Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái nuôi trong nông hộ...

Tài liệu đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái nuôi trong nông hộ

.PDF
75
631
136

Mô tả:

Lời Cảm Ơn Trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng hết mình của bản thân, tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm giúp đỡ chân thành và nhiệt tình của các cá nhân tập thể trong và ngoài trường Đại Học Nông Lâm Huế Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn Ts. Dư Thanh Hằng, người đã tận tình chỉ bảo chu đáo không quản ngại khó khăn và vất vả giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn quý các thầy cô trong khoa CNTY đã giúp đỡ tôi hoàn thành bài báo cáo của mình Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Cán bộ UBND xã Đức Lập, cùng các hộ gia đình thuộc 6 thôn của xã Đức Lập đã tạo điều kiện giúp đỡ tận tình cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành khóa luận này Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên cả về vật chất và tinh thần cho tôi để tôi hoàn thành tốt bài khóa luận của mình đúng thời gian quy định Trong quá trình thực tập và viết khóa luận do kiến thức trình độ năng lực hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy bản thân tôi kính mong quý thầy cô các bạn bè đồng nghiệp quan tâm, giúp đỡ chỉ bảo và đóng góp ý kiến để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn! Huế, tháng 10 năm 2012 Sinh viên thực hiện Nguyễn Viết Long 1 PHẦN THỨ NHẤT TÌNH HÌNH CƠ BẢN I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 1.1. Vị trí địa lý Xã Đức Lập có diện tích đất đai là 741,44 ha, trong đó diện tích đất sông suối là 7,3 ha, là một xã miền núi thuộc tiểu vùng bán sơn địa vừa tiếp giáp với đồng bằng lại vừa tiếp giáp với gò đồi và núi thấp, nằm ở phía Nam của huyện Đức Thọ. Cách huyện lỵ khoảng 6 km, có vị trí địa lý như sau: Từ 105 độ 34 phút 50 giây đến 105 độ 36 phút 50 giây, kinh độ Đông. Từ 18 độ 27 phút 40 giây đến 18 độ 29 phút 40 giây vĩ độ Bắc. Phía Đông giáp xã Đức An. Phía Tây giáp xã Đức Lạc và một phần xã Đức Long. Phía Nam giáp xã Đức Đồng và một phần xã Đức An. Phía Bắc giáp xã Đức Lâm và xã Đức Long. Xã Đức Lập có vị trí giao thông gần trục đường quốc tế (cách quốc lộ 8A khoảng 4,5 km). Là con đường quan trọng nối liền huyện Đức Thọ- tỉnh Hà Tĩnh với các nước tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, các nước khối ASEAN. Mặt khác xã Đức Lập rất gần đường sắt Bắc – Nam (cách ga Đức Lạc 1,5 km), với quy mô khả năng vận chuyển hành khách và khối lượng hàng hóa lớn. Đây là một ví trí giao thông quan trọng giao lưu hàng hóa với thị trường trong nước và quốc tế. 1.2. Địa hình Xã Đức Lập có địa hình bán sơn địa. Địa hình đồng bằng tương đối tập trung và bằng phẳng, địa hình đồi núi tập trung nửa phần phía Nam xã, có độ cao không cao lắm, đỉnh cao nhất là 152m (Ông Cùng – Núi Dẻ) chênh cao địa hình khá lớn và cục bộ, địa hình bị chia cắt và dốc, chênh cao địa hình đồng ruộng khoảng từ 3 – 5 m, gây khó khăn cho việc khai thác thủy lợi phục vụ sản xuất, sinh hoạt trên địa bàn. Độ dốc địa hình có 4 bậc độ dốc chính là: Dưới 3 độ, từ 3 đến 8 độ, từ 8 đến 15 độ, trên 15 độ. Địa hình thấp dần theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, và một phần từ Nam lên Bắc. Cắt xẻ dọc địa hình không lớn và cục bộ tập trung chủ yếu vùng núi Dẻ. 2 1.3. Khí hậu, thời tiết Xã Đức Lập nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm, với đặc trưng của khí hậu miền Bắc, nhưng mùa Đông đã bớt lạnh và ngắn hơn các tỉnh phía Bắc, đồng thời chịu ảnh hưởng của địa hình với các dãy núi lớn phía Tây và phía Nam. Thời tiết tương đối khắc nghiệt, chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa nóng và mùa lạnh. Mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão, các đợt áp thấp nhiệt đới. Đôi khi có các đợt nắng hạn, các đợt rét đậm, rét hại, đôi lần có lốc xoáy và mưa đá. Nhiệt độ bình quân năm từ 23,7oC – 23,9oC. Nhiệt độ cao nhất trong năm là vào giữa tháng 7 nhiệt độ có thể lên đến 39,0 oC hoặc trên 40,0oC. Biên độ nhiệt mùa lạnh thay đổi có khi đến 10oC. Nhiệt độ thấp nhất trung bình năm vào tháng 12, tháng 1 là 17,5oC. Lạnh nhất có thể đến dưới 8,0oC. Độ ẩm không khí trung bình là khoảng 80%, cao nhất là 95% vào các tháng mùa mưa và thấp nhất là 70% vào tháng mùa khô hàng năm. Lượng mưa trung bình năm là 1950 đến 2100 mm; lượng mưa cao nhất năm có thể lên đến 2450 mm. Mưa tập trung cao nhất vào các tháng mùa nóng (380 – 400 mm/ tháng). Lượng mưa thấp nhất vào các tháng mùa lạnh, (16,5 - 31,3 mm/ tháng). Số giờ nắng trung bình trong tháng là 180 giờ/ tháng. Nắng nhiều bức xạ mạnh. Trung bình từ 150 – 160 Kcal/ năm. Đặc biệt đôi khi xảy ra nắng nóng bất thường kéo dài, ảnh hưởng tới cây trồng vật nuôi cũng như đời sống sinh hoạt. Mùa nóng với hướng gió Đông và Đông Nam là chủ yếu, xuất hiện không thường xuyên. Chịu ảnh hưởng của các cơn bão, các đợt áp thấp nhiệt đới. Đặc biệt là chịu ảnh hưởng của gió Tây - Nam khô nóng (gió Lào), đôi lúc có lốc xoáy. Qua bảng 1 đây ta có thể thấy nhiệt độ trung bình qua các năm đang có xu hướng tăng lên Bảng 1. Diễn biến thời tiết khí hậu Hà Tĩnh từ 2009 – 2011 Năm 2009 2010 2011 0 Nhiệt độ trung bình ( C) 26,2 27 27,8 Độ ẩm trung bình (%) 82,3 84 82 Số giờ nắng (giờ) 1890 1887 1919 Lượng mưa (mm) 2130 2250 2090 Số ngày mưa (ngày) 156 166 149 (Nguồn: Trạm khí tượng thủy văn Hà Tĩnh năm 2011) 3 Mùa lạnh có gió Bắc và Đông Bắc xuất hiện từng đợt mang theo không khí lạnh tràn về, mỗi đợt thường kéo dài từ 3 – 5 ngày, thường hay có mưa phùn và sương mù, các đợt rét cục bộ, rét đậm rét hại ảnh hưởng lớn tới sản xuất và đời sống của nhân dân. 1.4. Thủy văn Hệ thống thủy văn của xã bao gồm các suối, sông hồ tự nhiên và hệ thống thủy lợi nhân tạo. Diện tích các suối, sông hồ tự nhiên có nước liên tục hoặc theo mùa tập trung chủ yếu ở vùng núi. Hệ thống thủy lợi nhân tạo bao gồm các kênh mương lớn, hồ đập, có mật độ tương đối dày, đảm bảo việc cung cấp nước tưới cho cây trồng. Thủy văn nằm trong hệ lưu vực sông Ngàn Sâu nên chế độ nước cũng theo mùa, hàng năm mưa lũ thường đến chậm, và chu kỳ tương đối ngắn, mưa lũ thường xuất hiện vào cuối tháng 9, giảm nhanh vào tháng 10, 11 hàng năm. Với các kênh mương thuộc hệ thống thủy lợi Linh Cảm, chế độ nước được chủ động tưới tiêu các cánh đồng. 1.5. Đất đai và tình hình sử dụng đất  Đặc điểm đất đai của xã Tổng diện tích đất tự nhên của xã 741,86 ha có 40% diện tích phân bố chủ yếu ở vùng cánh đồng trồng lúa, đất đai màu mỡ. Đất đai của xã Đức Lập được phân chia như sau: Đất nông nghiệp : 359 86 ha. Đất lâm nghiệp : 108,11 ha. Đất chuyên dùng: 93,9 ha. Đất chưa sử dụng, sông suối: 65,84 ha. Đất đai trên địa bàn xã chủ yếu thuộc 4 loại đất chính: Nhóm đất phù sa, nhóm đất xám, nhóm đất đỏ vàng – nâu vàng, nhóm đất sông suối có điều kiện thuận lợi để tái sản xuất các loại cây trồng, đất đai phân bố không đều giữa các thôn cả về diện tích đến tính chất của đất. Kết quả điều tra về tình hình sử dụng đất của xã Đức Lập được thể hiện qua bảng sau: 4 Bảng 2. Tình hình sử dụng đất của xã Đức Lập từ 2009 - 2011 (Đơn vị tính: ha) Năm 2009 2010 2011 Loại Đất Diện tích Diện tích Diện tích 741,86 741,86 741,86 Tổng diện tích đất tự nhiên 558,54 555,68 502,68 I. Đất nông nghiệp 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 371,26 369,97 359,86 1.2 Đất lâm nghiệp 181,68 180,11 133,60 1.3 Đất nuôi trồng thủy sản 5,60 5,60 9,22 143,40 147,01 153,50 II. Đất phi nông nghiệp 2.1 Đất ở 25,52 25,52 25,52 2.2 Đất chuyên dùng 85,37 87,41 93,90 2.3 Đất tôn giáo tín ngưỡng 0,10 0,10 0,10 2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 6,85 8,42 8,42 2.5 Đất sông suối và mặt nước 25,56 25,56 25,56 chuyên dùng 39,92 39,17 38,68 III. Đất chưa sử dụng (Nguồn: Niên giám thống kê xã Đức Lập từ năm 2006 – 2011) Qua bảng 2 cho ta thấy xã Đức Lập là một xã bán sơn địa có tổng diện tích tự nhiên là 741,86 ha. Trong đó có cả đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng. Đất nông nghiệp có xu hướng giảm năm 2009 là 558,54 ha đến năm 2011 là 502,68 ha, giảm 55,86 ha. Trong đó đất sản xuất nông nghiệp giảm 11,4 ha, đất lâm nghiệp giảm 48,08 ha, đất nuôi trồng thủy sản tăng từ 5,60 đến 9,22 tăng 3,68 ha. Còn đất phi nông nghiệp thì đang có xu hướng tăng năm 2009 có143,50 ha đến năm 2011 có tới 153,50 ha tăng 10,1 ha. Trong đó đất ở, đất tôn giáo tín ngưỡng và đất sông suối, mặt nước chuyên dùng không thay đổi. Đất chuyên dùng tăng 8,53 ha, đất nghĩa trang, nghĩa địa tăng 1,57 ha. Diện tích đất chưa sử dụng cũng đang giảm từ năm 2009 đến năm 2011 giảm 1,24 ha. Diện tích đất nông nghiệp bình quân của một hộ là 4284 m2, diện tích đất nông nghiệp bình quân của một nhân khẩu là 118,8 m2 II. Tình hình kinh tế, xã hội của xã Đức Lập 2.1. Tình hình dân số và sử dụng lao động ở xã Đức Lập 5 Con người là nhân tố quyết định mọi quá trình sản xuất thông qua sức lao động của mình để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng đòi hỏi cuộc sống của người dân. Hiện nay xã Đức Lập có 810 hộ, trong đó có 718 hộ nông nghiệp và 83 hộ phi nông nghiệp được phân chia thành 6 thôn. Dân số toàn xã là 3298 nhân khẩu, trong đó nhân khẩu nông nghiệp chiếm 89,3%, nhân khẩu phi nông nghiệp chiếm 10,7%. Tổng số lao động nông nghiệp là 1583 người, trong đó số lao động trong độ tuổi là 1263 người chiếm 79,8%, lao động ngoài độ tuổi có 320 người chiếm 20,2%. Đây là nguồn lao đông của xã có thể sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trong những năm qua xã Đức Lập đã có nhiều biện pháp nhằm giảm gia tăng dân số, do vậy tỷ lệ phát triển dân số thấp dao động ở mức dưới 1%. Đến năm 2011 quy mô dân số là 4,1 người/hộ và số lao động trên hộ bình quân là 2,19. Bảng 3. Tình hình sử dụng lao động của xã Đức Lập qua một số năm. Đơn vị 2009 2010 2011 Chỉ tiêu tính SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) 1. TS nhân khẩu Khẩu 3244 100 3272 100 3298 100 Nhân khẩu NN Khẩu 2919 90 2928 89,5 2945 89,3 Nhân khẩu phi NN Khẩu 325 10 344 10,5 353 10,7 2.. Tổng số hộ Hộ 801 100 802 100 810 100 Hộ NN Hộ 718 89,6 718 89,5 723 89,3 Hộ phi NN Hộ 83 10,4 84 10,5 87 10,7 3. Số lao động NN LĐ 1557 100 1570 100 1583 100 LĐ trong độ tuổi LĐ 1248 80,2 1256 80 1263 79,8 LĐ ngoài độ tuổi LĐ 309 19,8 314 20 320 20,2 4. Bình quân/hộ Số nhân khẩu Khẩu 4,06 4,07 4,07 Số lao động LĐ 2,16 2,18 2,19 5. Tỷ lệ tăng dân số (%) 0,87 0,86 0,79 (Nguồn: Văn phòng thống kê xã Đức Lập 2011) Cơ bản xã Đức Lập đã thực hiện tốt công tác dân số, lao động việc làm. Đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Số hộ khá chiếm 23,9%, số hộ trung bình là chủ yếu chiếm 65,8% và số hộ nghèo chiếm 10,3%. Tuy nhiên vấn đề về đời sống và mức thu nhập của dân cư hiện nay không đồng đều, những hộ có điều kiện mua sắm các tư liệu sản xuất thì có thu nhập khá, những hộ không có điều kiện thì mức thu nhập thấp và thu nhập kém. Nếu so sánh với mặt bằng chung thì thu nhập bình 6 quân của các hộ trong xã còn rất nhiều khó khăn và còn thấp 2.2. Cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng của xã được thể hiện qua bảng sau: Bảng 4. Một số cơ sở hạ tầng của xã Đức Lập Danh mục Đơn vị tính Số lượng Chất lượng Trụ sở UBND xã Nhà 2 tầng 01 cái Khá Trường cấp 1 Nhà 2 tầng 01 cái Chuẩn quốc gia Trường mầm non Nhà cấp 4 01 cái Chuẩn quốc gia Trạm y tế Nhà cấp 4 01 cái Chuẩn quốc gia 3 3 Đập giữ nước M 25 triệu m Khá Mương bê tông Km 6 km Khá Đường bê tông hóa Km 10,5 km Khá Đường dây điện hạ thế Km 6,5 km Khá (Nguồn: Văn phòng thống kê xã 2011) Qua bảng 4 ta thấy nhờ sự quan tâm giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền thông qua các chương trình dự án đầu tư xây dựng công trình phúc lợi, cơ sở hạ tầng nông thôn cùng với sự đóng góp của nhân dân đến nay các công trình phúc lợi như điện, đường, trường, trạm, ủy ban xã đã mang lại bộ mặt tươi mới cho xã nhà. Hiện nay xã đã xây dựng một số cơ sở hạ tầng khá tốt, cơ sở vật chất trường học phục vụ giảng dạy, chữa bệnh đạt chuẩn quốc gia. Trụ sở UBND xã khá khang trang, trường học rất thuận lợi cho việc đi lại học hành cho con em trong xã, trạm y tế được xây dựng ở trung tâm xã, thoáng mát thuận tiện, đảm bảo khám và chữa bệnh cho nhân dân. Các trang thiết bị như đồ dùng giảng dạy, phương tiện khám chữa bệnh cho nhân dân khá đầy đủ. Hiện tại hệ thống giao thông nông thôn nối liền các thôn xóm trong toàn xã Đức Lập và giữa xã Đức Lập với các xã khác là một tổ hợp gồm hệ thống gồm có đường nhựa và đường được bê tông hóa ngoài ra vẫn có một số km đường đất. Toàn xã hiện tại đã xây dựng được khoảng trên 10km đường bê tông nông thôn chiếm 85% các đường làng lối xóm. Các hệ thống cầu cống được bê tông hóa kiên cố đảm bảo thuận tiện cho việc phục vụ nhân dân vận chuyển vật tư và sản phẩm nông nghiệp cũng như giao lưu hàng hóa. Về thủy lợi thì xã hiện có 1 trạm bơm nước lấy nước vào từ hệ thống nước của kênh Linh Cảm, kênh mương nội đồng đã được bê tông hóa nhằm phục vụ cho công tác tưới tiêu. Ngoài ra xã còn có 6 trạm điện hạ thế 7 đang hoạt động đảm bảo 100% nguồn điện phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất cho nhân dân. Về bưu chính viễn thông cũng đang từng bước được nâng cao nhằm đáp ứng nhu cầu về thông tin liên lạc cho người dân trong xã. 2.3. Tình hình kinh tế Cùng với xu thế phát triển của thời đại, nền kinh tế của cả nước nói chung và của xã Đức Lập nói riêng đã có sự thay đổi đáng kể. Khai thác những lợi thế của mình để thúc đẩy sản xuất phát triển. Xã đã có bước chuyển biến mạnh mẽ cả về kinh tế, chính trị, xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng. Đời sống vật chất, tinh thần ngày một nâng cao, không khí đoàn kết dân chủ kỷ cương xã hội đang là yếu tố quan trọng, là tiền đề cho xã tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai. Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình đã đạt được kết quả to lớn. Trong sản xuất nông nghiệp xã đã có những thành tựu đáng kể thể hiện trong sự nỗ lực lớn của cán bộ và nhân dân trong xã. Tuy diện tích canh tác không lớn chịu tác động của thời tiết, khí hậu khắc nghiệt. Song nhờ sự chủ động sáng tạo tự chủ của nông dân khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ đưa giống mới vào sản xuất, đảm bảo diện tích canh tác tăng năng suất cây trồng và chăn nuôi. Trong sản xuất nông nghiệp đã có bước chuyển dần từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, chất lượng sản phẩm ngày được nâng lên phù hợp với nhu cầu thị trường. Do vậy, làm cho giá trị sản xuất nông nghiệp được tăng lên. Tình hình kinh tế của xã có thể được thông qua bảng sau: Bảng 5. Tình hình phát triển sản xuất của xã từ năm 2009 - 2011 (Đơn vị tính: triệu đồng) Chỉ tiêu 2009 2010 2011 Tổng GTSX 1. Nghành nông nghiệp Trồng trọt Chăn nuôi 2. Thương mại – dịch vụ 3. Tiểu thủ công nghiệp GT GT GT 9377,90 9096,56 5094,06 4002,50 253,20 28,14 9940,60 9588 5202 4383 320,60 35 10735,80 10241,90 5536,60 4711,30 429,40 48,50 8 ( Nguồn: Văn phòng thống kê xã Đức Lập 2011 ) Qua bảng 5 ta thấy giá trị sản xuất của xã tăng từ năm 2009 đến năm 2011 tăng 1357,90 triệu đồng. Nghành nông nghiệp tăng đến 1145,34 triệu đồng, bình quân trong 3 năm tăng 106,10 %. Trong đó trồng trọt tăng 442,54 triệu đồng, chăn nuôi tăng 708,80 triệu đồng. Các nghành Thương mại – dịch vụ và Tiểu thủ công nghiệp cũng đang có xu hướng tăng. Tóm lại, ta thấy trong những năm gần đây, ngành nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của xã và dần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, dịch vụ thương mại, công nghiệp hiện nay sang cơ cấu kinh tế dịch vụ thương mại, công nghiệp, nông nghiệp đòi hỏi phải có một sự cố gắng nỗ lực không ngừng của chính quyền xã, cần có những đường lối lãnh đạo đúng đắn của chính quyền xã. III. Tình hình chăn nuôi của xã 3.1. Tình hình chung về chăn nuôi Với lợi thế địa hình vùng đồi núi, bán sơn địa nên chăn nuôi là ngành chủ lực tại đại phương. Thực tế những kết quả mà ngành chăn nuôi của địa phương đã đạt được đã thể hiện điều đó. Ngành chăn nuôi của xã ngày càng phát triển, đóng góp phần lớn vào tổng giá trị sản xuất của xã. Bên cạnh các vật nuôi truyền thống, nhân dân cùng với xã còn nghiên cứu thử nghiệm các giống vật nuôi mới như các giống gà mới, nhím, hưu… làm phong phú thêm cơ cấu đàn. Thêm vào đó, được sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức quốc tế, nhiều người dân đã có khả năng mở rộng quy mô, giống vật nuôi… nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống của người dân. Năm 2009 thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội dưới sự hỗ trợ của Sở NN&PTNT tỉnh và tổ chức quốc tế, ngành chăn nuôi của xã trong những năm qua đã có nhiều thay đổi đáng kể, thể hiện ở bảng sau: Qua bảng 6 ta thấy: chăn nuôi của xã có xu hướng tăng mạnh trong 3 năm qua cụ thể: năm 2009 toàn xã có 20109 con gia súc và gia cầm thì đến năm 2011 đã tăng đến 27121 con các loại. Trong tổng đàn, gia cầm chiếm tỷ lệ cao nhất và tăng mạnh nhất tính đến năm 2011 tổng đàn gia cầm chiếm đến 92.08%. Cụ thể năm 2009 tổng số gia cầm là 18000 con, đến 2011, số gia cầm tăng lên 24971 con. 9 Bảng 6. Tình hình chăn nuôi của xã giai đoạn 2009 – 2011 Gia súc 2009 2010 2011 Tổng đàn SL 20109 (%) 100 SL 23580 (%) 100 SL 27121 (%) 100 1. Gia súc 2109 10,49 2135 9,05 2150 7,92 - Đàn trâu 425 2,11 347 1,47 402 1,48 - Đàn bò 675 3,36 628 2,66 698 2,57 - Đàn lợn 1000 4,97 1160 4,91 1050 3,87 - Đàn dê 9 0,04 0 0 0 0 2. Gia cầm 18000 89,51 21445 90,95 24971 92,08 ( Nguồn: Báo cáo kinh tế của xã, 2011) Đàn gia súc cũng tương tự, số lượng năm 2011 tăng hơn so với 2009 cụ thể là tăng từ 2109 con lên 2150 tăng 41 con. Trong đó số lượng lợn trong tổng đàn gia súc chiếm tỷ lệ phần trăm cao cụ thể là năm 2011 đàn lợn toàn xã chiếm tỷ lệ 3.87%. Dê là vật nuôi bước đầu thử nghiệm nên tổng đàn còn thấp, ban đầu 2009 số lượng dê chỉ có 9 con nhưng qua năm sau thì số lượng dê giảm cụ thể là 2 năm sau không còn con nào nữa do nuôi dê người dân chưa có kinh nghiệm, hơn nữa nhu cầu thị trường không có. Trâu, bò là con vật nuôi truyền thống của tất cả các nông hộ trong xã. Cơ cấu đàn trâu, bò của xã trong vòng ba năm qua có sự tăng giảm nhẹ, cụ thể năm 2009 số lượng đàn trâu là 425 con, chiếm 2,11% trong tổng số đàn gia súc. Qua tới năm 2010, số lượng đàn trâu giảm chỉ còn 347 con, chiếm 1,47%. Nguyên nhân của sự biến động này là do chịu sự ảnh hưởng của dịch bệnh như lở mồm long móng nên số lượng đàn trâu, bò bị chết. Đến năm 2011 khi đợt dịch qua đi, các nông hộ tiếp tục nuôi nên tăng lên 698 con, chiếm 1,48 %, bò cũng tương tự. Nhìn chung, ngành chăn nuôi của xã ngày càng phát triển, đóng góp phần lớn vào tổng giá trị sản xuất của xã. Thêm vào đó, được sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức quốc tế, nhiều người dân đã có khả năng mở rộng quy mô, giống vật nuôi… nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống. Lợn được xem là vật nuôi chủ lực, đem lại nguồn thu lớn, do vậy cần có nhiều biện pháp tác động hơn nữa từ nhà đầu tư và nhà kỹ thuật để giúp cho chăn nuôi bò tại xã tiếp tục đạt hiệu quả cao trong 10 thời gian sắp tới. 3.2. Tình hình phát triển chăn nuôi lợn của xã Đức Lập Những năm qua vừa thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, tình hình chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi lợn của xã đã có sự thay đổi đầy khởi sắc, đưa chăn nuôi dần trở thành ngành nghề chính thúc đẩy phát triển nông thôn. Những năm qua số lượng đàn gia súc gia cầm không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Với các nông hộ thì con lợn là vật nuôi chủ yếu, hàng năm cung cấp hàng tấn thịt. Tính từ năm 2009 đến năm 2011 trong toàn xã đàn lợn thịt của xã ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong năm 2009 số lợn toàn xã chỉ là 875 con thì đến năm năm 2011 con số này đã là 895 con, còn lợn nái trong năm 2009 số lợn là 538 con đến năm 2011 đã là 592 con (chưa tính lợn sữa, lợn gột) Chăn nuôi lợn có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu nông thôn, đặc biệt là lợn thịt và lợn nái. Sản lượng thịt lợn luôn chiếm trên 80% sản lượng gia súc và gia cầm trong toàn xã. Đồng thời nạc hóa đàn lợn đưa các giống mới vào nuôi và lai tạo các giống ngoại với lợn nái Móng Cái của địa phương cho ra các giống lai đời sau đạt phẩm chất, chất lượng tốt. Và được xác định là mục tiêu quan trọng trong ngành chăn nuôi nhằm góp phần nâng cao tỷ trọng và đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính. Bảng 7. Tình hình phát triển đàn lợn của xã Chỉ tiêu Đơn vị tính 2009 2010 2011 Tổng đàn lợn thịt Con 875 864 895 Tổng đàn lợn nái Con 538 564 592 Tổng sản lượng xuất chuồng Tấn 93 89 62 Giá trị sản lượng Tr.đ 2678 1762 3410 ( Nguồn: Báo cáo kinh tế của xã, 2011) 11 Số đầu lợn qua 3 năm ở xã không ngừng tăng lên. Không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng. Nguyên nhân số hộ nuôi lợn tăng là do nuôi lợn có hiệu quả hơn so với làm ruộng và chăn nuôi khác. Xã Đức Lập có điều kiện phát triển đàn lợn vì thức ăn rất đa dạng và phong phú. Theo trên bảng thì đa số các hộ chăn nuôi lợn thịt, nhưng lợn nái trên địa phương cũng phát triển không kém vì chăn nuôi lợn nái có hiệu quả cao hơn dể nuôi, dể chăm sóc tiêu tốn thức ăn ít hơn 3.3. Đánh giá chung thuận lợi và khó khăn trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn ở hộ tại xã Đức Lập 3.3.1. Thuận lợi - Xã có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho việc phát triển ngành trồng trọt, đây là nhân tố quan trọng đảm bảo cho xã đủ lương thực thực phẩm cho con người và cho chăn nuôi trong đó có chăn nuôi lợn. - Chăn nuôi lợn là ngành chăn nuôi truyền thống, lâu đời, người chăn nuôi đã được làm quen với con lợn, có nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi lợn. Đó là một thuận lợi lớn trong quá trình chăn nuôi, phát triển đàn lợn của xã. - Với 80% lực lượng lao động làm trong lĩnh vực nông nghiệp, thời gian nhàn rỗi lớn đặc biệt vào lúc nông nhàn, tiền công lao động thấp. - Trong nhiều năm trở lại đây, do sự tiến bộ của khoa học công nghệ chế biến thức ăn đã làm cho người chăn nuôi đỡ vất vả hơn, hiệu quả kinh tế đạt cao hơn. - Phát triển chăn nuôi lợn nhanh và lớn nên các dịch vụ chăn nuôi cũng phát triển theo. Nổi bật là các dịch vụ bán giống, bán cám, xuất lợn cho các hộ chăn nuôi. Hiện nay, nhiều đại lý thức ăn chăn nuôi cho mua chịu thức ăn đến khi bán lợn thì hoàn trả, nhưng giá thức ăn sẽ tính cao hơn giá bán trả tiền ngay. - Một thuận lợi nữa không thể không kể đến là các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển chăn nuôi lợn. 3.3.2. Khó khăn 12 - Là một xã thuần nông, ngoài thu nhập về nông nghiệp và bộ phận nhỏ thu nhập từ dịch vụ thương mại và thu nhập từ nghành nghề phụ thì người dân Đức Lập hầu như không có nguồn thu nhập nào khác. Đây là vấn đề rất trăn trở của Đảng bộ và chính quyền xã từ nhiều năm nay. - Mặt khác chế độ khí hậu theo mùa đã ảnh hưởng không nhỏ đối với đời sống sản xuất của nhân dân trong xã. Mùa mưa lượng mưa lớn, mực nước dâng cao gây úng lụt một phần không nhỏ diện tích đất nông nghiệp, ngoài ra vào mùa này còn bị ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của nhân dân trong xã. Mùa khô lượng mưa ít, mực nước sông xuống thấp gây ra tình trạng hạn hán. Đất đai đôi khi bị bốc mặn từ dưới đất lên bề mặt gây không ít khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. - Các nguồn tài nguyên khoáng sản, nguyên liệu hầu như không có hạn chế đến khả năng phát triển phần nào trong nền kinh tế của xã. - Tỷ lệ gia tăng tự nhiên vẫn còn cao - Nguồn lực của xã khá dồi dào song chất lượng nguồn nhân lực chưa thật cao, lao động phổ thông có tay nghề chiếm tỷ trọng khá lớn còn lao động qua đào tạo chiếm tỷ trọng nhỏ. 13 PHẦN THỨ HAI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Tính cấp thiết của đền tài Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở vùng nông thôn và gần 70% lực lượng lao động xã hội hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Chính vì vậy nông nghiệp – nông thôn luôn được coi là mặt trận hàng đầu trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua nền nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần chung vào sự phát triển của đất nước. Cùng với chính sách của Đảng và nhà nước và của tỉnh giao cho xã Đức Lập đã thực hiện nhiều dự án nhằm cải thiện năng suất sinh sản của đàn lợn nái nuôi trong nông hộ đã góp phần quan trọng trong kinh tế hộ nông dân. Nhiều hộ đã làm giàu từ chăn nuôi lợn. Các giống lợn nái nuôi chủ yếu ở xã là lợn Móng Cái, lợn lai F1 (Móng Cái x Đại Bạch) , trong đó thì chăn nuôi lợn Móng Cái nhiều hơn. Đây là các giống lợn có khả năng sinh sản tốt, nuôi con khéo, chịu ăn thức ăn nghèo dinh dưỡng. Khối lượng lợn nái vừa phải, tiêu tốn thức ăn ít hơn lợn nái ngoại. Vì vậy người dân thích nuôi rộng rãi hơn. Các tính trạng sinh sản là nhóm tính trạng quan trọng, là cơ sở khởi đầu cần tác động để nâng cao hiệu quả kinh tế, nhưng các tính trạng này có hệ số rất thấp và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố di truyền và không di truyền. Kết quả đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái là rất cần thiết có ý nghĩa trong việc nâng cao năng suất sinh sản cũng như năng suất sản xuất và hiệu quả kinh tế của lợn nái. Đồng thời giúp cho địa phương phát triển chăn nuôi một cách đúng hướng và phù hợp với khả năng sản xuất của địa phương. Hiện nay, chăn nuôi lợn nái ở các hộ gia đình phát triển theo hướng tiến bộ cả về mặt số lượng và chất lượng. Xã Đức Lập với điều kiện tự nhiên thuận lợi như giao thông, vị trí địa lý, khí hậu thổ nhưỡng phù hợp với chăn nuôi lợn. Ngoài ra xã còn có nguồn nguyên 14 liệu tại chổ để chế biến thức ăn cho gia súc như gạo, ngô, sắn và đậu tương. Hiện tại thì xã đã có rất nhiều gia đình chăn nuôi lợn. Phát triển chăn nuôi lợn nâng cao được thu nhập cho dân và phát triển chung kinh tế toàn xã. Tuy nhiên chăn nuôi lợn nái ở Đức Lập cũng như các địa phương khác đang gặp phải khó khăn lớn trong việc phát triển chăn nuôi lợn nái như; quy mô sản xuất nhỏ lẻ, trình độ thâm canh chăn nuôi còn thấp. Chăn nuôi chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa phát huy và tận dụng tiềm năng sẵn có của địa phương. Những vấn đề cần giải quyết trong chăn nuôi như con giống, thức ăn, vốn, kỹ thuật còn chưa tốt, chưa đồng bộ, dịch bệnh nhiều gây thiệt hại cho hộ chăn nuôi. Đây là dấu hiệu không tốt và điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển chăn nuôi của xã Đức Lập nói riêng và của cả nước nói chung. Đứng trước tình hình đó, câu hỏi đặt ra cần được nghiên cứu giải quyết là: Phát triển chăn nuôi lợn nái ở xã có những bất cập gì? Tại sao ngành chăn nuôi lợn nái của xã Đức Lập phát triển không bền vững như vậy? Cần có những giải pháp nào để phát triển chăn nuôi lợn nái của xã trong những năm tới tốt hơn, bền vững hơn. Để giúp địa phương thực hiện tốt chương trình phát triển đàn lợn nái nuôi trong nông hộ một cách bền vững, chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái nuôi trong nông hộ trên địa bàn xã Đức Lập, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh” 1.2. Mục tiêu của đề tài Mục tiêu chung Khảo sát thực trạng, đánh giá hiệu quả kinh tế loại hình chăn nuôi lợn nái ở các hộ gia đình ở xã Đức Lập. Phân tích những thuận lợi và khó khăn, những vấn đề cần giải quyết trong chăn nuôi lợn nái nuôi trong nông hộ trên địa bàn xã. Mục tiêu cụ thể Khảo sát thực trạng chăn nuôi lợn nái ở địa phương. Phân tích hiệu quả chăn nuôi lợn nái ở hộ gia đình xã Đức Lập. Trên cơ sở đó tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến năng suất và khả năng sinh sản của lợn nái trong nông hộ trên địa bàn xã. 15 Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chăn nuôi lợn nái trong nông hộ trên địa bàn xã. II. 2.1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU Tổng quan tình hình chăn nuôi lợn của thế giới Chăn nuôi lợn đã xuất hiện và phát triển ở Châu Âu và Châu Á cách đây hơn một vạn năm.Sau đó, khoảng thế kỷ XVI, bắt đầu phát triển ở Châu Mỹ và thế kỷ XVIII bắt đầu phát triển ở Châu Úc. Đến nay nuôi lợn đã trỡ thành nghề truyền thống của nhiều quốc gia. Ở nhiều nước chăn nuôi lợn có công nghệ cao và tổng đàn lợn lớn như: Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Canada, Hà Lan, Đang Mạch, Thuỵ Điển, Đức, Ý, Úc, Trung Quốc và Đài Loan. Nói chung ở các nước tiên tiến, chăn nuôi lợn phát triển theo hình thức công nghiệp và đạt được trình độ chuyên môn hoá cao. Đàn lợn trên thế giới phân bố không điều ở các châu lục. Có hơn 80% số đầu lợn nuôi ở Châu Á và Châu Âu, số còn lại nuôi ở các Châu lục khác. Trong đó tỷ lệ đàn lợn được nuôi nhiều ở các nền chăn nuôi lợn tiên tiến. Nơi nào có nhu cầu thịt lợn cao nơi đó có nhiều lợn ở các Châu Âu chiếm 52%, Châu Á 30,4%, Châu Úc 5,8%, Châu Phi 3,2% và Châu Mỹ 8,6%. Nhìn chung sản phẩm ngành chăn nuôi lợn được sử dụng rộng rải khắp trên thế giới. Thịt lợn là nguồn thực phẩm tốt cho con người, không những thế ngành chăn nuôi lợn đem lại lợi nhuận không nhỏ cho nền kinh tế nhiều nước trên thế giới. Bảng 8. Các nước có số lượng lợn nhiều nhất thế giới 16 (Theo FAO 2010) STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Tên nước Trung Quốc Mỹ Braxin Việt Nam Đức Tây Ban Nha Nga Mê-Xi-Cô Pháp Ba Lan Đơn vị Con Con Con Con Con Con Con Con Con Con Số lượng 451.177.581 67.148.000 37.000.000 27.627.700 26.886.500 26.289.600 16.161.860 16.100.000 14.810.000 14.278.647 2.2. Tình hình chăn nuôi lợn ở khu vực Đông Nam Á Đông Nam á là một trong những vùng hấp dẫn nhất của thế giới bởi điều kiện tự nhiên, văn hoá và lịch sử của nó. Đông Nam Á gồm 11 nước: Lào, Campuchia, Inđônêxia, Malaysia, Philippin, Thái Lan, Singapore, Myanma, Brunei, Đông Timor và Việt Nam Những nước này nằm ở vùng nhiệt đới có khí hậu nóng ẩm hầu như quanh năm. Nguồn thu nhập chính là từ nông nghiệp, trong đó chăn nuôi lợn là một trong những phần chính. Bởi vì tất cả các nước Đông Nam á đều là những nước nông nghiệp, nên những nước này có thể tự sản xuất thức ăn gia súc và nguyên liệu thô.Những nguyên liệu thô thu hoạch tại địa phương được dùng làm thức ăn cho lợn gồm có ngô, gạo, sắn, khoai lang, hạt bông, lạc, đậu nành, dầu dừa, bột cá, bột máu, bột thịt, bột xương, vỏ sò và đá vôi. Bên cạnh đó nguồn thức ăn tinh và phụ phế phẩm cũng khá dồi dào nên những nước này có thể tự sản xuất thức ăn gia súc và phát triển chăn nuôi lợn. Bốn nước sản xuất thịt lợn lớn nhất Đông Nam Á là Việt Nam (2.1triệu tấn/năm), Philipphin (1,1 triệu tấn/năm), Iđônêxia (0,577 triệu tán/năm) và Thái Lan (0,682 triệu tấn /năm). Trong số 5 nước có sản lượng thịt lớn nhất Đông Nam Á, có sự khác nhau về hiệu quả sản xuất thịt lợn: Việt Nam (502 kg thịt lợn/nái/năm), pilipphin (943 kg thịt lợn/nái/năm), Inđonêsia (495 kg thịt lợn/nái/năm), Thái Lan (1200 kg thịt lợn/nái/năm) và Malaysia (797 kg thịt lợn/nái/năm). Sự khác nhau này có thể do 17 các nước khác nhau có hệ thống chăn nuôi lợn khác nhau, sử dụng các nguồn thức ăn và con giống khác nhau Ngoài các tiêu chí mà các nước trong khu vực Đông Nam Á đã đạt được ở trên thì các tiêu chí về giống, thức ăn, chuồng trại, quy mô cũng không ngừng cải tiến và phát triển. Con giống đã được chọn tạo và cải tiến, tạo ra những giống lợn có năng suất cao, chất lượng tốt phục vụ đắc lực cho nhu cầu sản xuất hàng hoá với quy mô lớn và chất lượng cao. Thức ăn chăn nuôi cũng được nâng cao về cả số lượng, ngoài những thức ăn mang tính bản địa của riêng từng nước, thức ăn có xu hướng sử dụng thức ăn công nghiệp nhằm phục vụ những con giống có tỷ lệ nạc cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Bên cạnh đó, quy mô chăn nuôi cũng ngày càng được phát triển. Từ chăn nuôi cấp độ gia đình nhỏ dần dần tiến tới chăn nuôi tập trung trang trại với số đầu gia súc cao hơn, hướng đến mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trên khắp khu vực và trên thế giới. 2.3. Tổng quan tình hình chăn nuôi lợn ở Việt Nam Ở Việt Nam chăn nuôi lợn xuất hiện từ lâu đời và trở thành một nghề truyền thống của nông dân, tuy nhiên trình độ chăn nuôi lạc hậu cùng việc sử dụng các giống nguyên thủy sức sản xuất thấp nên hiệu quả không cao. Chăn nuôi lợn ở nước ta chỉ thực sự phát triển mạnh từ những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Trong những năm qua, ngành chăn nuôi nói chung và ngành chăn nuôi lợn nói riêng và có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Số lượng đầu lợn không ngừng tăng mạnh qua các năm, tính đến năm 2011 Việt Nam đã có trên 27 triệu con đứng hàng thứ 5 trong số 10 nước có số đầu lợn cao nhất thế giới, nhưng đứng hàng thứ 6 về số lượng thịt lợn sản xuất ra. Trong đó lợn tập trung ở các vùng trọng điểm như: Vùng miền núi phía Bắc, Đồng Bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ có hơn 90% số đầu lợn tập trung ở các vùng này. Tổng đàn lợn nái ước tính 3,9 triệu con, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm 23% với 897,9 ngàn con. Theo số liệu của Cục Chăn nuôi, khối lượng thịt hơi các loại sản xuất bình quân trong tháng 10 đạt trên 380 ngàn tấn, tăng 7,9% so với bình quân tháng 9 năm 2011. Bảng 9. Số lượng lợn phân theo địa phương 18 Số lượng : (nghìn con) Năm Vùng CẢ NƯỚC Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long 2009 27627,6 7444,0 6317,2 2010 27373,3 7301,0 6602,1 Sơ bộ 2011 27056,0 7092,2 6424,9 5888,0 5552,9 5253,3 1636,0 1633,1 1711,7 2611,6 2485,3 2801,4 3730,8 3798,9 3772,5 ( Nguồn: Theo cục thống kê năm 2012 ) 2.4. Tình hình chăn nuôi lợn ở Hà Tĩnh Chăn nuôi lợn là nghề sản xuất truyền thống, giữ vị trí quan trọng nhất trong tổng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi của tỉnh, tạo nguồn thu nhập quan trọng cho hộ gia đình ở nông thôn, chiếm khoảng 68% trong cơ cấu tổng thu nhập từ chăn nuôi trong nông hộ. Hàng năm, chăn nuôi lợn sản xuất một khối lượng thịt hơi khá lớn, chiếm 66% tổng khối lượng thịt hơi các loại, cùng với các ngành chăn nuôi khác đã đưa tỷ trọng chăn nuôi năm 2011 chiếm 42% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Ngành chăn nuôi ở Hà Tĩnh, trong những năm gần đây đã được khởi sắc và có sự tăng trưởng khá, tạo ra sự thay đổi rõ rệt trong cơ cấu nông nghiệp. Tuy nhiên, so với tiềm năng và lợi thế còn chưa xứng tầm cần phát triển mạnh hơn nữa, để chăn nuôi trở thành ngành chính của sản xuất nông nghiệp tỉnh nhà. Hà Tĩnh là địa phương có nhiều tiềm năng lợi thế để phát triển chăn nuôi, đặc biệt chăn nuôi lợn, song do tập quán chăn nuôi nhỏ lẻ (quy mô từ 1-2 con chiếm tỷ lệ lớn), tự phát, nên hiệu quả chưa cao. Chăn nuôi lợn ở Hà Tĩnh phát triển bền vững, cần làm tốt công tác quy hoạch vùng chăn nuôi tập trung, đưa chăn nuôi ra khỏi khu dân cư, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về phòng chống dịch bệnh, nâng cao chất lượng con giống, du nhập quản lý chặt chẽ con giống trên địa bàn, chú trọng đến bảo vệ môi trường trong chăn nuôi, áp dụng các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi. Trong năm 2011 nghành chăn nuôi lợn ở Hà Tĩnh đã đạt được những kết quả khả quan. Cụ thể là: 19 - Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi 2.450 tỷ đồng, đạt 114,48% kế hoạch, tăng 19,62% so với năm 2010; tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi đạt 40% trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp. - Tổng đàn ước tính cả năm: Lợn 420.000 con, đạt 93,34% kế hoạch, giảm 0,7% so với năm 2010; tỷ lệ nái ngoại đạt 20% tổng đàn nái, tăng 4 % so với năm 2010. - Công tác giống vật nuôi: Giống lợn ước tính cả năm phối dẫn được 38.679 liều đạt 100% kế hoạch, tăng 7% so với năm 2010; cung ứng giống lợn 3.373 con, đạt 89% kế hoạch, tăng 8% so với năm 2010, (chất lượng giống lợn đảm bảo). Tuy nhiên qua những năm hoạt động khó khăn trong nền kinh tế thị trường, dịch bệnh xẩy ra thường xuyên nhất là dịch bệnh tai xanh đang hoành hành ở Hà Tĩnh mấy năm trở lại đây. Nhưng Trạm thú y Hà Tĩnh đã vươn lên, tự khẳng định hướng đi và cách làm của mình bằng hiệu quả công việc, đảm bảo an toàn dịch bệnh cho đàn gia súc gia cầm từ đó đã góp phần thúc đẩy ngành chăn nuôi của Hà Tĩnh phát triển nhanh và bền vững. 2.5. Vai trò của chăn nuôi lợn. Từ lâu nay cuộc sống của người Việt Nam luôn gắn liền với trồng lúa và chăn nuôi. Chăn nuôi không chỉ mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho nhu cầu tiêu dung của người dân mà còn phục vụ cho ngành trồng trọt (nhờ các sản phẩm phụ). Ngoài những đặc điểm chung trên, chăn nuôi lợn còn có những đặc điểm đáng chú ý như thu được lợi nhuận cao, chu kỳ chăn nuôi ngắn…Do vậy, chăn nuôi lợn được hầu hết người dân quan tâm. Trong điều kiện sản xuất của các nông hộ hiện nay, chăn nuôi lợn tận dụng được các điều kiện như kỹ thuật, sức lao động, thức ăn sẵn có của gia đình và cung cấp các sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và giá trị hàng hoá cao phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Chăn nuôi lợn còn tạo ra nguồn phân bón hữu cơ cho phát triển trồng trọt, cung cấp nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp chế biến. Chăn nuôi lợn cũng là một hướng để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Tạo việc làm trong người lao động, tăng thu nhập và tăng thêm nguồn thực phẩm chất lượng. Những năm gần đây, khi mà cuộc sống của đại bộ phận người dân được cải thiện nhiều thì nhu cầu tiêu dùng thịt ngày càng tăng, chủ yếu là thịt lợn và các sản phẩm được chế biến từ thịt lợn. Phát triển chăn nuôi lợn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý hơn, tăng dần tỉ trọng ngành chăn nuôi giảm dần tỉ trọng ngành trồng trọt. Chăn nuôi lợn phát triển góp phần khai thác sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn. Ngoài ra lợn thịt có tỷ lệ thịt xẻ cao, đạt từ 75-85%, cao hơn tất cả các giống 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng