Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoạt động phát hành chứng khoán tại việt nam...

Tài liệu Hoạt động phát hành chứng khoán tại việt nam

.DOC
26
195
57

Mô tả:

Hoạt động phát hành chứng khoán tại việt nam
LỜI MỞ ĐẦU *********************************** Trên thế giới, trong nhiều năm trở lại đây, kênh huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng đang là một kênh huy động vốn đầu tư rất tiềm năng cho các doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp thường ưu tiên lựa chọn hình thức huy động vốn này để mở rộng quy mô về tài chính, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán trên thế giới phát triển và ngày càng hoàn thiện. Theo xu hướng đó, thị trường chứng khoán Việt Nam trong 10 năm qua đã phát triển một cách nhanh chóng và đạt được những thành tựu nhất định, nhưng so với các thị trường khác trên thế giới, Việt Nam vẫn chỉ là một thị trường non trẻ với nhiều bất cập. Vì vậy, hoạt động phát hành chứng khoán ở Việt Nam vẫn có rất nhiều vướng mắc khiến các doanh nghiệp thường rất đắn đo khi lựa chọn phương thức huy động vốn này. Vậy, Phát hành chứng khoán là gì? Khi nào nên lựa chọn hình thức phát hành chứng khoán? Phát hành như thế nào để có hiệu quả? Những thành tựu và hạn chế của hoạt động phát hành chứng khoán ở Việt Nam?... Để hiểu rõ những vấn đề trên của việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán và nâng cao kiến thức về thị trường tài chính hiện nay, nhóm chúng tôi đã quyết định chọn đề tài: “Hoạt Động Phát Hành Chứng Khoán Tại Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của nhóm. Đề tài này sẽ được nhóm giới hạn trong phần phát hành chứng khoán của doanh nghiệp và những ảnh hưởng của việc phát hành đối với nền kinh tế cũng như doanh nghiệp hiện nay. 1 PHẦN A: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN “Phát hành chứng khoán là tiền đề quan trọng trong quá trình luân chuyển chứng khoán, nó là điều kiện quyết định sự thành công trong quá trình huy động vốn đối với các chủ thể phát hành chứng khoán” (giáo trình thị trường tài chính-ĐH Kinh tế) 1. Phát hành chứng khoán – một kênh huy động vốn của doanh nghiệp: 1.1. Khái niệm: Việc chào bán chứng khoán mới trên thị trường sơ cấp gọi là phát hành chứng khoán. Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức lần đầu tiên ra công chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khoán cùng loại lưu thông trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung. 1.2. Vai trò: Đối với nền kinh tế: Phát hành chứng khoán làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Qua đó hình thành các kênh dẫn vốn và phân phối vốn hiệu quả đến với những dự án đầu tư có hiệu quả, tạo ra nhiều giá trị kinh tế nhất. Tạo điều kiện phát triển hoàn thiện các loại thị trường có liên quan như tín dụng, chứng khoán và thị trường bất động sản. Đối với doanh nghiệp Thông qua kênh phát hành chứng khoán, doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong việc huy động nguồn vốn đầu tư. Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp công ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn cũng như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn. Thông qua việc phát hành và niêm yết chứng khoán trên thị trường, doanh nghiệp có thể quảng bá cho hình ảnh của mình, đem lại nhiều lợi thế. 1.3. Các hình thức phát hành chứng khoán. 1.3.1. Phát hành riêng lẻ. 1.3.1.1. Khái niệm: Là việc phát hành chứng khoán cho một số lượng hạn chế nhà đầu tư (thường là cho nhà đầu tư chiến lược hoặc nhà đầu tư lớn có ý định nắm giữ chứng khoán lâu dài hoặc cho cổ đông hiện hữu, cán bộ - công nhân viên) kèm theo những điều kiện nhất định, chứ không phát hành rộng rãi ra công chúng. Số lượng hạn chế được hiểu là số lượng nhỏ hơn 100 nhà đầu tư. Việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. 2 1.3.1.2. Điều kiện phát hành Theo Luật chứng khoán và nghị định 01/2010/NĐ-CP về phát hành chứng khoán riêng lẻ các đối tượng được phép phát hành chứng khoán riêng lẻ là: - Doanh nghiệp thuộc các đối tượng sau: + Công ty cổ phần + Các doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty cổ phần, ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Có quyết định thông qua phương án chào bán cổ phần riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị theo Điều lệ công ty hoặc uỷ quyền của Đại hội đồng cổ đông cho Hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần); hoặc Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển thành cổ phần); hoặc chủ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh (đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần). Phương án chào bán phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được chào bán dưới 100 nhà đầu tư và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán. Trường hợp chào bán cho các đối tác chiến lược, tổ chức chào bán phải xây dựng tiêu chí xác định, lựa chọn đối tác chiến lược. Đối tác chiến lược là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp; chuyển giao công nghệ mới, cung ứng nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm; gắn bó lợi ích lâu dài với doanh nghiệp. Những người có quyền liên quan đến đợt chào bán riêng lẻ không được tham gia biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông về việc này. - Có hồ sơ đăng kí chào bán cổ phần riêng lẻ đầy đủ và hợp lệ theo quy định gửi tới cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chậm nhất 20 ngày trước ngày dự kiến thực hiện việc chào bán, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định. - Trường hợp tổ chức chào bán là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, phải đáp ứng thêm điều kiện được pháp luật chuyên ngành quy định. 1.3.2. Phát hành chứng khoán ra công chúng 1.3.2.1. Định nghĩa Là việc phát hành trong đó chứng khoán có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. 3 1.3.2.2. Điều kiện phát hành: Theo Luật doanh nghiêp 2005, Luật chứng khoán 2006. Nghị định 14/2007/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định 84/2010/NĐ-CP bổ sung nghị định 14 Thông tư 59/2004/TT-BTC hướng dẫn phát hành cổ phiếu ra công chúng và thông tư 75/2004/TT-TBC hướng dẫn về phát hành trái phiếu ra công chúng: - Cổ phiếu: + Phát hành lần đầu:  Mức vốn điều lệ đã góp tối thiểu 10 tỷ đồng theo giá trị sổ sách  Lợi nhuận sau thuế của năm liền trước năm phát hành là số dương. Không có lỗ lũy kế đến năm đăng ký phát hành  Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu và được hội đồng cổ đông thông qua  Phát hành thông qua tổ chức trung gian.  Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc việc phát hành + Phát hành thêm cổ phiếu:  Lần phát hành thêm phải cách 1 năm sau lần phát hành trước  Giá trị cổ phiếu phát hành thêm không lớn hơn tổng giá trị cổ phiếu đang lưu hành - Trái phiếu:  Là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký phát hành tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam.  Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có lãi. Không có lỗ lũy kế, không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 1 năm  Phải có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được và phải được thông qua bởi Hội Đồng Quản Trị hoặc Hội Đông Thành Viên hoặc Chủ sở hữu công ty.  Phải có tổ chức bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp tổ chức phát hành là tổ chức tín dụng  Có cam kết thực hiện nghĩa vụ đối với người đầu tư  Xác định đại diện người sở hữu trái phiếu 1.4. Quy trình phát hành chứng khoán: 1.4.1. Nộp hồ sơ đăng kí Theo thông tư 17/2007/TT-BTC: - Hồ sơ xin cấp phép phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng gồm có: 4  Đơn đăng ký phát hành;  Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty;  Điều lệ công ty;  Quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng;  Bản cáo bạch;  Danh sách và sơ yếu lý lịch thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát;  Các báo cáo tài chính 02 năm liên tục liền trước năm đăng ký phát hành đã được kiểm toán;  Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có). - Hồ sơ phát hành thêm: Hồ sơ đăng ký phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng để tăng vốn, bao gồm việc phát hành quyền mua cổ phần hoặc chứng quyền, phải có các tài liệu:  Đơn đăng ký phát hành;  Quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng;  Bản cáo bạch;  Danh sách và sơ yếu lý lịch thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát;  Các báo cáo tài chính 02 năm liên tục liền trước năm đăng ký phát hành đã được kiểm toán  Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có). Nếu có các sửa đổi bổ sung thì phải có tất cả những tài liệu như phát hành lần đầu. Nếu phát hành nhiều đợt phải có lịch phát hành của từng đợt cụ thể trong kế hoạch phát hành chung, ghi rõ khối lượng, thời gian dự kiến phát hành từng đợt. - Hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành trái phiếu ra công chúng gồm có:  Đơn đăng ký phát hành;  Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty;  Điều lệ công ty;  Bản cáo bạch; 5  Danh sách và sơ yếu lý lịch thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát;  Các báo cáo tài chính 02 năm liên tục liền trước năm đăng ký phát hành đã được kiểm toán;  Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có).  Cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với người đầu tư.  Quyết định của Hội đồng quản trị thông qua việc phát hành trái phiếu ra công chúng;  Hợp đồng giữa tổ chức phát hành trái phiếu với đại diện chủ sở hữu trái phiếu.  Biên bản xác định giá trị tài sản bảo đảm hoặc Giấy chấp thuận bảo lãnh thanh toán của tổ chức bảo lãnh trong trường hợp phát hành trái phiếu có bảo đảm Hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành chứng khoán ra công chúng được gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp hoặc từ chối cấp giấy phép. Trường hợp từ chối cấp giấy phép, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải giải thích rõ lý do bằng văn bản . 1.4.2. Công bố việc phát hành Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày được cấp giấy phép phát hành, tổ chức phát hành có nghĩa vụ công bố việc phát hành trên năm số liên tiếp của một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương nơi tổ chức phát hành đặt trụ sở chính. Tổ chức phát hàh, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc đại diện chỉ được sử dụng thông tin trong hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành đã được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận để phát hành. 1.4.3. Phân phối chứng khoán ra công chúng Tổ chức phát hành phải phát hành chứng khoán theo phương án đã được duyệt trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày giấy phép phát hành có hiệu lực. Quá thời hạn trên, tất cả các chứng khoán chưa bán hết không được phát hành tiếp ra công chúng. 1.4.4. Báo cáo kết quả việc phát hành 6 Trong vòng 10 ngày sau khi kết thúc đợt phát hành, tổ chức phát hành phải báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về kết quả đợt phát hành. Tổ chức phát hành phải thực hiện chế độ báo cáo định kì về tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh theo quy định của phát luật và của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Tổ chức phát hành phải kịp thời báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và công bố công khai các thông tin có thể tác động đến giá chứng khoán của tổ chức phát hành Trong trường hợp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người đầu tư, Ủy ban Chứng khoán Nhà nứơc có quyền yêu cầu tổ chức phát hành báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh. Các báo cáo tài chính của tổ chức phát hành phải tuân thủ pháp luật về kế toán và kiểm toán của Nhà nước. Trường hợp một tổ chức phát hành sở hữu từ 50% vốn cổ phần trở lên của một tổ chức khác thì trong các báo cáo tài chính pahỉ bao gồm cả báo cáo tài chính có cổ phần của tổ chức phát hành. 1.5. Bảo lãnh phát hành chứng khoán. Để đảm bảo cho sự thành công và chuyên nghiệp của hoạt động phát hành chứng khoán, các doanh nghiệp cần đến nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán của các tổ chức trung gian. 1.5.1. Khái niệm cơ bản Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại, hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành, hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng. Tổ chức bảo lãnh phát hành là Công Ty Chứng Khoán được phép hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán và ngân hàng thương mại được Ủy Ban Chứng Khoán chấp thuận bảo lãnh phát hành trái phiếu theo điều kiện do Bộ Tài chính quy định. Thông thường, để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành cần phải được sự bảo lãnh phát hành. Nếu số lượng phát hành không lớn thì chỉ cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu đó là một công ty lớn và số lượng chứng khoán phát hành vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao gồm một hoặc một số tổ chức bảo lãnh chính và một số tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên. Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng một khoản phí bảo lãnh nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát hành (lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn). Đối với trái phiếu, phí bảo lãnh phụ thuộc vào lãi suất trái phiếu (lãi suất trái phiếu thấp thì phí bảo lãnh phát hành cao và ngược lại) 7 1.5.2. Các Phương thức bảo lãnh 1.5.2.1. Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ chứng khoán phát hành, cho dù có phân phối hết hay không. 1.5.2.2. Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán, mà cam kết sẽ cố gắng hết mức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng phần không phân phối hết sẽ được trả lại cho tổ chức phát hành. 1.5.2.3. Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không bán gì: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành nếu không bán hết số chứng khoán thì huỷ bỏ toàn bộ đợt phát hành. 1.5.2.4. Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức bảo lãnh trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không bán gì. Theo phương thức này, tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành phải bán tối thiểu một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát hành. Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ. Ở Việt Nam, bảo lãnh phát hành được thực hiện theo một trong hai phương thức sau: - Mua một phần hay toàn bộ số lượng cổ phiếu hoặc trái phiếu được phép phát hành để bán lại. - Mua số cổ phiếu hoặc trái phiếu còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết. Đây thực chất là một dạng của phương thức cam kết chắc chắn, nhưng tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết mua phần chứng khoán còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết. 1.5.3. Điều kiện bảo lãnh phát hành  Các Công Ty Chứng Khoán chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán; vốn pháp định để thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán là 100 tỷ đồng, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là 165 tỷ đồng. 8  Không vi phạm pháp luật chứng khoán trong 6 tháng liên tục liền trước thời điểm bảo lãnh.  Tổng giá trị bảo lãnh phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành vào thời điểm cuối quý gần nhất tính đến ngày ký hợp đồng bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.  Có tỷ lệ vốn khả dụng trên nợ điều chỉnh trên 6% trong 3 tháng liền trước thời điểm nhận bảo lãnh phát hành. Hạn chế bảo lãnh phát hành Tổ chức bảo lãnh phát hành không được bảo lãnh phát hành theo hình thức cam kết chắc chắn trong các trường hợp sau đây:  Tổ chức bảo lãnh phát hành độc lập hoặc cùng các công ty con của tổ chức bảo lãnh phát hành có sở hữu từ 10% trở lên vốn điều lệ của tổ chức phát hành;  Tối thiểu 30% vốn điều lệ của tổ chức bảo lãnh phát hành và của tổ chức phát hành là do cùng một tổ chức nắm giữ. Trường hợp đợt phát hành có tổng giá trị cam kết bảo lãnh lớn hơn hai lần vốn chủ sở hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành, phải lập tổ hợp bảo lãnh phát hành, trong đó có tổ chức bảo lãnh phát hành chính và các tổ chức bảo lãnh phát hành phụ. Khi một Công Ty Chứng Khoán bảo lãnh phát hành Chứng Khoán, công ty đó phải mở một tài khoản riêng biệt tại một ngân hàng đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam để nhận tiền đặt mua chứng khoán của khách hàng. 2. Các phương pháp phát hành chứng khoán: 2.1. Phương pháp phát hành trực tiếp 2.1.1. Khái niệm Phát hành trực tiếp là hình thức chào bán trực tiếp tới các nhà đầu tư, tù đó các nhà đầu tư có thể đăng ký mua và nộp tiền trực tiếp tại tổ chức phát hành chứng khoán.hoặc bán cổ phiếu trên Internet thông qua một công ty môi giới điện tử. 2.1.2. Ưu-Nhược điểm Loại hình chào bán tự mình làm lấy này tiết kiệm được tiền bằng cách loại bỏ bớt các khoản chi phí phải trả cho nhà bảo lãnh. Tuy vậy, công ty vẫn phải đảm bảo thoả mãn các quy định hồ sơ lưu của SEC. Một nhược điểm quan trọng của chào bán trực tiếp các cổ phiếu chưa niêm yết chính thức trên một sở giao dịch chứng khoán hoặc không được giám sát bởi các phân tích viên thị trường là thường việc giao dịch xẩy ra ở quy mô rất bé, hoặc không thường xuyên. Điều này có thể hạn chế sự hứng thú của nhà đầu tư vào chính cổ phiếu đó. 9 2.2. Phát hành thông qua đấu giá 2.2.1. Khái niệm: Gồm đấu giá kiểu Anh và đấu giá kiểu Hà Lan. - Đấu giá tăng dần kiểu Anh cho nhiều sản phẩm, người đặt giá sau phải đặt giá cao hơn mức giá đặt mua cao nhất trước đó. - Đấu giá kiểu Hà Lan là hình thức đấu giá trong đó người báo giá sẽ đặt ra một mức giá chào bán cao, mức giá này sẽ được hạ thấp dần cho đến khi có người tham gia chấp nhận mua hoặc khi giá chạm đến một mức giá được đặt từ trước (mức chấp nhận tối thiểu của người bán). Người chiến thắng trong cuộc đấu giá sẽ thanh toán theo mức giá được công bố. 2.2.2. các hình thức đấu giá -Đấu thầu trực tiếp tại doanh nghiệp phát hành chứng khoán -Đấu thầu thông qua các tổ chức tài chính trung gian -Đấu thầu thông qua Sở giao dịch chứng khoán 2.2.3. Quy trình đấu giá Bước 1 - Chuẩn bị đấu giá - Cơ quan quyết định cổ phần hóa/Ban chỉ đạo cổ phần hóa xác định giá khởi điểm của cổ phần đấu giá. - Công bố thông tin về doanh nghiệp chuẩn bị tổ chức đấu giá tối thiểu 20 ngày trước ngày tổ chức đấu giá. - Phối hợp với cơ quan tổ chức đấu giá thuyết trình về doanh nghiệp cho nhà đầu tư nếu cần. Bước 2 - Thực hiện đấu giá - Cơ quan tổ chức đấu giá tiến hành nhận đơn đăng ký mua và tiền đặt cọc của nhà đầu tư theo quy chế đánh giá - Nhà đầu tư bỏ phiếu tham dự đấu giá bằng các hình thức: Bỏ phiếu trực tiếp tại doanh nghiệp (nếu tổ chức đấu giá tại doanh nghiệp); Bỏ phiếu trực tiếp tại tổ chức tài chính trung gian (nếu tổ chức đấu giá tại tổ chức tài chính trung gian); Bỏ phiếu trực tiếp tại Trung tâm giao dịch chứng khoán/Sở giao dịch chứng khoán và các đại lý được chỉ định; Bỏ phiếu qua đường bưu điện do cơ quan tổ chức đấu giá quy định . Bước 3 - Tổ chức đấu giá và xác định kết quả đấu giá - Cơ quan tổ chức đấu giá tiến hành các thủ tục bóc phiếu tham dự đấu giá và nhập các thông tin vào phần mềm đấu giá. - Xác định kết quả đấu giá theo nguyên tắc lựa chọn giá đặt mua từ cao xuống thấp đến khi đủ số lượng cổ phần chào bán. Tại mức giá trúng thầu thấp 10 nhất, với trường hợp các nhà đầu tư cùng đặt mức giá bằng nhau, nhưng tổng số cổ phần còn lại ít hơn tổng số cổ phần đăng ký mua thì số cổ phần của từng nhà đầu tư được mua xác định như sau: Số cổ phần nhà đầu tư được mua = Số cổ phần còn lại x (Số cổ phần từng nhà đầu tư đăng ký mua/Tổng số cổ phần các nhà đầu tư đăng ký mua) - Lập các biên bản liên quan đến buổi đấu giá gửi cho cơ quan quyết định cổ phần hóa, Ban chỉ đạo cổ phần hóa, doanh nghiệp và cơ quan tổ chức đấu giá - Công bố kết quả đấu giá cổ phần và thu tiền mua cổ phần. 2.2.4. Những khó khăn -Doanh nghiệp chưa chắc có đủ chất lượng để thu hút các nhà đầu tư tham gia đấu giá -Đấu giá dẫn đến một nhu cầu nhất định của thị trường đối với chứng khoán nhưng không mang lại lợi ích thực cho thị trường giao dịch chứng khoán do đó không đem đến động lực thực sự. - Quyền lợi và trách nhiệm của các bên hữu quan không thể xác định rõ ràng, do đó khó có thể hy vọng đấu giá cổ phiếu qua thị trường giao dịch chứng khoán sẽ là phương thức phát hành hiệu quả. 11 PHẦN B: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM 1. Thực trạng hoạt động phát hành chứng khoán tại VN: 1.1. Thực trạng phát hành trái phiếu Từ lúc hình thành thị trường chứng khoán đến năm 2007 chỉ có 10 doanh nghiệp phát hành trái phiếu, gồm có: PetroVietnam, Tổng công ty cao su, Vinashin, Electric Vietnam Copreration (EVN), Lilama Vietnam Steel Corperation, Vilexim, Tổng Công ty cổ phần xây dựng điện Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Vinaconex. Tất cả các công ty này đều là những đơn vị đầu ngành hoặc các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Thực tế, nhu cầu của họ là nguồn vốn lớn, dài hạn và ổn định để đáp ứng yêu cầu, mà những nguồn vốn này khó có thể vay được từ một ngân hàng. Thực ra uy tín của các công ty này đủ để đề nghị với ngân hàng bất kì khoản vay nào, tuy nhiên, các ngân hàng cũng có những giới hạn trong việc cho vay như khoản vay tối đa phải dưới 15% tổng vốn chủ sở hữu. Do vậy, thị trường trái phiếu là một kênh cần thiết để huy động lượng vốn lớn, dài hạn. Dưới đây là bảng thống kê 10 doanh nghiệp phát hành trái phiếu cho đến năm 2007. Tình hình phát hành trái phiếu doanh nghiệp TT Tổ chức phát hành 1 Tổng công ty Dầu khí Giá trị phát hành (tỷ VND) Thời hạn Lãi suất 8,5% năm đầu, năm sau thả nổi 2 8,60% 300 5 40 7.103 300 1 2.6 2 Đợt 1 500 2 Đợt 2 300 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 5 500 1,000 300 5 10 2 Đợt 1 3.203 3 10 9%/năm, trả lãi 2 Tổng công ty Cao su 3 TCT công nghiệp tàu thủy Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 (5 đợt) Năm 2007 8,20% 9,6%/năm, trả lãi sau hàng năm 9,6%/năm, trả lãi sau hàng năm 10%/năm 10,5 9,6 12 Đợt 2 Đợt 3 4 TCT Sông Đà Năm 2005 Đợt 1 Năm 2006 TCT điện lực Việt Nam Năm 2005 Đợt 1 Năm 2006 Lần 1 - đợt 1/2006 6 7 200 3 9,3%/năm, trả lãi hàng năm 260 Đợt 1 5 200 3 460 200 sau hàng năm 2 8,95 10 9,4 260 năm đầu 5 10,5%/năm, năm sau thả nổi 6.2 200 200 5 8,8%/năm đầu, năm sau thả nổi 6 9,6% năm đầu, năm sau thả nổi, +1,2% 9,6 %năm đầu, 9,6% năm đầu, 9,5% năm đầu, 9,6%/năm, cố định 9,6%/năm, các năm sau bằng LS tiền gửi 9,6%/năm đầu, các năm sau 9,95% Cố định 9,7%/năm 350 5 Lần 1 - đợt 2/006 Lần 2/2006 Lần 3 1.15 500 900 5 5 5 Lần 4 đợt 1 600 5 Lần 4- đợt 2 500 5 Lần 5 1 10 Lần 6 - đợt 8 1 10 1.5 500 1 500 5 10 5 9,60% 9,20% 8,8 % 400 5 9,5%/năm LILAMA ( 2007) Lần 1 Lần 2 Lần 3 TCT Thép Việt Nam ( 2007) 13 8 9 10 VINACONEX ( 2007) TCTCP xây dựng điện VN Vilexim (2007) Năm 2007 Tổng cộng 1 3%/năm, 6 kèm quyền mua cổ phiếu 500 3 5 5 3 3 10,15 % 17.068 ( Nguồn: Bộ Tài Chính) Năm 2008, tình hình lãi suất tăng cao trong bối cảnh lạm phát đã khiến việc phát hành trái phiếu phải chịu lãi suất rất cao. Đây chính là lý do trong phần lớn thời gian này hầu như không có đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp nào được tiến hành. Năm 2009, lãi suất thị trường ổn định đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Cụ thể, có bốn đợt phát hành được coi là thành công, dù ở mức độ và bản chất khác nhau: 1.000 tỷ đồng của Vinpearl, 3.000 tỷ đồng của Vinashin, 3.500 tỷ đồng của EVN và 700 tỷ đồng của Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc (KBC). Cho thấy so với năm 2007 việc phát hành trái phiếu là xu hướng mới của các doanh nghiệp Việt Nam bởi việc vay vốn ngân hàng, vốn góp từ cổ đông hay hình thức hùn vốn đang gặp khó khăn. Tiếp tục trên đà này, năm 2010 hàng loạt các công ty đã huy động vốn thành công qua việc phát hành trái phiếu. Chẳng hạn, Tập đoàn Sông Đà đã huy động được 1.500 tỉ đồng (tương đương 79 triệu USD), Tập đoàn Vincom phát hành trái phiếu chuyển đổi quốc tế thành công với giá trị lên đến 100 triệu USD, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai phát hành trái phiếu chuyển đổi cho Temasek Holdings 1.100 tỉ đồng trái phiếu. Và từ đầu năm 2011 đến thời điểm này, trước các giải pháp thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát của Chính phủ, thị trường trái phiếu vẫn đang trong tình cảnh ảm đạm cả trên thị trường sơ cấp và thứ cấp. Hiện tại vẫn chưa có đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp nào của năm 2011 thành công, trong khi giá trị huy động trái phiếu chính phủ cũng đạt ở mức thấp. - Kỳ hạn: Hầu hết các trái phiếu được phát hành đều có kỳ hạn dài, ngắn nhất là 2 năm, dài nhất là 10 năm. Ví dụ như: Trái phiếu EVN hầu hết đều có kỳ hạn 10 năm, đầu tư vào các công trình thuỷ điện, cải tạo mạng lưới điện quốc gia. Trái phiếu Vinaconex và Lilama phát hành thường có kỳ hạn 5 năm. Để khuyến khích các nhà đầu tư, Vinanconex phát hành trái phiếu kèm theo chứng quyền (warrant) là quyền mua cổ phiếu của Nhà máy xi măng Cẩm Phả với mức giá ưu đãi. - Lãi suất: 14 Đa số các trái phiếu đều trả lãi sau, với phương thức trả lãi hàng năm (coupon), lãi suất cố định. Một số năm gần đây các công ty có phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi, được điều chỉnh căn cứ vào lãi suất Trái phiếu Chính Phủ hoặc lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Về cơ bản, lãi suất trái phiếu doanh nghiệp đều cao hơn lãi suất đấu thấu trái phiếu chính phủ So sánh với lãi vay ngân hàng, có thể thấy lãi suất này vẫn thấp hơn so với lãi suất vay ngân hàng ( trung bình 10%-12%/năm đối với dự án vay trung dài hạn). Thực ra, đây chỉ là lãi suất danh nghĩa, không phải lãi suất thực, trong bối cảnh lạm phát tăng, lãi suất thực có xu hướng xuống dưới mức 0%. Điều này có thể giải thích tại sao các nhà đầu tư tỏ ra thờ ơ với việc đầu tư vào trái phiếu. - Phương thức bão lãnh: Hầu hết các công ty đều phát hành trái phiếu thông qua một tổ chức làm đại lý phát hành. Đại lý phát hành được lựa chọn đảm nhận cung cấp dịch vụ tư vấn phát hành bao gồm bảo lãnh, phát hành và thanh toán theo lãi suất coupon hay theo mệnh giá. Các công ty chứng khoán là những thành viên chính trên thị trường này, bên cạnh các ngân hàng cổ phần, các công ty bảo hiểm hay kiểm toán. Với những lợi thế về thông tin và đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, họ là những nhà cung cấp chính của dịch vụ này. Hiện tại, dịch vụ tư vấn bảo lãnh phát hành vẫn là một trong những dịch vụ còn khá non trẻ ở các công ty chứng khoán, tỷ trọng doanh thu từ dịch vụ này chỉ chiếm khoảng từ 5% đến 10% trong tổng doanh thu từ dịch vụ tư vấn. Các công ty chứng khoán thuộc ngân hàng thường tận dụng hệ thống mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc để làm đại lý phát hành cho doanh nghiệp, nếu không, các công ty không thể bán trái phiếu với khối lượng lớn. 1.2. Thực trạng phát hành cổ phiếu: Việc phát hành chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam gắn liền với sự phát triển của thị trường chứng khoán từ năm 2000. Trong những năm chập chững của thị trường từ năm 2000 đến năm 2005 dường như các doanh nghiệp chưa quan tâm nhiều mấy đến việc phát hành chứng khoán. Số lượng công ty phát hành còn hạn chế. Tuy nhiên đến năm 2006, với sự nóng lên của thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện cho việc phát hành của doanh nghiệp. Lúc này, các doanh nghiệp ồ ạt IPO và niêm yết trên sàn. Số lượng doanh nghiệp IPO tăng lên trên 800% so với năm 2000 đem lại lượng vốn lớn cho nền kinh tế. Năm 2007 được xem là thời kỳ hoàng kim của hoạt động phát hành chứng khoán. Trong thời gian này hầu hết các doanh nghiệp được cổ phần hóa cũng đã đem lạ sự sôi động trong việc phát hành cổ phiếu ra công chúng. Tổng lượng vốn huy động được lên đến 63.000 tỷ đồng. Đến năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nên tình hình IPO trở nên ảm đạm. Theo thống kê của UBCK, năm 2008, Ban Quản lý phát hành, UBCK, đã xử lý và cấp phép 92 hồ sơ đăng ký, tuy nhiên cũng có khá nhiều doanh nghiệp xin hoãn phát hành. Trong đó chỉ có một số ít doanh nghiệp phát hành 15 thành công như Sabeco, Habeco, Vietinbank thì đa số đợt chào bán của các doanh nghiệp còn lại đã không bán hết số cổ phần chào bán. Nhưng sự thành công của Sabeco, Habeco, Vietinbank chỉ là so với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn, trên thực tế Tổng công ty Bia, Rượu, Nước giải khát Hà Nội (Habeco) chỉ bán được 4,38 trệu cổ phần trong số 34,77 triệu cổ phần đưa ra đấu giá trong đợt (IPO) cuối tháng 3, trước đó, Tổng công ty Bia, Rượu, Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) cũng thất bại trong đợt IPO khi chỉ bán được 60% lượng cổ phần chào bán. Từ đó cho thấy nguồn vốn huy động được giảm khoảng 75%-80% so với năm 2007. Năm 2009, thị trường chứng khoán có vẻ tăng điểm dần, trái với thì hoạt động phát hành lại lâm vào cảnh “chợ chiều”. theo Sở Giao diachj chứng khoán HCM (HOSE) và Sở Giao dịch chứng khoán HN (HNX) trong những tháng đầu năm chỉ tiến hành IPO cho khoảng 27 doanh nghiệp, số lượng cổ phần bán được cho các nhà đầu tư không bao nhiêu. Với sự thờ ơ của nhà đầu tư, nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc chào bán dù số lượng không nhiều, điển hình như CTCP Bến bãi Sòi Gòn chỉ bán được 22.000 trong tổng số 600.000 cổ phần chào bán trong phiên đấu giá ngày 16/10 (HOSE). Tình hình cũng không khá hơn đối với các doanh nghiêp IPO với số lượng lớn, chẳng hạn như Công ty Dây & Cáp điện Việt Nam (Cadivi) bán được hơn 50.000 cổ phần so với lượng chào bán 2,4 triệu; Công ty TNHH một thành viên Nước sạch Sài Gòn bán được 45.000 trên tổng số 1,6 triệu cổ phần chào bán; Công ty Cấp thoát nước Bình Thuận đấu giá 3,6 triệu cổ phần nhưng nhà đầu tư chỉ đang kí mua hơn 540.000 cổ phần. Có những doanh nghiệp phải đấu giá nhiều lần mới thực hiện được IPO như Công ty Du lịch Bình Thuận. thậm chí nhiều doanh nghiệp phải hủy phiên đấu giá do không có nhà đầu tư tham gia. Ngược với năm 2009, năm 2010 nở rộ hoạt động phát huy động, lượng vốn huy động được gấp 3 lần so với năm 2009 (biểu đồ dưới đây). Lượng vốn huy động được qua các năm 16 ( Nguồn: StoxPlus) Tình hình từ đầu năm 2011 đến nay theo dự báo có thể hàng trăm triệu cổ phiếu của các doanh nghiệp phát hành thêm sẽ được tung ra thị trường nay mai. Mặc dù thị trường chứng khoán đang diễn ra hết sức ảm đạm, khối lượng giao dịch của hai sàn có phiên chỉ hơn 600 tỉ đồng, mức thấp nhất trong vòng 2 năm qua nhưng nhiều công ty vẫn sẵn sàng đưa cổ phiếu ra niêm yết trong năm nay. Nhiều công ty đã niêm yết cũng có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu. Điều này có thể được giải thích bởi thị trường vốn đang trở nên khó khăn, nguồn vốn từ ngân hàng dành cho DN rất eo hẹp, vì vậy các doanh nghiệp phải tìm cách huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, việc phát hành còn tùy vào tình hình thị trường, bởi hiện nay đã có rất nhiều cổ phiếu có thị giá dưới mệnh giá nhưng vẫn hiếm người mua nên việc DN phát hành cổ phiếu thành công là không đơn giản. 2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân 2.2. Đối với việc phát hành trái phiếu 2.2.1. Tỷ lệ huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu còn thấp Thị trường phát hành trái phiếu ở Việt Nam qua một thời gian dài phát triển vẫn không thể có được tỷ lệ huy động cao bằng các nước trên thế giới cũng như trong khu vực. Theo thống kê của Bộ Tài Chính, đến năm 2010, tỷ lệ huy động vốn thông qua trái phiếu tại Việt Nam chỉ chiếm 17% GDP, trong đó trái phiếu doanh nghiệp chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Nguyên nhân trước hết là do thuộc tính của trái phiếu như tính thanh khoản kém, yếu tố rủi ro thanh toán cao. Trái phiếu thường được phát hành với khối lượng và giá trị niêm yết lớn, trong khi những người nắm giữ Trái phiếu trên thị trường sơ cấp là các nhà đầu tư có tổ chức. Nói cách khác, nhu cầu giao dịch phát sinh là các giao dịch lớn và ít mang tính tương thích thời điểm, hạn chế tính thanh khoản của trái phiếu. Lý do là giao dịch trái phiếu đòi hỏi một lượng vốn lớn, chỉ thích hợp với các nhà đầu tư có tổ chức, trong khi thị trường trái phiếu hiện nay có rất ít các nhà đầu tư có tổ chức. Một nhân tố khác làm giảm khả năng huy động vốn là cơ chế xác định lãi suất đấu thầu trên thị trường sơ cấp hiện không mang tính thị trường, vì áp dụng lãi suất chỉ đạo nên chưa thu hút được nhu cầu đầu tư của các cá nhân, tổ chức. Quy định lãi suất đặt thầu phải cao hơn lãi suất chỉ đạo sẽ khiến cho lãi suất trúng thầu mang tính khiên cưỡng chủ quan hơn là mang tính khách quan thị trường. Điều này cũng có thể dẫn tới tình trạng khối lượng trúng thầu sẽ bị hạn chế đi rất nhiều so với khối lượng dự định phát hành và sẽ chỉ bó hẹp trong phạm vi một số nhỏ các nhà đầu tư. Khối lượng trúng thầu thấp cộng với một số nhỏ các nhà đầu tư nắm giữ sẽ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Một vấn đề khác Đối tượng nhà đầu tư hạn chế cả về số lượng và quy mô vốn. Hiện nay, đối tượng nhà đầu tư chủ yếu vẫn là các ngân hàng thương mại. Các loại hình nhà đầu tư khác như công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, doanh nghiệp tham gia rất hạn chế và thiếu vắng sự tham gia của ngân hàng đầu 17 tư, quỹ hưu trí hay quỹ tương hỗ. Hơn nữa, quy mô vốn dành cho đầu tư trái phiếu trung - dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản của các định chế tài chính và việc đầu tư trung - dài hạn này chịu sự điều tiết của các quy định pháp luật liên quan đến an toàn hoạt động nên phần nào hạn chế khả năng tham gia của nhà đầu tư trên thị trường, dẫn đến tính thanh khoản của thị trường trái phiếu không cao. Hiện nay, uy tín của doanh nghiệp Việt Nam được đánh giá là chưa cải thiện nhiều, chưa tạo được độ tin cậy cho các nhà đầu tư. Trong khi đó, các tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp lại chưa có nhiều. Trung tâm Thông tin tín dụng thuộc Ngân Hàng Nhà Nước cũng đã thực hiện nghiệp vụ xếp hạng tín dụng doanh nghiệp và xếp hạng tín dụng doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, những xếp hạng này cũng chỉ có tính chất tạm thời. Đây là lý do vì sao mà chỉ các doanh nghiệp lớn mới phát hành thành công trong khi các doanh nghiệp nhỏ lại khó khăn trong việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. 2.2.2. Chủ thể doanh nghiệp tiến hành phát hành còn hạn chế. “Phát hành trái phiếu đang được nhiều doanh nghiệp lựa chọn như là một kênh huy động vốn hiệu quả. Tuy nhiên, trái phiếu doanh nghiệp dường như vẫn chỉ là “sân chơi” của doanh nghiệp lớn bởi những quy định khắt khe về đối tượng được phát hành trái phiếu. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp hầu như vắng bóng các doanh nghiệp nhỏ. Đây là thực tế đã tồn tại từ vài năm nay và hiện vẫn chưa có nhiều cải thiện.” ( Theo thitruongtaichinh.vn) Thực tế thời gian qua, chỉ có các doanh cổ phần lớn, các ngân hàng hay doanh nghiệp nhà nước mới phát hành trái phiếu, nhiều công ty phát hành trái phiếu riêng lẻ cho cổ đông chiến lược, chứ không phát hành ra công chúng. Ví dụ: Ngày 26/5, theo thông báo từ ông Brett Krause, Tổng giám đốc Citibank Việt Nam, Ngân hàng thu xếp cho đợt phát hành trái phiếu nội tệ của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản (Vinacomin), 1.500 tỷ đồng trái phiếu nội tệ của Vinacomin đã nhanh chóng được các nhà đầu tư mua hết chỉ trong vài ngày. Hơn 10 nhà đầu tư, chủ yếu là các ngân hàng quốc doanh và cổ phần, công ty bảo hiểm,... đã đặt mua gấp 2 lần chào bán của Vinacomin. Tương tự, cuối tháng 4 vừa qua, Ngân hàng ANZ tại Việt Nam và Công ty Tài chính cổ phần Điện lực (EVNFinance) cũng công bố hoàn tất việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp thời hạn 5 năm có tổng trị giá 3.500 tỷ đồng của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Đây là đợt phát hành trái phiếu đồng Việt Nam lớn nhất trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam từ trước tới nay. Trái phiếu EVN kỳ hạn 5 năm, ngoài mức lợi suất 10,4%/năm cho năm đầu tiên, các năm tiếp theo trái chủ sẽ nhận được mức lợi suất thả nổi. Mức lợi suất thả nổi được tính bằng lãi suất cho vay kỳ hạn 12 tháng bình quân của 4 ngân hàng quốc doanh cộng với 2,75%/năm. Nguyên nhân bắt nguồn từ việc chưa có nhiều tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp. Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp là một trong những tiêu chí quan trọng để ngân hàng hay nhà đầu tư quyết định có cho doanh nghiệp vay hay không. 18 Bên cạnh các chỉ tiêu tài chính còn có các chỉ tiêu phi tài chính như: trình độ, năng lực quản lý, kinh nghiệm điều hành,... Các chỉ tiêu này sẽ được chấm điểm và xếp hạng doanh nghiệp. Thông qua các sự xếp hạng này, các thông tin liên quan đến uy tín của doanh nghiệp không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn có thể trong khu vực và thế giới. Một chuyên gia tài chính khác cũng nhận xét, các doanh nghiệp phát hành đều là những doanh nghiệp lớn nhất trong các ngành. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp còn được Chính phủ bảo đảm nên rủi ro không có khả năng chi trả là thấp. Để thị trường trái phiếu phát triển, trong đó tất cả các loại hình doanh nghiệp có thể phát hành thì cần thiết phải có chuẩn mực về xếp hạng tín dụng hay xếp hạng trái phiếu doanh nghiệp. 2.2.3. Các doanh nghiệp chưa chú trọng đến việc phát hành và niêm yết trên thị trường. Mặc dù phát hành trái phiếu là kênh huy động vốn hiệu quả nhưng một số các doanh nghiệp lại chưa chú trọng đến việc phát hành và niêm yết. Một phần vì những nhận thức và hiểu biết về các sản phẩm trái phiếu của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó khung pháp lý về phát hành trái phiếu ở nước ta vẫn chưa phù hợp với sự phát triển của thị trường hiện nay. Trước những khó khăn trên, các doanh nghiệp chủ động tìm đến các khoản vay ngân hàng… thay vì phát hành trái phiếu, đó cũng là vật cản để thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển và ổn định. 2.3. Đối với việc phát hành cổ phiếu 2.3.1. Hạn chế về quy định chuyển nhượng và thủ tục phát hành chứng khoán. Đối với doanh nghiệp, vốn là yếu tố cần thiết để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển, đặc biệt trong tình hình nền kinh tế đang gặp khủng hoảng và thị trường chứng khoán đang bao trùm sắc đỏ. Một kênh huy động vốn hấp dẫn của doanh nghiệp là phát hành riêng lẻ, dễ dàng đem về cho doanh nghiệp khoản thặng dư lớn. Hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ được bán chủ yếu cho nhà đầu tư chuyên nghiệp, không tổ chức công bố thông tin công khai. Vì vậy, theo các nhà soạn luật, cần phải hạn chế chuyển nhượng cổ phần nhằm ngăn chặn hành vi lợi dụng phát hành cho số lượng hạn chế rồi chào bán tiếp ra công chúng. Với mục đích đó, Luật chứng khoán quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần, trái phiếu chuyển đổi chào bán riêng lẻ tối thiểu là 1 năm. Tuy nhiên với quy định hiện hành, cụ thể quy định việc chuyển nhượng cổ phần chào bán riêng lẻ bị hạn chế tối thiểu 1 năm, kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán, sẽ làm cho kế hoạch tăng vốn của Công ty gặp khá nhiều khó khăn. Thực tế, với quy định hiện hành, chỉ những doanh nghiệp nào có giá chứng khoán phát hành thấp, có đối tác làm ăn lâu dài, thì may ra phát hành riêng lẻ mới thành công. Việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần đối với phát hành riêng lẻ tối thiểu lên đến 1 năm là quá khắt khe, không tạo ra sức hấp dẫn để thu hút nhà đầu tư mua cổ phần. 19 Một năm là quá dài và có thể xuất hiện nhiều rủi ro, nên thay vì tham gia mua cổ phần phát hành riêng lẻ, nhà đầu tư mua trên thị trường tập trung để vừa tránh được rủi ro thanh khoản, vừa không bị hạn chế thời gian chuyển nhượng. Điều này đang khiến các doanh nghiệp gần như bó tay khi thực hiện tăng vốn qua kênh phát hành riêng lẻ. Vì vậy, nếu quy định hạn chế chuyển nhượng chứng khoán riêng lẻ không được Luật Chứng khoán sửa đổi nới lỏng, thì sẽ không tháo gỡ được bế tắc hiện nay trong phát hành chứng khoán riêng lẻ của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. 2.3.2. Xảy tình trạng loãng giá do phát hành thêm chứng khoán. Theo lý thuyết lựa chọn vốn (giáo sư Stewart C. Myers năm 1984), công ty khi có nhu cầu về vốn sẽ ưu tiên sử dụng vốn thặng dư sẵn có, sau đó đến vốn vay hoặc huy động vốn cổ đông thông qua phát hành cổ phiếu mới. Để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần thêm vốn để hoạt động. Khi nguồn vốn thặng dư không đủ đáp ứng nhu cầu, doanh nghiệp sẽ cần tìm đến các nguồn tài trợ khác như đi vay hay phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế đang khủng hoảng, Chính phủ đang thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, nâng cao lãi suất khiến kênh huy động vốn từ đi vay của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn (do phải đối mặt với lãi suất cao). Trong cơn khát vốn, doanh nghiệp buộc quay sang trông chờ vào việc phát hành cổ phiếu. Nhìn lại giai đoạn cuối 2006 đầu năm 2007, khi nhu cầu nắm giữ cổ phiếu cao của các nhà đầu tư, hàng loạt các công ty phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng đã được thị trường hưởng ứng mạnh mẽ. Giá các cổ phiếu giai đoạn này được chào bán cao hơn bình quân gấp 6-12 lần mệnh giá, gấp 4-7 lần giá khởi điểm, đơn cử đợt phát hành của Tổng công ty Bảo hiểm dầu khí (PVI), mức giá trung bình cao gấp 14 lần giá khởi điểm trong đợt đấu giá lần đầu. Trong bối cảnh đó, huy động vốn từ phát hành cổ phần thật sự là một kênh hấp dẫn. Tuy nhiên trong tình hình hiện nay, khi chỉ số VN-Index đang thấp(450-500 điểm), nhiều công ty cổ phần đang đau đầu trước tình trạng loãng giá chứng khoán sau khi phát hành cổ phần mới, cổ phiếu thưởng. Khi lực cầu thị trường không đủ mạnh, việc phát hành cổ phiếu để huy động sẽ không còn dễ dàng vì không bán được sẽ ảnh hưởng đến uy tín công ty và số cổ phiếu bán được cũng đem lại khoản thu hạn chế, đồng thời lượng cổ phiếu phát hành mới sẽ dẫn đến giảm giá cổ phiếu do tác động pha loãng. Như vậy, việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế gặp khủng hoảng, lực cầu thị trường không cao sẽ đẩy doanh nghiệp đối mặt với vấn đề loãng giá đưa đến tác động tiêu cực làm giá chứng khoán giảm do số lượng cổ phiếu tăng lên, đồng thời gia tăng gánh nặng tạo ra lợi nhuận đặt lên vai công ty sẽ lớn hơn khi số cổ phiếu tăng lên. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan