Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công t...

Tài liệu Mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

.PDF
60
666
78

Mô tả:

Mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KINH TẾ BÁO CÁO CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN Đề tài: Mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam Hà Nội, 05/2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KINH TẾ KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN Đề tài nghiên cứu: Mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam Hà Nội, 05/ 2016 Page 2 Chúng tôi xin cam đoan nghiên cứu “Mối quan hệ giữa điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết ở Việt Nam trong năm 2014” là công trình nghiên cứu độc lập của chúng tôi. Các trích dẫn, tài liệu tham khảo, các số liệu thống kê được sử dụng trong bài nghiên cứu là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Nhóm tác giả nghiên cứu Page 3 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………………………. 2 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................... 7 DANH MỤC BẢNG ..................................................................................................... 8 DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................... 9 I. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ................................................................. 10 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ........................................................... 10 1.3. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ............................................... 12 1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ................................................................ 12 1.5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 13 II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ................................. 14 2.1. Cơ sở lý thuyết .................................................................................................. 14 2.1.1. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận ................................................................... 14 2.1.2. Ý kiến kiểm toán ........................................................................................ 18 2.1.3 Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận.................. 21 2.2 Tổng quan nghiên cứu ...................................................................................... 25 2.3 Tóm tắt chương II: ............................................................................................ 31 III. XÁC ĐỊNH GIẢ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................ 33 3.1. Xây dựng giả thiết nghiên cứu ........................................................................ 33 3.2. Chọn mẫu .......................................................................................................... 34 3.3 Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................ 34 3.4 Mô hình nghiên cứu .......................................................................................... 34 3.4.1 Mô hình dùng để tính toán biến dồn tích có thể điều chỉnh (Dicretionary Accruals) ............................................................................................................... 35 3.4.2. Mô hình hồi quy tổng thể nhằm đánh giá mối quan hệ giữa điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán ............................................................................. 36 3.5 Quy trình nghiên cứu ........................................................................................ 38 3.6.1 Kiểm định giả thiết ..................................................................................... 39 Page 5 3.6.2 Kiểm định về ý nghĩa của các hệ số hồi quy:............................................ 40 IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................................. 41 4.1. Phân tích thống kê số liệu nghiên cứu ............................................................ 41 4.2 Phân tích tương quan........................................................................................ 45 4.3. Kiểm định đa cộng tuyến ................................................................................. 46 4.4 Kết quả phân tích hồi quy ................................................................................ 47 4.4.1 Đánh giá sự phù hợp của mô hình ............................................................ 47 4.4.2 Kiểm định về độ tin cậy của mô hình ........................................................ 47 4.4.3 Kiểm định giả thuyết về các hệ số của mô hình hồi quy mẫu ................. 47 4.4.4 Kiểm định giả thuyết nghiên cứu .............................................................. 48 V. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU........................................................... 52 5.1 Thảo luận kết quả nghiên cứu ......................................................................... 52 5.2. Hạn chế của bài nghiên cứu ............................................................................ 55 5.3. Hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................................................ 55 PHỤ LỤC: Danh sách các công ty niêm yết có ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần năm 2014 ................................................................................................... 59 Page 6 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt BCTC BCKQHĐKD BCLCTT CTCP DN DNNY EM GAAP HĐKD KTV SPSS TSCĐ VAS VSA Giải thích Báo cáo tài chính Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Công ty cổ phần Doanh nghiệp Doanh nghiệp niêm yết Earning management – (hành vi) điều chỉnh lợi nhuận Genneral accepted accounting principles Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung Hoạt động kinh doanh Kiểm toán viên Phần mềm thống kê kinh tế Tài sản cố định Vietnam accounting standard – Chuẩn mực kế toán Việt Nam Vietnam standards of auditing – Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Page 7 DANH MỤC BẢNG Bảng Tên bảng Bảng 2.1 Tóm tắt các công trình tổng quan nghiên cứu Bảng 3.1 Các biến độc lập của mô hình và cách tính Bảng 4.1 Bảng thống kê mô tả giá trị các biến độc lập Bảng 4.2 Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu Bảng 4.3 Kết quả phân tích quan hệ tương quan giữa các biến Bảng 4.4 Đánh giá sự phù hợp của mô hình Bảng 4.5 Kiểm định độ tin cậy của mô hình Bảng 4.6 Kết quả hồi quy Page 8 DANH MỤC HÌNH Hình Tên hình Hình 2.1 Sơ đồ tác động của REM và AEM lên lợi nhuận Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu Hình 4.1 Biểu đồ cơ cấu ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần Hình 4.2 Biểu đồ cơ cấu kết quả kinh doanh năm 2013 của mẫu nghiên cứu Hình 4.3 Cơ cấu công ty kiểm toán phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần Hình 4.4 Biểu đồ cơ cấu ý kiến kiểm toan năm 2013 của mẫu nghiên cứu Hình 4.5 Kết quả đánh giá hồi quy Page 9 CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trên thực tế, ban giám đốc thường được trả lương thưởng theo lợi nhuận của công ty, do đó họ thường có xu hướng dùng các thủ thuật để điều chỉnh lợi nhuận đạt mức mong muốn. Bên cạnh đó, một trong những yếu tố mà thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư đó là chỉ tiêu lợi nhuận. Từ chỉ tiêu lợi này, nhà đầu tư có thể đánh giá được tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, triển vọng tăng trưởng của công ty trong tương lai. Nhà đầu tư thường có xu hướng đầu tư vào công ty lợi nhuận cao hơn là những công ty có lợi nhuận thấp (Ambrose Jagongo, 2014). Theo Thomas P. Houck (2003) các công ty niêm yết thường có xu hướng điều chỉnh lợi nhuận để tạo ra kết quả kinh doanh hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và các thông tin trên BCTC có thể tác động tới giá cổ phiếu của công ty. Bên cạnh đó một công ty tư nhân cũng có thể “xào nấu” sổ sách (cooking the book) với mục đích cổ phần hóa trong tương lai. Những công ty tư nhân này cũng có thể sẽ che giấu thu nhập hoặc “thổi phồng” thu nhập phụ thuộc vào tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Do sự xuất hiện tình trạng xung đột lợi ích (conflict of interest) trên giữa chủ sở hữu và ban giám đốc và sự tồn tại thông tin bất đối xứng (information asymmetry) giữa ban giám đốc và người sử dụng BCTC nên cần một bên thứ ba độc lập để đánh giá sự trung thực và minh bạch của các thông tin được trình bày trên BCTC thể hiện tình hình tài chính của công ty (DeAngelo, 1981). Bên thứ ba này được biết đến như là các Kiểm toán viên, thực hiện công việc kiểm tra tính trung thực, minh bạch và hợp lý, hợp pháp của các thông tin trên BCTC của các công ty. Trách nhiệm của KTV đối với các bản BCTC là cung cấp cuối cùng được thể hiện thông qua ý kiến của KTV về bản BCTC đó. Cho đến nay đã có rất nhiều vụ bê bối kế toán kiểm toán xảy ra, điển hình như vụ bê bối kế toán của Enron. Cổ phiếu Enron từ đỉnh cao 90$ từ giữa năm 2000 đã giảm xuống chỉ còn chưa tới 1$ vào cuối tháng 11/2001, khiến nhà đầu tư mất hàng nghìn tỷ đô và khoảng 20 nghìn nhân viên Enron mất việc làm, nhiều người trong số họ mất luôn cả khoản tiết kiệm vì đã góp vốn vào công ty. Nguyên nhân của sự việc này là do Enron đã tìm cách thổi phồng lợi nhuận của mình, che dấu hàng tỷ USD bị thua lỗ, đồng thời tạo áp lực để Công ty Kiểm toán Arthur Andersan (một trong năm công ty kiểm toán lớn nhất thế giời) bỏ qua các vấn đề kế toán có rủi ro quan trọng. Trong khi đó, những người quan tâm lại hoàn toàn tin tưởng vào BCTC đã kiểm toán. Ngay khi bị phát hiện, Enron đã trở thành vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ tính Page 10 tới thời điểm đó. Rất nhiều các vụ bê bối khác như là Worldcom, Olympus, Tyco International, hay Parmalat và gần đây nhất là Toshiba… cũng đã khiến cho nhiều nhà đầu tư bị thua lỗ vì những quyết định đầu tư dựa trên các con số được điều chỉnh trên các bản BCTC đã được kiểm toán. Tại Việt Nam, nhiều nhà đầu tư đã bị “đánh lừa” bởi những con số đẹp được trình bày trên các bản BCTC đã được kiểm toán. Ví dụ như trường hợp công ty Dược Viễn Đông (DVD – sàn HSX) đã kinh doanh thua lỗ song BCTC vẫn thể hiện kết quả ấn tượng, nhưng cả hai công ty kiểm toán lớn là ACC và Ernst & Young đều không phát hiện ra hành vi điều chỉnh lợi nhuận của công ty này, khiến cho hàng nghìn nhà đầu tư thua lỗ vì đã tin tưởng vào BCTC đã được kiểm toán bởi công ty kiểm toán. Hay trong trường hợp ngược lại, các công ty như Tribeco (TRI), công ty Petrolimex, CTCP Quốc Cường Gia Lai (QCG), CTCP Vận tải biển và bất động sản Việt Hải (VSP), Tổng CTCP Phân bón và Hóa chất dầu khí (DPM) đã thực hiện hành vi điều chỉnh giảm lợi nhuận trên BCTC so với thực tế, tuy nhiên đã được phát hiện bởi các Kiểm toán viên cho thấy vai trò của KTV trong việc thực hiện chức năng kiểm tra của mình. Và gần đây nhất là vụ việc của Ngân hàng Thương mại Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), đã làm nhu cầu của nhà đầu tư về việc nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của ban giám đốc ngày càng tăng. Vấn đề được đặt ra là những công ty có hành vi điều chỉnh lợi nhuận có khả năng nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần cao hơn các công ty khác hay không? Đã có một số công trình nghiên cứu trên thế giới về mối quan hệ giữa ý kiến của KTV về BCTC và hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Charalambos Spathis và Maria Tsipouridou (2013) đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận đối với các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Athens ở Hy Lạp (Athens Stock Exchange – ASE), trong giai đoạn từ 2005 – 2011 và đưa ra kết luận ý kiến kiểm toán phụ thuộc vào khả năng hoạt động liên tục của công ty chứ không phụ thuộc vào hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kathleen Herbohn, Vanitha Ragunathan (2008) đã nghiên cứu tất cả các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Australia giai đoạn từ 1999-2003, cho rằng điều chỉnh lợi nhuận không phải là nguyên nhân của ý kiểm kiểm toán không chấp nhận toàn phần. Arnedo Ajona cùng cộng sự (2008) cũng nghiên cứu về mối quan hệ này đối với những công ty có mức độ rủi ro cao tại thị trường Tây Ban Nha, cho thấy điều chỉnh lợi nhuận có mối quan hệ cùng chiều với việc phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần…Tuy nhiên, trên thị trường Việt Nam có tồn tại mối quan hệ này hay không thì vẫn chưa có một bài nghiên cứu nào cho vấn đề này. Do đó, đây sẽ là bài nghiên cứu đầu tiên về mối quan hệ đã được nêu ra. Vậy trên tổng thể, KTV có phát hiện ra những hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường hay không? Để trả lời cho câu hỏi này dựa trên cơ sở khoa học thì thật cần thiết để có một bài nghiên cứu cho mối quan hệ này. Page 11 Dựa trên các bài nghiên cứu trước đây trên thế giới và tình hình thực tế tại Việt Nam về hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Ban giám đốc và việc phát hành các ý kiến kiểm toán của KTV đối với các bản BCTC của các công ty niêm yết, nhóm nghiên cứu nhận ra thực sự cần thiết của nghiên cứu về mối quan hệ này. 1.2. Đóng góp dự kiến của đề tài Về mặt khoa học, nghiên cứu được thực hiện để tìm hiểu mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường Việt Nam. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu này sẽ giúp những người quan tâm tới BCTC có cái nhìn khách quan hơn tới tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Cụ thể nếu kết quả của bài nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận cùng chiều thì các báo cáo đã kiểm toán càng có độ tin cậy cao và ngược lại nếu không tồn tại mối quan hệ này thì các đối tượng bên ngoài cần tham khảo thêm từ các nguồn thông tin khác để có quyết định phù hợp hơn. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu Mục tiêu chính của bài nghiên cứu là kiểm định mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán chấp nhận không toàn phần và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong công ty niêm yết tại Việt Nam. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đặt ra mục tiêu tìm hiểu về hành vi điều chỉnh lợi nhuận và phân tích một số nhân tố ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần. Để trả lời cho mục tiêu nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đặt ra những câu hỏi nghiên cứu chi tiết cho vấn đề này như sau: Thứ nhất, ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần và hành vi điều chỉnh lợi nhuận có mối quan hệ như thế nào? Thứ hai, ngoài điều chỉnh lợi nhuận, trong mô hình được xây dựng có những nhân tố nào ảnh hưởng tới việc phát hành ý kiến không chấp nhận toàn phần của KTV? 1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu: Để đánh giá mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong DN, nhóm nghiên cứu đã tham khảo các nghiên cứu trước đây và đã tiến hành nghiên cứu tất cả các DN đang niêm yết (khoảng gần 900 DN) trên sàn chứng khoán HNX và HOSE và đã chọn ra được 92 DN nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần đối với BCTC năm 2014. Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong các công ty là đối tượng nghiên cứu của đề tài. Page 12 1.5. Phương pháp nghiên cứu Nhóm nghiên cứu dùng phương pháp định lượng. Mẫu số liệu sử dụng trong BCTC đã kiểm toán của các công ty niêm yết ở Việt Nam. Phần mềm nhóm nghiên cứu sử dụng để kiểm định mô hình là phần mềm SPSS. Page 13 CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận Khái niệm điều chỉnh lợi nhuận Cho đến nay vẫn chưa có một câu trả lời thống nhất cho câu hỏi điều chỉnh lợi nhuận (earning management) là gì. Thuật ngữ điều chỉnh lợi nhuận xuất hiện từ khá sớm. Trong bài nghiên cứu của Schipper (1989): “Điều chỉnh lợi nhuận là một sự can thiệp có tính toán trong quá trình cung cấp thông tin tài chính nhằm đạt được những mục đích cá nhân”. Điều chỉnh lợi nhuận phản ánh hành động của ban giám đốc trong việc lựa chọn các phương pháp kế toán để mang lại lợi ích cho họ hoặc làm gia tăng giá trị thị trường của công ty (Scott 1997). Trong khi đó, Healy and Whalen (1999) cho rằng, điều chỉnh lợi nhuận xảy ra khi ban giám đốc sử dụng các ước tính kế toán hoặc giao dịch nội bộ để nhằm thay đổi BCTC, đánh lạc hướng người sử dụng thông tin trên BCTC về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty hoặc làm ảnh hưởng đến kết quả của các hợp đồng mà phụ thuộc vào số liệu kế toán trên BCTC (ví dụ: hợp đồng tín dụng với ngân hàng, hợp đồng thù lao giữa ban giám đốc và công ty…). Ronen và Yaari (2008) đã tổng hợp lại các nghiên cứu trước đó và đưa ra một định nghĩa và phân loại điều chỉnh lợi nhuận như sau: “điều chỉnh lợi nhuận là hành vi của ban giám đốc sử dụng việc ghi nhận trên cơ sở dồn tích thông qua một số tài khoản để làm thay đổi lợi nhuận sau thuế theo các mục tiêu công bố thông tin của họ”. Trong nghiên cứu của Ronen và Yaari, tùy thuộc vào động cơ mà điều chỉnh lợi nhuận có thể được phân làm 3 nhóm: Điều chỉnh lợi nhuận trắng (White Earnings Management): Ban giám đốc dựa trên lợi thế về quyền lực để lựa chọn các chính sách kế toán một cách linh hoạt nhằm thông báo tín hiệu cá nhân của họ về dòng tiền của DN trong tương lai (Ronen và Sadan, 1981; Demski, Patell, và Wolfson, 1984; Suh, 1990; Demski, 1998; Beneish, 2001, Sankar và Subramanyam, 2001). Loại này được xem là có lợi và làm gia tăng chất lượng BCTC. Mục đích của ban giám đốc là muốn công bố nhiều thông tin với chất lượng tốt hơn đến người sử dụng, giúp các các nhà đầu tư khám phá ra các mong đợi của họ về các dòng tiền mà DN sẽ mang lại trong tương lai (Beneish, 2011). Điều chỉnh lợi nhuận xám (Grey Earnings Management): Các ban giám đốc lựa chọn các chính sách kế toán trong hoặc ngoài các giới hạn cho phép nhằm làm gia tăng giá trị của DN hoặc vì vụ lợi của họ (Watts và Zimmerman, 1990; Fields, Lys, và Vincent 2001). Page 14 Điều chỉnh lợi nhuận đen (Black Earnings Management): Là hành vi sử dụng các thủ thuật của ban giám đốc để làm sai lệch hoặc giảm sự minh bạch của các BCTC (Schipper, 1989; Levitt, 1998; Healy và Wahlen 1999; Tzur và Yaari, 1999; Chtourou, Bédard, và Courteau, 2001; Miller và Bahnson, 2002). Theo Carmen Joosten (2012), lợi nhuận bao gồm dòng tiền từ hoạt động và dòng tiền tích lũy, ban giám đốc công ty có 2 phương thức để điều chỉnh lợi nhuận: Điều chỉnh lợi nhuận bằng các giao dịch thực (Real earning management): Công ty có thể điều chỉnh lợi nhuận thông qua những chỉnh sửa từ hoạt động kinh doanh bình thường, vì vậy dòng tiền từ hoạt động kinh doanh có thể bị ảnh hưởng. Những chỉnh sửa từ hoạt động kinh doanh bình thường để điều chỉnh BCKQHĐKD này được gọi là điều chỉnh lợi nhuận bằng các giao dịch thực (REM) (Rowchowdhury, 2006). Điều chỉnh lợi nhuận bằng các ước tính kế toán (Accrual-based earning management): Công ty có thể thay đổi mức độ dồn tích để có được lợi nhuận như mong muốn. Việc ban giám đốc sử dụng các ước tính để lập BCTC được gọi là điều chỉnh lợi nhuận trên cơ sở ước tính (AEM) (Healy and Wahlen, 1999). Ban giám đốc quyết định các quyết định kinh doanh Những hoạt động kinh doanh thực phát sinh Phát sinh các giao dịch Hoặc thay đổi giá trị Ban giám đốc lựa chọn các ước tính kế toán Những nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận được ghi nhận hệ thống kế toán Lợi nhuận thuần trên kết quả hoạt động kinh doanh Hình 2.1 Sơ đồ tác động của REM và AEM lên lợi nhuận Ở Việt Nam, thuật ngữ Earning Management (EM) được dịch ra với nhiều cách khác nhau như: điều chỉnh lợi nhuận, quản trị thu nhập, điều chỉnh lợi nhuận… Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là những nghiên cứu của Việt Nam về EM thường đi theo hướng tiêu cực như những phương pháp để “làm đẹp” BCTC hay “những thủ thuật phù phép BCTC”. Nhóm nghiên cứu đã thống nhất trong bài nghiên cứu này thuật ngữ EM được dùng với nghĩa điều chỉnh lợi nhuận. Page 15 Đã có một số bài nghiên cứu và bài báo trong nước bàn về vấn đề điều chỉnh lợi nhuận như bài viết của tác giả Lê Minh Thủy, công ty tư vấn tài chính Capstone đăng trên tạp chí “Nhịp cầu đầu tư” ngày 26/04/2010 với tựa đề “Nỗi niềm mùa BCTC” đã đưa ra các phương pháp kế toán mà chủ sở hữu hay ban giám đốc sử dụng đề làm sai lệch về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của DN nhưng các phương pháp này lại là các phương pháp gian lận như: dùng nghiệp vụ ảo, che giấu giao dịch, phù phép về thời gian ghi nhận giao dịch. Bài viết với tiêu đề “Hoạt động quản trị kết quả kinh doanh trên thế giới và khuyến nghị cho các DN Việt Nam” (11/2011) của Ts. Trần Thị Kim Anh, với nội dung chính là các khái niệm, cách phân loại, các phương pháp điều chỉnh lợi nhuận và kiến nghị cho DN Việt Nam. Ngoài ra, Ths. Phạm Thị Bích Vân (2013), đã cung cấp cho các nhà đầu tư ở Việt Nam một số cách để đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận trên BCTC. Trong nghiên cứu này, tác giả cũng nhắc đến 5 thủ thuật mà ban giám đốc sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận như: lựa chọn các phương pháp kế toán, lựa chọn thời điểm vận dụng các phương pháp kế toán và các ước tính các khoản chi phí doanh thu, lựa chọn thời điểm đầu tư hay thanh lý tài sản cố định, dàn xếp thông qua các giao dịch thực. Phương pháp đo lường điều chỉnh lợi nhuận Theo Renick van Oosterbosch (2009), để đo lường điều chỉnh lợi nhuận có 3 phương pháp tiếp cận: Phương pháp thứ 1 là đo lường biến dồn tích không thể điều chỉnh được (non discretionary accruals) dựa vào mối quan hệ giữa tổng dồn tích và giả thuyết giải thích các yếu tố. Mô hình sử dụng cách tiếp cận được gọi là mô hình tổng dồn tích, ví dụ như mô hình của Healy (1985) và Jones (1991); Dechow (1995); Deangelo (1986) Phương pháp thứ 2 là sử dụng một mô hình dồn tích cụ thể. Trong nghiên cứu thực nhiệm sử dụng mô hình dồn tích cụ thể, trọng tâm thường là một ngành công nghiệp cụ thể nơi có mức dồn tích lớn hoặc các biến dồn tích đơn lẻ. Wilson (1988), Petroni (1992), Beaver và Engel (1996) Phương pháp thứ 3: quan sát mức dồn tích trong một khoảng cụ thể. Cách tiếp cận này xem xét tính chất thống kê của thu nhập để xác định hành vi đó ảnh hưởng đến thu nhập. Burgstahler và Dichev (1997), Degeorge (1999). Có khá nhiều nghiên cứu nổi tiếng dựa trên phương pháp thứ nhất như mô hình của Jones (1991); Dechow (1995); Kaszmik (1999); Kothari (2005). Trong những bài nghiên cứu này, công thức tính tổng dồn tích được được xác định dựa trên 2 phương thức hạch toán cơ bản của kế toán: cơ sở dồn tích và cơ sở tiền. Kế toán theo cơ sở dồn tích là phương pháp hạch toán dựa trên cơ sở dự thu – dự chi. Theo VAS 01, “mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của công ty liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu và chi phí phải được ghi sổ kế toán Page 16 vào thời điểm phát sinh giao dịch, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền”. Kế toán theo cơ sở tiền: là phương pháp hạch toán dựa theo cơ sở thực thu – thực chi tiền. Kế toán theo cơ sở tiền chỉ cho phép ghi nhận các giao dịch khi các giao dịch này phát sinh bằng tiền. Nguyễn Thị Minh Trang (2012), BCKQHĐKD phải được ghi nhận theo cơ sở dồn tích. Điều này mang lại cơ hội cho ban giám đốc thực hiện hành động điều chỉnh lợi nhuận thông qua các giao dịch không bằng tiền nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Trong khi đó, kế toán theo cơ sở tiền được sử dụng để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ (theo phương pháp trực tiếp) dựa trên cơ sở thực thu, thực chi tiền nên ban giám đốc không thể điều chỉnh các giao dịch. Từ đó chênh lệch giữa lợi nhuận trên BCKQHĐKD và dòng tiền trên BCLCTT (theo phương pháp trực tiếp) tạo ra biến kế toán gọi là Accruals. Vì vậy, công thức tính tổng dồn tích (total accrual) được xác định như sau: Biến kế toán dồn tích (Accruals) = Lợi nhuận sau thuế - Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh (Phạm Thị Bích Vân, 2013). Dòng tiền từ HĐKD trên BCLCTT được lập theo cơ sở tiền nên không thể điều chỉnh được, nên muốn điều chỉnh lợi nhuận các ban giám đốc phải điều chỉnh các biến kế toán dồn tích. Theo các nhà nghiên cứu, các biến kế toán dồn tích (Accruals) gồm hai phần: phần không thể điều chỉnh (NDA) và phần có thể điều chỉnh từ ban giám đốc (DA). Ví dụ như giảm khoản nợ phải thu do phải tăng dự phòng phải thu khó đòi vì mức dự phòng cần trích lập lớn hơn so với năm trước, lự a chọn mức lập dự phòng nào trong giới hạn cho phép của chế độ kế toán đều là ý muốn chủ quan của ban giám đốc. Như vậy biến kế toán này có thể điều chỉnh được. Nhưng giảm khoản nợ phải thu do thắt chặt chính sách tín dụng của DN thì không thể thay đổi theo ý muốn của ban giám đốc được (Ths. Nguyễn Thị Minh Trang, 2012). Vì vậy, đo lường phần biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh được là đo lường hành vi điều chỉnh lợi nhuận của DN. Các nhà nghiên cứu trước đây đã sử dụng nhiều cách khác nhau để đo lường biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh. Mô hình của Healy (1985): Healy là người đầu tiên phát triển mô hình tổng dồn tích. Mô hình này sử dụng giá trị trung bình của tổng dồn tích trong suốt kỳ đo lường như một đại diện cho biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh, vì thế biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh được đo lường bằng chênh lệch giữa biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh và tổng dồn tích. Mô hình của Deangelo (1986), sử dụng tổng dồn tích năm trước để để đo lường biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh của năm nay. Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh bằng tổng dồn tích trừ đi biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh. Page 17 Mô hình của Jones (1991), một cách tiếp cận hồi quy để kiểm soát các nhân tố không thể điều chỉnh đến tổng dồn tích, như là ảnh hưởng của việc thay đổi lĩnh vực kinh tế của công ty – có mối quan hệ tuyến tính rõ ràng giữa tổng dồn tích và thay đổi trong doanh thu, tài sản, nhà máy và thiết bị. Mô hình của Dechow (1995) dựa trên mô hình của Jones (1991) nhưng sự thay đổi doanh thu được điều chỉnh bằng sự thay đổi của khoản phải thu trong năm. Tính linh hoạt của các chuẩn mực và chế độ kế toán hay sự khác biệt về chế độ kế toán giữa các quốc gia đã cho phép ban giám đốc có thể thực hiện một số phương thức để điều chỉnh chỉ tiêu lợi nhuận trong BCTC để mang lại lợi ích cho công ty trong việc phát hành cổ phiếu, thu hút đầu tư, san bằng lợi nhuận giữa các kỳ kế toán, hoặc mang lại lợi ích cho chính ban giám đốc thông qua hợp đồng thù lao, tiền lương. Ths. Phạm Thị Bích Vân (2013) đã đưa ra một số ví dụ về các thủ thuật mà ban giám đốc có thể thực hiện để điều chỉnh lợi nhuận. Đối với phương thức điều chỉnh lợi nhuận thông qua các ước tính kế toán và chính sách kế toán, ban giám đốc có thể điều chỉnh chi phí khấu hao thông qua ước tính thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ, hoặc thời điểm trích lập khấu hao. Ban giám đốc còn có thể lựa chọn chính sách hàng tồn kho nào có lợi nhất đối với DN của mình. Đối với phương thức điều chỉnh lợi nhuận thông qua các giao dịch thực, ban giám đốc có thể tăng doanh thu thông qua các chính sách giá và tính dụng. Cụ thể, biện pháp mà ban giám đốc thường sử dụng để tăng lợi nhuận khi thấy có nguy cơ không đạt kế hoạch đề ra là giảm giá hàng bán hoặc nới lỏng các điều kiện tín dụng, tăng khuyến mãi nhằm tăng lượng hàng bán ra, từ đó tăng doanh thu. Ban giám đốc cũng có thể ký các hợp đồng bán hàng đối với khách hàng mà trong đó, hàng được bán và ghi nhận doanh thu vào cuối năm tài chính năm nay, nhưng sẽ được trả lại vào đầu năm tài chính năm sau. 2.1.2. Ý kiến kiểm toán Nội dung quan trọng nhất trong báo cáo kiểm toán là ý kiến nhận xét của KTV về thông tin được kiểm toán. Trong báo cáo về kiểm toán Báo cáo kiểm toán, ý kiến nhận xét của kiểm toán viên thường có sự phân định rõ, đặc biệt là ý kiến nhận xét của kiểm toán viên độc lập về BCTC đã được kiểm toán. Do vậy đã hình thành nên các loại báo cáo kiểm toán khác nhau, trong đó có ý kiến nhận xét khác nhau. Để hình thành nên ý kiến nhận xét về BCTC, KTV phải căn cứ vào kết quả kiểm toán về đánh giá, soát xét để đưa ra các kết luận về các khía cạnh sau đây: - Các BCTC lập ra có phù hợp với các thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực kế toán hiện hành hoặc chấp nhận hay không Các thông tin tài chính có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính trên các mặt trọng yếu hay không. Các thông tin tài chính có phù hợp với các quy định pháp lý hiện hành không. Page 18 - Toàn cảnh các thông tin tài chính của doanh nghiệp có nhất quán với hiểu biết của KTV về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hay không. Tùy theo kết quả của từng cuộc kiểm toán BCTC, KTV có thể đưa ra ý kiến thuộc một trong các loại ý kiến sau đây: - Ý kiến chấp nhận toàn phần Ý kiến chấp nhận từng phần Ý kiến từ chối (từ chối đưa ra ý kiến) Ý kiến không chấp nhận ý kiến trái ngược) Tương ứng với mỗi loại ý kiến nhận xét là một loại báo cáo kiểm toán. Ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng chấp nhận toàn phần Ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra khi KTV cho rằng BCTC phản ánh trung thực, hợp lý trên tất cả các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính của đơn vị là phù hợp với các chuẩn mực kế toán xác định. Đồng thời mọi thay đổi về nguyên tắc kế toán và ảnh hưởng của chúng đã được đánh giá đúng và được nên ra trong thuyết minh BCTC. Trong một số trường hợp KTV có thể đưa ra báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần với một đoạn nhận xét thêm (đoạn ghi thêm ý kiến) để làm sáng tỏ thêm một vài yếu tố ảnh hưởng đến BCTC và là đối tượng của một đoạn thuyết minh chi tiết hơn. Đoạn nhận xét này không ảnh hương gì đến ý kiến của KTV. Ví dụ như đoạn nhấn mạnh về một vấn đề trọng yếu liên quan đến tính liên tục cảu hoạt động kinh doanh hoặc một tình huống không chắc chắn nghiêm trọng vì vấn đề đặt ra còn phụ thuộc vào một sự kiện trong tương lai nằm ngoài khả năng khả năng kiểm soát của đơn vị và KTV và có thể ảnh hưởng đến BCTC (như một vụ kiện đang có sự điều tra, thẩm định; một khoản doanh thu có thể không được chấp nhận). Đoạn nhận xét thường được đặt sau đoạn nêu ý kiếnvà nói rõ rằng đoạn nhận xét thêm này không phủ nhận (không trái ngược) với ý kiến đã nêu. KTV có thể đưa vào đoạn nhận xét thêm những vấn đề cần lưu ý thêm cho người đọc về BCTC của đơn vị mà KTV cho là cần thiết nhưng không liên quan trực tiếp đến BCTC (ví dụ những thông tin khác đi kèm BCTC đã được kiểm toán) và không ảnh hưởng đến ý kiến nhận xét cả KTV. Ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng chấp nhận từng phần KTV đưa ra ý kiến nhận xét dạng chấp nhận từng phần khi KTV cho rằng không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần do còn có những yếu tố chưa xác nhận được hoặc không đồng ý với đơn vị. Những yếu tố này là quan trọng nhưng không liên quan tới một số lượng lớn các khoản mục tới mức có thể dẫn đến ý kiến “từ chối” hoặc ý kiến “không chấp nhận”. Ý kiến chấp nhận từng phần được thể hiện bởi thuật ngữ “ngoại trừ” và nêu rõ ảnh hưởng của những vấn đề ngoại trừ. Vấn đề ngoại trừ có thể do phạm vi kiểm toán bị giới hạn hay không đồng ý với đơn vị. Page 19 Phạm vi kiểm toán bị giới hạn là khi KTV không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán mà họ cho là cần thiết. Nguyên nhân giới hạn phạm vi kiểm toán có thể là do bản thân đơn vị hoặc do hoàn cảnh khách quan. Nếu phạm vi kiểm toán bị giới hạn mà KTV không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán cần thiết thì KTV không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán cần thiết thì KTV không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán cần thiết thì KTV không có đủ bằng chứng để đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. Phạm vi kiểm toán bị hạn chế ở mức độ không lớn thì KTV đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, có yếu tố ngoại trừ. KTV có thể không đồng ý với đơn vị về việc lựa chọn và áp dụng chuẩn mực, chế độ kế toán hay tính thích hợp của các thông tin đưa ra trong thuyết minh BCTC ở mức độ không lớn thì KTV cũng đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, có yếu tố ngoại trừ. Khi đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần có yếu tố ngoại trừ, KTV phải mô tả rõ ràng trong báo cáo kiểm toán những lý do chủ yếu dẫn đến loại ý kiến này do phạm vi bị giới hạn hay bởi bất đồng với đơn vị. Những lý do đó phải được ghi trong một đoạn riêng, đặt trước đoạn nêu ý kiến và có thể được tham chiếu đến một đoạn thuyết minh chi tiết hơn trong BCTC (nếu có). Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 Báo cáo kiểm toán đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần còn được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng BCTC chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu. Yếu tố tùy thuộc là yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn, như các vấn đề liên quan đến tính liên tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc một khoản doanh thu có thể không được công nhận làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Yếu tố tùy thuộc do kiểm toán viên nêu ra thường liên quan đến các sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và kiểm toán viên. Việc đưa ra yếu tố tùy thuộc cho phép kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người đọc BCTC phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện có thể xảy ra. Ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng từ chối (không thể đưa ra ý kiến) KTV đưa ra ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng từ chối trong trường hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà KTV không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về BCTC. Các phạm vi kiểm toán bị giới hạn trong trường hợp này là không thể vượt qua được. KTV phải mô tả đầy đủ và rõ ràng những giới hạn trong báo cáo kiểm toán và chỉ ra rằng nếu không tồn tại Page 20 giới hạn trong báo cáo kiểm toán và chỉ ra rằng nếu không tồn tại giới hạn này thì rất có thể phải có những điều chỉnh trên BCTC. Đoạn mô tả đó phải được đặt trước đoạn nêu ý kiến của KTV. Ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng không chấp nhận (ý kiến trái ngược) KTV đưa ra ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng không chấp nhận trong trường hợp việc KTV không đồng ý với đơn vị là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng các khoản mục khiến KTV không thể đưa ý kiến dạng “ngoại trừ”. KTV có thể không đồng ý với các nhà quản lý đơn vị về: - Việc lựa chọn và áp dụng chuẩn mực, chế độ kế toán. Sự thể hiện trung thực và hợp lý của các thông tin trong thuyết minh BCTC Việc tuân thủ các quy định, hoặc luật lệ hiện hành. KTV phải mô tả đầy đủ và rõ ràng những điểm không đồng ý với đơn vị và định lượng (nếu được) những ảnh hưởng tới BCTC của những sự kiện đó. Đoạn mô tả đó phải được đặt trước đoạn nêu ý kiến của KTV. Trong trường hợp này KTV không được đưa ra ý kiến nhận xét dạng từ chối để né tránh việc đưa ra ý kiến dạng không chấp nhận. Trong trường hợp cần thiết, KTV có thể nêu dẫn chứng về những điểm không đồng ý với đơn vị trong phần phụ lục đính kèm báo cáo kiểm toán. Theo Nguyễn Viết Lợi và Đặng Ngọc Châu (2013) Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán, NXB Tài chính, Hà Nội. 2.1.3 Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận Mục đích của kiểm toán là làm tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với báo cáo tài chính, thông qua việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không. Để kiểm toán viên có cơ sở để đưa ra ý kiến kiểm toán, chuẩn mực kiểm toán quốc tế yêu cầu kiểm toán viên đạt được sự đảm bảo hợp lý về việc liệu báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc do nhầm lẫn hay không. Sự đảm bảo hợp lý là sự đảm bảo ở mức độ cao và chỉ đạt được khi kiểm toán viên đã thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán (là rủi ro do kiểm toán viên đưa ra ý kiến không phù hợp khi báo cáo tài chính còn chứa đựng sai sót trọng yếu) tới một mức độ thấp có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, sự đảm bảo hợp lý không phải là đảm bảo tuyệt đối, do luôn tồn tại những hạn chế vốn có của cuộc kiểm toán làm cho hầu hết bằng chứng kiểm toán mà kiểm toán viên dựa vào để đưa ra kết luận và ý kiến kiểm toán đều mang tính thuyết phục hơn là khẳng định. Page 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan