ thời điểm tháng 12/2007 đến hết tháng 7 năm 2008. Theo thuyết minh báo cáo tài chính năm 2007 của ACB, tác giả thử tính với số tiền 720 tỷ đồng ACB đã mua trái phiếu của doanh nghiệp chưa niêm yết với lãi suất 11,2% kỳ hạn 5 năm (giả sử ACB mua trái phiếu này vào thời điểm ngày 1/1/2007) thì áp dụng công thức định giá trái phiếu với lãi suất chiết khấu 16%/năm (lưu ý vào Ngày 8/8, Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HASTC) thông báo kết quả đấu thầu 1.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành, đợt 9/2008. Đã có 6 thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu kỳ hạn 2 năm và 13 thành viên đấu thầu trái phiếu kỳ hạn 5 năm. Theo đó, đã có 5 thành viên trúng thầu trái phiếu kỳ hạn 2 năm (phát hành ngày 12/8/2008, đáo hạn 12/8/2010) với lãi suất là 17,5%/năm, khối lượng trúng thầu 500 tỷ đồng; 2 thành viên trúng thầu trái phiếu kỳ hạn 5 năm (ngày đáo hạn 12/8/2013) với mức lãi suất 16%/năm, khối lượng trúng thầu 55 tỷ đồng/tổng khối lượng gọi thầu là 500 tỷ đồng. Trái phiếu sẽ được thanh toán một lần khi đáo hạn và được trả lãi hàng năm. Trái phiếu được bán bằng mệnh giá, phát hành dưới hình thức ghi sổ, được niêm yết tại HASTC(với thông tin này tác giả lấy lãi suất chiết khấu là 16% là hoàn toàn có cơ sở và chính xác). Với những dữ liệu như vậy tác giả tính ra con số thua lỗ của ACB trong phi vụ này đã hơn 100 tỷ đồng. 8 Các NHTM sẽ phải giải thích như thế nào đây ? với số tiền đầu tư vào trái phiếu lên đến gần chục nghìn tỷ đồng chỉ cần một khoản giảm trừ 10% trong số này cũng đã tạo nên một con số thua lỗ khủng khiếp. Và thậm chí nếu lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn tiếp tục tăng lên hoặc giữ nguyên 16% từ nay cho đến cuối năm thì việc cái khoản mục đầu tư chứng khoán nợ kia thâm thủng 20% là chuyện bình thường. 20% của 10.000 tỷ đồng tương đương với 2000 tỷ so với con số lợi nhuận 6 tháng đầu năm hơn 700 tỷ và 800 tỷ của STB và ACB, thì dự kiến cuối năm 2 ngân hàng này sẽ phải thua lỗ. Các ngân hàng có thể “phản pháo” rằng, không tôi mua trái phiếu với giá 100 lãi suất 8% /năm kỳ hạn 1 năm thì tôi có 108 đồng vào cuối năm, vậy tôi đâu có thua lỗ. Thật nực cười, nếu các NHTM đưa ra lý lẽ như vậy. Dữ liệu về giá của một số trái phiếu Mã chứng Kỳ Lãi Lợi Khối khoán hạn suất suất giá lượng Thời điểm 8.73 6.00 109.315 500 tháng 2/08 CP061105 5 8.73 7.00 105.522 800 tháng 2/08 CP061105 5 CP061105 5 8.73 6.00 108.655 500 tháng 3/08 CP061105 5 8.73 6.00 109.315 500 tháng 3/08 CP061105 5 8.73 19.00 77.672 300 tháng 7/08 CP061105 5 8.73 20.00 77.177 300 tháng 7/08 CP061105 5 8.73 21.00 75.759 300 tháng 7/08 CP061106 5 8.72 6.00 108.314 500 tháng 3/07 CP061106 5 8.72 20.00 75.738 250 CP061109 5 8.63 16.00 84.301 1,788,230 tháng 7/08 9 tháng 7/08 8.36 19.00 74.159 1,600,000 tháng 7/08 CP061122 5 8.33 16.00 80.719 350 tháng 7/08 5 CP061123 (Nguồn www.vneconomy.com.vn) Một cách giải thích ngắn gọn nếu ngân hàng mua trái phiếu CP061105 tại thời điểm tháng 12/2007 với giá 105.5 đồng, thì đến thời điểm tháng 7/2008 thì với giá 77,1 thì phi vụ này ngân hàng đã lõm hơn 26% (lưu ý vào thời điểm tháng 7 lãi suất trái phiếu chính phủ chưa có 16% /năm kỳ hạn 5 năm;Người mua trái phiếu CP061105 vẫn được hưởng các trái tức mỗi năm và lĩnh đủ vốn gốc tại thời điểm đáo hạn trái phiếu) . Hoặc một người bình dân có thể hiểu 100 đồng vào ngày 31/12/2007 anh có thể mua được 1 ổ bánh mì nhưng vào ngày 31/12/2008 108 đồng của anh chỉ mua được nửa ổ bánh thôi, nghĩa là anh đã lỗ mất hơn 50% rồi. 2.3 .Những báo cáo tài chính mập mờ Chúng ta biết rằng khoản mục trích lập dự phòng đầu tư tài chính và các dự phòng khác như giảm giá hàng tồn kho, tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, rất nhiều các công ty niêm yết đã lờ đi các khoản trích lập này. Gần đây công ty CPCK HSC thành phố Hồ Chí Minh cho rằng nếu CTCP Nhiệt Điện Phả Lại (PPC) thực hiện nghiêm túc việc trích lập dự phòng rủi ro tỷ giá thì lợi nhuận 6 tháng của PPC sẽ có một sự thay đổi rất lớn, chứ không phải là 571 tỷ đồng. Theo CTCP CK HSC PPC đã vay 37,1 tỷ yên với thời hạn là 22 10 năm, và nhà nước đã bàn giao số trên cho công ty vào ngày 26/12/2006. Tỷ giá đồng VNĐ/Yên vào thời điểm đó vào khoảng 134. ( Nguồn Tổng cục thống kê) Tuy nhiên hiện tại tỷ giá VNĐ/Yên đã là 149-150 tức là VNĐ đã trượt giá khoảng 11% so với đồng yên, với khoản vay 37,1 tỷ yên của PPC, với tỷ giá VNĐ/Yên như hiện nay thì công ty phải trích lập dự phòng tỷ giá hối đoái ít nhất là hơn 460 tỷ đồng (công ty đã trả 8,9 tỷ yên vào cuối năm 2007, theo báo cáo thuyết minh tài chính 2007), còn nếu tỷ giá hối đoái giữa VNĐ/Yên vẫn tiếp tục tăng lên thì có khả năng lợi nhuận cả năm của PPC sẽ bị giảm sút rất nghiêm trọng (thực tế theo bản thuyết minh báo cáo tài chính cuối năm 2007 công ty đã phải trích lập dự phòng rủi ro tỷ giá là 232 tỷ đồng). Trường hợp của PPC là minh chứng hùng hồn cho các công ty có khoản vay mượn bằng ngoại tệ. Một công ty khác tiêu biểu cho báo cáo tài chính mập mờ đó là VSP, trong phần thuyết minh báo cáo tài chính cuối năm 2007 tại khoản mục đầu tư chứng khoán dài hạn, công ty đã giải thích khoản tiền 400 tỷ đồng trong khoản mục này là số tiền giao cho IPA quản lý để đầu tư theo danh mục đầu tư số 22/HĐQLDM ngày 27 tháng 12 năm 2007. Tuy nhiên không hiểu nguyên nhân vì sao, con số này ở trong báo cáo tài chính quí I chỉ còn 217 tỷ, và trong báo cáo tài chính quí II chỉ còn 165 tỷ. Câu hỏi đặt ra ở đây là rốt cuộc số tiền mà VSP đã giao cho IPA quản 11 lý đầu tư vào danh mục theo hợp đồng số 22/HĐ-QLDM là bao nhiêu ? các cổ đông và các nhà đầu tư đều có quyền biết rõ con số này là bao nhiêu theo hợp đồng ủy thác đầu tư. Và hợp đồng đầu tư đó VSP sẽ được ăn chia như thế nào, theo lãi suất cố định hay “lời ăn lỗ chụi” ? Nếu lời ăn lỗ chụi tại sao VSP lại không trích lập các khoản dự phòng ? CTCP Thủy hải sản Minh Phú quí II đã phải trích lập dự phòng lên đến 171 tỷ đồng đầu tư chứng khoán ngắn hạn trên tổng số 394 tỷ đồng của công ty. Vậy nếu khoản ủy thác “lấp lửng” kia của VSP là lời ăn lỗ chụi giống như trường hợp của PPC ủy thác 200 tỷ đồng cho Quỹ tầm nhìn của SSI thì con số lợi nhuận của VSP liệu có còn được hơn 200 tỷ đồng không. Trở lại vụ việc của STB và ACB. Chủ tịch HĐQT của STB đã nói, báo cáo tài chính quí II của STB là báo cáo chưa hợp nhất với CTCK và BĐS. Thật kỳ lạ, tại sao STB lại không hợp nhất báo cáo tài chính của tập đoàn. STB không thể lấy lý do như giống như CTCP Nhựa Bình Minh đó là lần đầu tiên làm báo cáo hợp nhất. Phải chăng trước sự tụt dốc không phanh của TTCK, CTCK Sài Gòn Thương Tín (SBSC) đã thua lỗ một khoản lớn. (tính đến tháng 7/2007 VĐL của STB đã là 1.100 tỷ đồng lớn hơn nhiều so với 450 tỷ của BVSC vào cuối năm 2007, như thế khoản mục đầu tư cổ phiếu của SBSC có khả năng lớn hơn BVSC nhiều), Và nếu hợp nhất sẽ ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của STB. Câu hỏi đặt ra là tại sao SGD CK Thành phố HCM lại chấp nhận báo cáo tài chính chưa hợp nhất của STB? 2.4.Thị trường thường luôn xuất hiện các tin đồn thiếu chính xác gây ảnh hưởng lớn đến tâm lý nhà đầu tư. Trong thời gian gần đây thị trường thường xuyên xuất hiện các tin đồn thiếu chính xác từ tác động tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư như các tin đồn về lợi nhuận,chính sách cổ tức,chia thưởng,đầu tư dự án mới của doanh nghiệp.Những tin đồn này xuất hiện từ nhiều nguồn mà thiếu sự kiểm chứng từ phía doanh nghiệp và nhà quản lý. 12 II)Chương 2: Những giải pháp nhằm nâng cao tính minh bạch trên thị trường chứng khoán Việt Nam 1.Kinh nghiệm giám sát của một số quốc gia trong vấn đề nâng cao tính minh bạch trên thị trường chứng khoán. Một trong những yêu cầu quan trọng để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả, bảo đảm quyền và lợi ích của nhà đầu tư là thị trường phải minh bạch, trong đó minh bạch thông tin là yếu tố được các cơ quan quản lý và các nhà đầu tư quan tâm. Thực tế, việc bảo đảm tính minh bạch cho thị trường chứng khoán chính là biện pháp để cơ quan quản lý thực hiện mục tiêu xây dựng niềm tin cho nhà đầu tư, cũng như tạo dựng niềm tin cho các công ty đại chúng niêm yết trên thị trường chứng khoán. Theo Phó tổng thư ký Cơ quan quản lý các thị trường tài chính Pháp Brunzo Gizard, bản cáo bạch của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng để bảo đảm cho sự minh bạch về thông tin. Tại các nước châu Âu, doanh nghiệp bắt buộc phải công bố cụ thể, chi tiết các thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Bản cáo bạch của 13 doanh nghiệp phải chứa đựng tất cả các thông tin cần thiết cho phép nhà đầu tư có thể đánh giá về tài sản, tình hình tài chính, kết quả và triển vọng của tổ chức phát hành cổ phiếu. Các thông tin trong bản cáo bạch sẽ được cơ quan quản lý kiểm tra độ chính xác. Do vậy, bản cáo bạch không được phép sai sót, hoặc thiếu về thông tin, không gây hiểu sai cho nhà đầu tư bởi đây chính là căn cứ để nhà đầu tư ra quyết định đầu tư. Nếu doanh nghiệp công bố những thông tin không chính xác về tài chính, các yếu tố rủi ro trong bản cáo bạch, sẽ bị phạt nặng Tại thị trường chứng khoán Trung Quốc, cơ chế giám sát các doanh nghiệp về công bố thông tin khi phát hành cổ phiếu được thực hiện chặt chẽ. Cơ quan quản lý đã thành lập Ủy ban điều tra có trách nhiệm thẩm tra toàn bộ các thông tin liên quan đến doanh nghiệp mới niêm yết trên thị trường chứng khoán. Việc phát hành bản chính và bản tóm tắt về tình hình hoạt động của doanh nghiệp phải được niêm yết trên báo chí có chỉ định và phải công bố trên mạng Internet. Các doanh nghiệp cũng được yêu cầu phải công bố thông tin liên tục hoặc đột xuất nếu doanh nghiệp có những thay đổi về quản lý, về thị trường hay thay đổi về các dự án và lĩnh vực đầu tư. Trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm các quy định về công bố thông tin, thì căn cứ vào kết luận điều tra của Ủy ban thẩm tra, sẽ đưa ra mức xử phạt nhẹ nhất là thông báo trong nội bộ ngành, cảnh báo và phạt tiền, nặng nhất là cấm doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán. 2.Một số biện pháp nâng cao tính minh bạch trong công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo quy định hiện nay, tính minh bạch của thị trường chứng khoán nước ta được nhìn nhận theo ba nội dung: Quy định của pháp luật về công bố thông tin; Chế độ kế toán , kiểm toán trên thị trường chứng khoán; Quản trị công ty và trách nhiệm công bố thông tin của các doanh nghiệp. Hiện nay, hệ thống pháp luật liên 14 quan đến vấn đề minh bạch hoá thông tin trên thị trường chứng khoán như Luật Kế toán, Pháp luật về kiểm toán, Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán được xây dựng dựa trên các nguyên tắc của thị trường là trung thực và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, bảo đảm cho thị trường hoạt động công bằng, hiệu quả, minh bạch và giảm thiểu rủi ro. Về việc thực thi các quy định minh bạch hoá thị trường chứng khoán tại nước ta, Trưởng ban Quản lý phát hành, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Nguyễn Thế Thọ cho biết: Ngoài yêu cầu các công ty đầu tư chứng khoán công bố thông tin của doanh nghiệp niêm yết thì các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán cũng phải công bố thông tin và công khai hoá các thông tin thông qua các phương tiện thông tin của mình. Ngày 15/1/2010, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 09/2010/TT-BTC hướng dẫn về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, thay thế Thông tư 38/2007/TT-BTC. Thông tư có hiệu lực sau 45 ngày, kể từ ngày 15/1/2010. Một trong những nội dung chính sửa đổi được quan tâm nhất tại Thông tư số 09/2010/TT-BTC là các quy định về công bố thông tin của công ty đại chúng và tổ chức niêm yết nhằm tăng cường tính minh bạch của thị trường, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của nhà đầu tư. Theo quy định tại Thông tư 38/2007/TT-BTC, báo cáo tài chính quý của tổ chức niêm yết không cần phải được kiểm toán. Tuy nhiên, trên thực tế áp dụng, việc thiếu ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính quý gây ra những bất cập trong chất lượng báo cáo tài chính, ảnh hưởng tới lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, cần phải có sửa đổi. Chính vì vậy, trong quy định mới, Bộ Tài chính yêu cầu báo cáo tài chính năm của công ty đại chúng phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập đủ điều kiện hành nghề theo quy định của 15 Bộ Tài chính (điều này trong Thông tư 38 yêu cầu kiểm toán chấp thuận), đồng thời hướng dẫn chi tiết các yêu cầu đối với thuyết minh báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính năm phải được công bố toàn văn (bao gồm cả báo cáo kiểm toán) trên 1 số báo có phạm vi phát hành trên toàn quốc và trên phương tiện công bố thông tin của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, đồng thời ghi rõ địa chỉ liên kết tới trang thông tin điện tử đăng tải toàn văn báo cáo tài chính hoặc địa chỉ cung cấp báo cáo tài chính để nhà đầu tư tham khảo. Thông tư 38/2007/TT-BTC chỉ yêu cầu đăng tải trên báo chí và các phương tiện công bố thông tin báo cáo tài chính năm tóm tắt của công ty đại chúng và tổ chức niêm yết và cũng không yêu cầu đăng tải ý kiến của kiểm toán đối với báo cáo tài chính. Thực tế triển khai cho thấy việc đăng tải như vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư đối với việc hiểu một cách chính xác và đầy đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Riêng đối với tổ chức niêm yết, yêu cầu báo cáo tài chính bán niên (sáu tháng đầu năm) phải được soát xét bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận theo quy định của Chuẩn mực kiểm toán số 910 (trước đây không yêu cầu kiểm toán). Báo cáo tài chính quý cũng phải được lưu trữ ít nhất 10 năm để nhà đầu tư tham khảo (trước đây chỉ yêu cầu 12 tháng). Ngoài ra, Thông tư mới cũng bổ sung các trường hợp tổ chức niêm yết phải công bố thông tin bất thường đối với một số sự kiện trên thực tế áp dụng cần thiết phải có quy định bổ sung như: nghị quyết của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị liên quan đến vấn đề tăng, giảm vốn điều lệ; góp vốn có giá trị từ mười phần trăm (10%) trở lên tổng tài sản của tổ chức niêm yết vào một tổ chức khác; góp vốn có giá trị từ năm mươi phần trăm 16 (50%) trở lên tổng vốn của công ty nhận vốn góp; khi có các sự kiện có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tình hình quản trị của tổ chức niêm yết; khi giá cổ phiếu tăng trần hoặc giảm sàn năm (5) phiên liên tiếp mà không theo xu hướng chung của thị trường hoặc giá cổ phiếu niêm yết tăng trần hoặc giảm sàn từ mười (10) phiên liên tiếp trở lên; trường hợp họp đại hội đồng cổ đông bất thường... Bổ sung quy định tổ chức niêm yết phải công bố đầy đủ toàn bộ tài liệu họp đại hội đồng cổ đông thường niên và dự thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương trình họp trên trang thông tin điện tử đồng thời với việc gửi thông báo cho các cổ đông trước khi khai mạc họp đại hội cổ đông chậm nhất là bảy (7) ngày làm việc. Bổ sung quy định về công bố thông tin liên quan đến ngày đăng ký cuối cùng thực hiện quyền cho cổ đông hiện hữu và công bố thông tin liên quan đến quản trị công ty để đảm bảo tốt hơn quyền lợi của nhà đầu tư và trách nhiệm của tổ chức niêm yết liên quan tới việc tuân thủ các quy định pháp luật về quản trị công ty. Bổ sung quy định về việc công bố thông tin về giao dịch cổ phiếu của cổ đông lớn (tổ chức, cá nhân, nhóm người có liên quan nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty đại chúng phải báo cáo về sở hữu của cổ đông lớn) cho phù hợp với Luật Chứng khoán hiện hành và bổ sung quy định về công bố thông tin về giao dịch cổ phiếu của cổ đông sáng lập trong thời gian bị hạn chế chuyển nhượng theo quy định của Luật Doanh nghiệp để đảm bảo tính công khai minh bạch của thị trường. Bổ sung quy định công ty đại chúng phải công bố thông tin về việc chào bán chứng khoán và tiến độ sử dụng vốn thu được từ 17 đợt chào bán chứng khoán ra công chúng nhằm đảm bảo cho nhà đầu tư có thể giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn huy động. Đối với việc công bố thông tin định kỳ của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, bổ sung quy định hàng quý, công ty chứng khoán phải công bố thông tin về danh mục và giá các loại chứng khoán chưa niêm yết mà công ty làm môi giới giao dịch trong vòng 10 ngày đầu tháng tiếp theo trên trang thông tin điện tử và các ấn phẩm của công ty. Đối với việc công bố thông tin về quỹ đại chúng, bổ sung công bố thông tin về ngày đăng ký cuối cùng thực hiện quyền cho nhà đầu tư hiện hữu và công bố thông tin về giao dịch chứng chỉ quỹ của các đối tượng có liên quan. Thị trường chứng khoán nước ta đang có xu hướng phát triển nhanh, nhất là trong thời gian tới sẽ hoàn thành việc cổ phần hoá nhiều doanh nghiệp Nhà nước lớn. Do vậy, để thị trường phát triển minh bạch, hiệu quả, ngoài việc hoàn thiện các chính sách pháp lý liên quan, thì việc tham khảo kinh nghiệm của các nước có thị trường chứng khoán phát triển sẽ góp phần làm tăng tính hiệu quả trong công tác quản lý thị trường. Với các doanh nghiệp niêm yết cần tăng cường tính công khai minh bạch trong việc công bố thông tin cũng như chất lượng quản trị công ty. Và một yêu cầu quan trọng là phải thực thi tốt quy chế quản trị công ty áp dụng cho công ty niêm yết, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, trong đó, đặc biệt chú ý đến các chuẩn mực quốc tế về kế toán và kiểm toán doanh nghiệp. 18 Nguồn tài liệu tham khảo 1.Giáo trình thị trường chứng khoán- UBCKNN - NXB 2002 2.www.tinnhanhchungkhoan.com.vn 3.www.vneconomy.com.vn 4.www.ssc.com.vn 19 Đề tài :Tính minh bạch trong công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan