THUỐC KHÁNG SINH VÀ NGUYÊN TẮC
SỬ DỤNG TRONG CHĂN NUÔI THÚ Y
THUỐC KHÁNG SINH VÀ NGUYÊN TẮC
SỬ DỤNG TRONG CHĂN NUÔI THÚ Y
PGS.TS BÙI THỊ THO
I. ĐẠI CƯƠNG
Fleming 1929, lần đầu tiên tìm thấy trong môi trường nuôi cấy tụ cầu vàng nếu
có lẫn nấm Penicillium các khuẩn lạc gần đó sẽ không phát triển được. Năm 1939,
Florey và Chain đã chiết xuất được từ nấm đó chất Penicillin dùng trong điều trị
bệnh.
Sau này, đặc biệt sau hai thập kỷ cuối thế kỷ XXI, công nghệ sinh học và hóa dược
phát triển mạnh, người ta đã tìm ra rất nhiều loại kháng sinh mới.
Thuốc kháng sinh là những chất hữu cơ có cấu tạo phức tạp, phần lớn trong số đó
lúc đầu do xạ khuẩn, vi khuẩn, nấm sản sinh ra. Với nồng độ thấp đã có tác dụng
(cả in vitro và in vitro) ức chế hay tiêu diệt sự sinh trưởng và phát triển của vi sinh
vật gây bệnh nhưng không hay rất ít gây độc cho người, gia súc, gia cầm.
Kháng sinh có thể làm thay đổi hình dạng, ức chế quá trình sinh tổng hợp protein,
kìm hãm sự tạo thành vách của vi khuẩn. Ngược lại một số vi khuẩn có kháng thể
kháng với kháng sinh. Kháng sinh kìm khuẩn sẽ ức chế sự phát triển của vi khuẩn,
kháng sinh diệt khuẩn sẽ hủy hoại vĩnh viễn được vi khuẩn. Trong điều trị thường
dựa vào tỷ lệ sau để chọn thuốc:
Nồng độ diệt khuẩn tối thiểu (MBC)
Tỷ lệ =
Nồng độ kìm khuẩn tối thiểu (MIC)
Tỷ số này nếu ˃ 4 là kháng sinh kìm khuẩn; nếu ≈ 1 là kháng sinh diệt khuẩn.
Ngày nay cũng còn những chất hóa dược có kiểu tác dụng giống như kháng sinh
hay bắt trước kháng sinh (antibiomimeties).
Kháng sinh ức chế sự phát triển của vi khuẩn gồm: Sulphonamide, Tatracycline,
Chloramphenicol, Erythromycin, Novobiocin, Trimethoprim và Sulphonamides,
Tiamulin, ….
Kháng sinh diệt khuẩn gồm: Penicillin và các thuốc thuộc nhóm ß-lactamin,
Streptomicin, Framomycin, Colistin, Kanamicin, Vancomycin, Bacitracin,….
Tuy nhiên khả năng diệt khuẩn hay ức chế vi khuẩn còn phụ thuộcvào nồng độ
kháng sinh. Nhiều loại thuốc khi tăng nồng độ sử dụng, thuốc từ nhóm ức chế sẽ
chuyển sang nhóm diệt khuẩn.
Cụm từ “ kháng sinh là chất không hoặc ít gây hại cho vật chủ” nên đã có rất nhiều
chất có tác dụng diệt khuẩn nhưng vẫn không được gọi là kháng sinh như một vài
1
thuốc hóa học trị liệu hay các loại thuốc sát trùng. Tuy nhiên kháng sinh không phải
là vô hại.
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kết hợp với công nghệ bào chế đã làm cho
thị trường thuốc kháng sinh trở nên phong phú cả về số lượng và chất lượng. Các
loại thuốc mới đã gây không ít lúng túng cho người làm công tác thú y khi lựa chọn
thuốc điều trị.
Tuy nhiên việc lạm dụng thuốc kháng sinh trong điều trị, việc lựa chon thuốc kháng
sinh thiếu hiểu biết, sai nguyên tắc, đặc biệt việc phối hợp thuốc kháng sinh trong
điều trị bệnh hay sử dụng thuốc kháng sinh với mục đích phòng bệnh đã làm xuất
hiện nhiều chủng vi khuẩn kháng thuốc, nhất là hiện tượng kháng đa thuốc xuất
hiện nhanh chóng và gây nhiều khó khăn và giảm hiệu quả trong công tác điều trị
các bệnh nhiễm khuẩn.
II. NGUYÊN TẮC SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG TRỊ LIỆU
2.1.
Chỉ dùng thuốc kháng sinh khi gia súc bị bệnh truyền nhiễm hay các tổ
chức cơ thể bị nhiễm trùng
- Khi động vật đã có triệu chứng thay đổi rõ ràng.
- Các phản ứng bảo vệ của gia súc vô cùng quan trọng. Nó không chỉ phòng chống
được bệnh mà còn là cơ sở để tìm ra đượccác nguyên nhân gây bệnh. Quá trình điều
trị bắt buộc phải quan tâm tới cơ chế này.
- Bệnh truyền nhiễm thường hay xảy ra dưới dạng kết hợp cùng với sự thay đổi của
nhiều yếu tố tác động khác nhau.
- Việc quản lý (tổ chức, chănm sóc) và điều trị cho động vật vô cùng quan trọng.
Trong nhiều trường hợp thời gian điều trị và chế độ chăm sóc lại quan trọng hơn
việc lựa chọn thuốc.
2.2.
Các phản ứng phòng vệ của cơ thể
- Tuân theo những cơ chế để bảo vệ, che chở sự toàn vẹn những tế bào, mô bào và hệ
thống cơ quan.
+ Hàng rào bảo vệ: Da, niêm mạc, các chất tiết từ niêm mạc, nước mắt, hệ thống cơ
quan, hệ tiết niệu, mí mắt (tuyến lệ).
+ Hệ thống hô hấp: Ho, hắt hơi, dịch tiết trên niêm mạc đường hô hấp, lớp lông nhung
bảo vệ trên niêm mạc. Đề phòng gia súc thở mạnh, nhanh.
+ Phản ứng viêm: Tăng sự chuyển dịch của huyết tương và các tế bào đến vùng có tác
nhân gây viêm, tổn thương giúp cơ thể phòng vệ, nhằm khôi phục lại những gì đã bị
gây hại. Tại nơi mầm bệnh xâm nhập cũng có thể gây thành ổ nhiễm trùng, (áp se).
2.3.
Mối quan hệ qua lại giữa bệnh truyền nhiễm với các thuốc kháng sinh
a/ Chế độ hộ lý chăm sóc nuôi dưỡng (Reginmen)
2
Quan sát mối liên hệ giữa chế độ chăm sóc và khả năng phòng vệ của cơ thể theo sơ
đồ:
CHẾ ĐỘ HỘ LÝ CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG
(REGINMEN)
Dinh dưỡng kém + tác nhân stress
Thuốc kháng sinh
Hàm lượng thuốc kháng sinh
tại nơi tác động
Giết vi khuẩn
Ức chế vi khuẩn
Sản phẩm biến đổi
của thuốc kháng sinh
Tế bào bị tổn thương
(-)
Vi khuẩn gây bệnh
Tấn công tổ chức tế bào
Ức chế khả năng phòng vệ
Gây tổn thương tế bào
Vi rus
Thay đổi bệnh lý tế bào
GÂY RA BỆNH
- Hệ thống miễn dịch dịch thể sẽ sản xuất kháng thể di chuyển trong vòng tuần hoàn
và đến nơi tác dụng.
- Hệ thống miễn dịch tế bào sản sinh hiện tượng interferon. Có sự truyền kháng thể từ
mẹ sang con, nhất là qua sữa đầu.
- Cuối cùng là mối tương quan được khép lại, gia súc có thể sống hay chết tùy theo
sức đề kháng.
- Sự truyền tải thông tin sinh học bị ngưng lại cộng thêm với việc đào thải các thuốc
ngoại lai.
- Hệ thống thần kinh, hormon thể dịch: tìm các ngăn chặn các tác nhân có hại hay lẩn
tránh nó. Tuyến thượng thận tăng tiết hormon, nó có thể thắng (sống) hay bại (chết).
Nếu thắng những triệu chứng thích nghi chung sẽ xuất hiện,làm xuất hiện trạng thái
stress tiết hydrocortisone.
b/ Các cơ chế phòng vệ, bảo vệ cơ thể
3
- Quan trọng nhất là việc phát hiện động vật ốm vì bệnh truyền nhiễm để điều trị
cùng với các thuốc kháng sinh.
- Kháng sinh sẽ có hiệu quả tốt với động vật ốm ở mô bào với nồng độ thấp hơn MIC
(nồng độ tối thiểu tác dụng của thuốc) của thuốc trong phòng thí nghiệm.
c/ Nếu cơ thể đã đề kháng với thuốc cần thiết phải sử dụng kháng sinh liều cao (không
phải là vi khuẩn kháng thuốc).
Nguyên tắc sử dụng kháng sinh trong trị liệu:
Kháng sinh có vai trò đặc biệt quan trọng trong phòng trị bệnh cho người và động
vật nuôi. Hiện tại trong nước đã có tới trên 60 – 70 % tổng giá trị các thuốc đang
dùng để phòng trị bệnh cho động vật nuôi là các thuốc hóa học trị liệu, trong đó chủ
yếu là các loại kháng sinh. Kháng sinh, thuốc trị căn nguyên gây ra bệnh nhiễm
trùng nên luôn là loại thuốc được kê đơn hàng đầu quan trọng nhất, không thể thiếu
được trong quá trình điều trị bệnh truyền nhiễm do vi trùng hay cơ thể có nguy cơ
bị nhiễm trùng: trong phẫu thuật, thiến hoạn gia súc và điều trị các vết thương ngoại
sản khoa. Hiện nay để khống chế các bệnh nguy hiểm, đặc biệt các bệnh chung giữa
người và vật nuôi do vi khuẩn không thể thiếu vai trò của kháng sinh được.
Các tác nhân gây bệnh cho người và vật nuôi: virus, vi khuẩn, nấm, sinh vật đơn
bào ( cocicoid – cầu trùng đường tiêu hóa; protozoa – ký sinh trùng đường máu)
hay các loài nội, ngoại ký sinh trùng. Các kháng sinh thông dụng chỉ có tác dụng
với vi khuẩn mà không có hoặc có ít tác dụng với tác nhân gây bệnh còn lại. Trong
khi đó mỗi nhóm kháng sinh lại chỉ có tác dụng đặc hiệu với một số loại vi khuẩn
gây bệnh nhất định. Việc hỏi bệnh, chẩn đoán đúng bệnh tất nhiên sẽ dùng đúng
thuốc.
Nắm vững bốn nguyên tắc cơ bản khi sử dụng kháng sinh sẽ giúp cho các bác sỹ
điều trị lâm sàng trong việc lựa chọn và phối hợpkháng sinh khi kê đơn. Đồng thời
cũng góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng và tiết kiệm thuốc.
- Chỉ sử dụng kháng sinh khi đã xác định được căn nguyên là vi khuẩn hoặc trong
trường hợp có nguy cơ nhiễm khuẩn cao (phẫu thuật).
- Phải biết lựa chọn kháng sinh hợp lý, (đúng chủng loại).
- Phải nắm vững được nguyên tắc khi cần thiết phải sử dụng phối hợp kháng sinh
(nắm chắc tác dụng cộng dồn, tác dụnghiệp đồng hoặc tác dụng đối kháng – không
bao giờ được sử dụng phối hợpkháng sinh diệt khuẩn với một loại kháng sinh kìm
khuẩn).
- Phải sử dụng kháng sinh đúng thời gian, đủ liệu trình.
Do việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi: làm thuốc tăng trọng, bảo quản thức
ăn, phòng ngừa dịch bệnh (liều thấp); hay sử dụng sai nguyên tắc: dùng sai liều, sai
4
phổ, không đủ liệu trình, thường xuyên chỉ dùng một loại thuốc; đặc biệt việc phối
hợp kháng sinh sai nguyên tắc … đã tạo ra các dọng vi khuẩn kháng thuốc, nhất là
hiện tượng đa kháng (vi khhuẩn gây bệnh cùng một lúc kháng với nhiều loại kháng
sinh).
Tác hại của vi khuẩn kháng thuốc trong cộng đồng: sẽ tạo ra các dòng vi khuẩn đa
kháng thuốc. Hiện nay yếu tố kháng thuốc được coi như là độc lực của vi khuẩn gây
bệnh. Chính nó làm cho quá trình điều trị phức tạp, thậm chí còn làm vô hiệu hóa
kháng sinh. Vi khuẩn gây bệnh cho đông vật vật sẽ chuyển sang gây bệnh cho
người. Nếu không có chiến lược sử dụng kháng sinh trước nhất là trong chăn nuôi ,
thú y sau đó cho người, vi khuẩn kháng thuôc sẽ bất ngơ gây dịch lớn mà chưa có
thuốc kháng sinh thay thế để điều trị.
Để đối phó với hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn, nhiều nhà khoa học và nhà
đầu tư đã tốn nhiều công sức và tiền bạc trong việc tìm ra các loại kháng sinh thế hệ
mới từ vi snh vật hay các dạng thuốc tổng hợp và dạng bào chế mới.
Sự ra đời của các nhóm kháng sinh thế hệ mới
Nền công nghiệp dược được phát triển rất nhanh và thập ký cuối của thế kỷ trước,
ngày nay càng có thêm nhiều loại thuốc mới được sử dụng trong điều trị lâm sàng.
Ví dụ như trước đây chỉ có 6 loại Penicillin tự nhiên từ nấm Penicillium notatum
thuộc nhóm ß – lactam trong điều trị bệnh do vi khuẩn gram (+), hiện nay đã có tới
trên 200 loại thuốc cùng nhóm ß – lactam xuất hiện với ba phân nhóm phụ: các
Penicillin tổng hợp phổ rộng diệt được cả vi khuẩn gram (-) và (+) và các chủng tụ
cầu, liên cầu kháng lại Penicillin: Ampicillin, Amoxycillin, Cloxacillin, Oxacillin,
Nafcillin, Hetacillin, Ticarcillin,….; các Cephlosporin có tớ ba thế hệ như:
Cephalothin, Cephalexin (I), Cefuroxim, Cefoxitin, Cefotetan (II), Cefoperazon,
Cefotaxim, Cetriaxon (III)….; các chất ức chế ß – lactamaza như: axit Clavunic,
Imipemen, Azthreoonam,…..
Trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XI, ngoài các thuốc thuộc nhóm ß
– lactam kể trên, nên công nghiệp dược đi sâu khai thác sản xuất các thế phẩm
thuốc mới có nguồn gốc từ các Quinolon, Imidazon và Sulphamid (gọi chung là các
kháng sinh thế hệ mới: Norfloxacin, Enrofoxacin, các Amynoglucosid: Kanamycin,
Gentamycin, Lincosamid, Sulphamerazin, Sulphamethoxypyradazil…) hay các
dạng bào chế mới có tác dụng kéo dài thời gian tác dụng như: Tetracyllin LA. Càng
về sau các chế phẩm kháng sinh mới càng hoàn thiện và khắc phục được những
nhược điểm của kháng sinh cổ điển: phổ tác dụng rộng, thời gian tác dụng kéo dài,
ít hay không có tác dụng phụ.
DANH MỤC THUỐC, NGUYÊN LIỆU LÀM THUỐC THÚ Y HẠN CHẾ SỬ DỤNG
5
TT
1
2
3
4
5
6
6
7
Tên thuốc, nguyên liệu làm thuốc
Bacitracin Zn
Carbadox
Olaquindox
Spiramycin
Tylosin Phosphate
Avoparcin
Virginiamycin
Meticlorpidol
TT
9
10
11
12
13
14
15
16
Tên thuốc, nguyên liệu làm thuốc
Meticlorpidol/ Methylbenzoquate
Amprolium (dạng bột)
Amprolium/Ethopate
Nicarbazin
Flavophospholipol
Salinomycin
Avilamycin
Monensin
DANH MỤC THUỐC, NGUYÊN LIỆU LÀM THUỐC THÚ Y CẤM SỬ DỤNG
TT Tên hóa chất, kháng sinh
1
Chloramphenicol (Tên khác: Chloromycetin; Chlomitromycin; Laevomycin,
Chlorocid, Leukomycin)
2
Furazolidon và dẫn xuất của nhóm Nitrofuran (Nitrofuran, Furacillin, Ntrofurazon,
Furacin, Nitrofurantoin, Furoxon, Orafuran, Furadonin, Furadantin, Furaltadon,
Payzone, Furazolin, Nitrofurmenthon, Nitrofuridin, Nitrovin)
3
Dimetridazole (tên khác: Emtryl)
4
Metronidazole (tên khác: Trichomonacid, Flagyl, Klion, Avimetronid)
5
Dipterex (tên khác: Metriphonat, Trichlorphon, Neguvon, Chlorophos, DTHP);
DDVP (tên khác: Dichlorvos; Dichlovoros)
III. CƠ SỞ CỦA VIỆC CHỌN THUỐC TRONG ĐIỀU TRỊ
3.1. Nguyên tắc lựa chọn kháng sinh
- Dựa vào kết quả của việc hỏi diễn biến của bệnh, thăm khám, chẩn đoán bệnh để dự
đoán thuốc sẽ dùng. Sau đó dựa vào các triệu chứng lâm sàng, dịch tễ học….dự
đoán căn nguyên gây bệnh. Trên cơ sở đó để chon thuốc điều trị. Đây là phương
pháp tối ưu để chọ thuốc.
- Chọn thuốc dựa trên hoạt phổ kháng sinh đẫ được giới thiệu trong các thuốc hay
nhóm thuốc (thường các thuốc đều có bảng phụ lục về phổ kháng sinh).
- Kiểm tra kháng sinh đồ tìm thuốc mẫn cảm với vi khhuẩn gây bệnh. Mặc dù vậy,
kết quả mẫn cảm trong phòng thí nghiệm đôi khi không đúng như thực tế điều trị
bệnh truyền nhiễm. Điều này chưa được giải thích rõ do nó con phụ thuộc vào nhiều
yếu tố.
- Nhuộm tiêu bản, xem kính hiển vi giúp đỡ thêm cho việc chẩn đoán chính xác.
- Chú ý đích của phép điều trị: trong khi chọn thuốc cần chú ý đến đích – nơi vi
khuẩn đang cư trú trong cơ thể bệnh súc: máu, tim, gan, …để chon thuốc, chọn
đường đưa thuốc thích hợp làm sao cho thuốc kháng sinh nhanh chóng đến được
nơi tác dụng (nơi vi khuẩn cư trú) với nồng độ cao nhất và thời gian tồn tại lâu.
6
- Sử dụng kháng sinh cho hiệu quả tốt nhất. Chọn thuốc đơn trị dựa trên hoạt phổ của
nó sẽ cho kết quả mong muốn. Trường hợp này có kết quả rất cao trong điều trị các
bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn gây ra.
- Chỉ phối hợp kháng sinh trong trường hợp thật cần thiết: chống lại nguy cơ gây vi
khuẩn kháng thuốc hoặc gia súc bị bệnh ghép.
3.2. Phương pháp kiểm tra mức độ nhậy cảm của vi khuẩn gây bệnh với thuốc
kháng sinh
- Nuôi cấy, phân lập, giám định loại vi khẩn gây bệnh.
- Kiểm tra mức độ nhậy cảm bằng cách xác định độ nhậy cảm của vi khuẩn với
thuốc. Có 2 phương pháp xác định độ nhạy cảm cuẩ vi khuẩn với khngs sinh trong
phòng thí nghiệm:
a/ Phương pháp khuyếch tán trên thạch đĩa của Kirby Bauer
Là phương pháp xác định đơn giản, dựa trên độ lớn vòng vô khuẩn. Kết quả đo
được chia thành 3 mức: mức độ mãn cảm, trung bình và kháng thuốc dựa vào kết
quả đo đường kính vòng vô khuẩn bình quân. Đơn vị tính mm rồi đối chiếu với
bảng cho sẵn.
b/ Môi trường lỏng
Là sự xác định định lượng: xác định được mối quan hệ giữa nồng độ tác dụng với
nồng độ ức chế hay diệt khuẩn của thuốc. Thường được nhận ghi bằng nồng độ
MIC là hàm lượng thuốc trong μg/ml hay μg/g của mô bào. MIC – nồng độ thấp
nhất của thuốc có khả năng ức chế được sự phát triển vi khuẩn sau 18 – 24 giờ
trong tủ ấm.
MIC của thuốc kháng sinh dùng trong điều trị được phân thành 4 mức sau:
+ Mẫn cảm: Thuốc ức chế vi khuẩn gây bệnh bằng nồng độ của nó trong các mô bào.
Đây cũng là liều điều trị trung bình hiện đang được áp dụng.
+ Mẫn cảm trung bình: Thuốc ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh bằng nồng
độ của thuốc trong tế bào và cũng đúng bằng liều điều trị tối đa.
+ Mẫn cảm có điều kiện: Thuốc ức chế vi khuẩn gây bệnh chỉ tìm được ở vị trí mà tại
đó nồng độ thuốc trong mô bào cao hơn ở hầu hết các tổ chức khác trong cơ thể. Ví
dụ như trong đường tiết niệu.
+ Sự kháng thuốc: Vi khuẩn gây bệnh không bị ức chế bởi nồng độ thuốc trong các
mô bào (nồng độ này cao hơn nồng độ tác dụng nhưng chưa gây hại tế bào). Muốn
ức chế các vi khuẩn gây bệnh này cần phải dùng thuốc nồng độ cao hơn (tức liều
gây độc hại tế bào). Trong lâm sàng tuyệt đối không được dùng các thuốc đã bị vi
khuẩn kháng lại để điều trị, khi đó bệnh không những không khỏi mà động vật còn
bị chết do độc lực của thuốc (nồng độ thuốc tự do quá cao trong cơ thể).
7
c/ Độ mẫn cảm của thuốc cũng khác nhau với từng loại vi khuẩn
- MBC – minimum bactericidal concentration: Là nồng độ kháng sinh thấp nhất
có khả năng diệt khuẩn đến 99,9% số lượng vi khuẩn.
- MAC – minimum antibiotic concentration: Là nồng độ thấp nhất của kháng sinh
có khả năng diệt vi khuẩn trên cơ sở thay đổi cấu trúc hay tốc độ phát triển, thay đổi
hình thái học, làm cho nguyên sinh chất sáng lên hay tích điện trong microsom, ức
chế bằng cách sản xuất ra một chất làm giảm tốc độ phát triển.
- SIC – Subihibitory concentration: Là nồng độ mà ở đó vi khuẩn vẫn phát triển
được, nhưng tăng độ nhậy cảm hơn vì nó đã bị mất khả năng tự vệ hay bị mất các
yếu tố gây bệnh.
- LGT – Log growth time: Là thời gian cần thiết để để vi khuẩn lại phát triển sau
khi ngừng cho thuốc kháng sinh.
Kiểm tra độ mẫn cảm của thuốc với vi khuẩn gây bệnh trong phòng thí nghiệm:
- Phải nhìn tận mắt khả năng diệt hay ức chế vi khuẩn của thuốc
- Không có kết quả thì không sử dụng thuốc.
Có thể dẫn đến hai trường hợp rắc rối khó lý giải trong thực tế: Thuốc có độ mẫn cảm
rất tốt (tuyệt vời) trong phòng thí nghiệm nhưng khi điều trị lại không cho kết quả
như dự đoán. Ngược lại, những thuốc có độ mẫn cảm không tốt lắm song lại cho
hiệu quả điều trị cao hơn.
3.3. Bảng chọn thuốc trong điều trị bệnh truyền nhiễm
a/ Chiến lược sử dụng kháng sinh
Trong chiến lược sử dụng kháng sinh chúng ta không nên quá lạm dụng các thuốc
như: Cifloxacin, Imidazol, Nitrofuran…những loại thuốc mới trị bệnh hiểm nghèo
của người, vật chủ và cả trong vi khuẩn nên dễ gây quái thai, suy tủy như
Chloramphenicol hay các kháng sinh tác động vào AND, ARN chỉ dùng trong điều
trị bệnh do nấm và trị ung thư của người. Với thú y không nên sính thuốc mới, sính
thuốc ngoại đề phòng khi vi khuần gây bệnh cho vật nuôi sẽ chuyển sang gây bệnh
cho người, khi đó sẽ chưa có thuốc điều trị kịp thời.
Việc theo dõi kết quả điều trị và hiện trạng sử dụng kháng sinh trong lâm sàng diễn
biến ngày càng phức tạp. Khi dùng kháng sinh cần theo dõi chặt chẽ diến biến, hiệu
quả và những phản ứng có hại để lựa chọn thuốc có hiệu quả điều trị cao mà tác
dụng có hại ít. Muốn vậy, người bác sĩ thú y và người chăn nuôi có trình độ cao
không chỉ cần biết khai thác những đặc điểm có lợi của kháng sinh mà cần phải biết
đầy đủ những tác dụng phụ không mong muốn do thuố gây ra, trên cơ sở đó có các
biện pháp phòng trị kịp thời. (Tức là ta cần xem xét, cân nhắc cái lợi, cái hại của
việc dùng thuốc).
8
b/ Cách chọn thuốc kháng sinh trong điều trị chống bệnh truyền nhiễm
Trong khi điều trị các bệnh truyền nhiễm, nên có chiến lược sử dụng kháng sinh.
Khi dịch bệnh xẩy ra, bao giờ cũng chọn thuốc mà vi khuẩn mẫn cảm nhất. Với một
bệnh cụ thể nên có chỉ định dùng thuốc như: thuốc nào là số 1, thuốc nào là số 2,
khi nào dùng phối hợp thuốc, khi gặp vi khuẩn đã kháng thuốc sẽ chọn thuốc nào
thay thế. Chỉ có như vậy, khi vi khuẩn kháng thuốc chúng ta mới chủ động có thuốc
thay thế.
Sau đây xin giới thiệu một số chiến lược sử dụng thuốc của tổ chức y tế thế giới
dùng trong điều trị bệnh truyền nhiễm cho người và động vật nuôi.
Ký hiện viết tắt:
AP: Ampicillin
PAS: Para – aminosalicylic acid
GM: Gentamycin
AT: Amphotericin B HB: Hydroxystibamidine
PHZ: Phenazine
CL: Colistin
IDU: 5-iodo-2-deoxyuridine
PMX: Polymycin B
CLX: Cloxacillin
INH: Isoniazid
PN-G: Penicillin G
CP: Cephalothin
KN: Kanamycin
PZ: Pyrazinamide
LC: Lincomycin
CM: Chloramphenicol
RC: Ristocetin
CS: Cycloserine
MT: Methicillin
SF: Sulfones
EM: Erythromycin
NB: Novobiocin
SM: Streptomycin
ETM: Ethionamide
NF: Nafcillin
SN: Sulfonamide
ETH: Ethambutol
NM: Neomycin
TC: Tetracycline
FD: Nitrofurantoin
TSC: Thiosemicarbazones
NY: Nystatin
GF: Griseofulvin
OX: Oxacillin
VC: Vancomycin
9
Bệnh
Chỉ định chọn thuốc1
1st
2nd
3nd2
4th2
Bệnh áp se
Nhiễm trùng máu
Bệnh tim
Bệnh phổi
Viêm màng não
Viêm xương khớp – cơ thần kinh
Mẫn cảm
Pe.G
CLX
Cp
NF
OX
EM
EM
LC
CM
NB
TC
CM
NB
VC
KN
RC
TC
Viêm hang
Sốt phát ban đỏ
Sốt hủy tế bào
Đóng dấu
Viêm phổi
Nhiễm trùng huyết
Viêm thính giác và các xoang
Pe.G
Ap
CLX
EM
NF
OX
CLX
LC
TC3
CM
NB
Viêm màng tim
Sinh dục tiết niệu
Viêm màng não
Viêm răng
Viêm nội mạc tim
Viêm sinh dục tiết niệu
Nhiễm trùng huyết
Viêm tủy
Viêm não áp se
Nhiễm trùng huyết
Viêm nội mạc tim
Áp se não và các cơ quan khác
Pe.G
Ap
CP
EM
NB
VC
Pe.G + SM4
AP
CP+SM
EM+SM
CLX
LC
NF
OX
TC+SM
TC
Pe.G
Chọn thuốc sau khi Chọn thuốc sau khi
làm KSĐ
làm KSĐ
Viêm phổi
Viêm não tủy
Viêm nội mạc tim
Viêm khớp
EM
Pe.G
NF
OX
CLX
CP
LC
Pneumococ Anaerobi Enterococcus*( Str.viridans
*
cus
c
VK ruột)
(VK Str. Pyogenes
(nhóm A,B,C,G)
(kị khí)
có độc
Treptococ
lực
cus*
Staphylococcus
Aureus*
VK
Kháng
Pe.G
CLX
Cp
NF
MT
OX
10
RC
VC
TC5
Meningoco Gonococcus –
ccus
lậu cầu
khuẩn
Pe.G
AP
CP
EM
TC
Viêm màng não tủy
Huyết nhiễm khuẩn
Pe.G6
SN6
AP
CP
EM
Viêm niệu đạo
Huyết nhiếm khuẩn
Viêm nội mạc tim
Viêm não tủy
Viêm não tủy
Viêm phổi
Pe.G
Kn
CL
Pe.G
EM
TC
CM
CP
LC
Viêm họng
Viêm thanh quản
Viêm phổi
Viêm các cơ quan khác
Viêm di căn
Viêm cầu thận
Pe.G
EM
CP
LC
NF
OX
TC
FD
SN9
CP
Pe.G10
CL
PMX
Viêm các tổ chức khác
CM
TC
AP
CM
TC
AP
CP
KN
Gây bệnh đóng dấu lợn
Pe.G
EM
CL
PMX
Pe.G10
SM
CL
PMX
Pe.G10
KN
NM
CM
SN
TC
A.aerogen Erysipelot E. coli*
es* và
hrixin
A.faec
sidios
alis
a
ĐDL
C. diphtheriae
B.
anthra
cis –
nhiệt
thán
Mina*
Nhiễm trùng các tổ chức
Viêm khớp
Viêm não tủy
Viêm nội mạc tim
Viêm cầu thận, các khí quan khác CM
nhau trong cơ thể
SN
TC
AP
CP
11
K.pneumon Pseu.Aeru Proteus
Proteusmia Streptobcilu
iae*
ginosa (đặc biệt
rabitis
s
khác
8.11
)
Salmonella
EM
SM
CM
CP
TC
SM
Viêm cầu thận và các cơ quan CL
khác
PMX
GM
NB
NM
Viêm cầu thận và các cơ quan CL
khác
PMX
GM
Chọn thuốc sau khi Chọn thuốc sau khi
làm KSĐ
làm KSĐ
Viêm phổi
Viêm cầu thận
Viêm ống mật
Viêm cơ thần kinh
Sốt thương hàn
Sốt phó thương hàn
Nhiễm trùng huyết
Viêm dạ dầy ruột cấp tính
Viêm dạ dầy ruột cấp tính
CM + SM
TC + SM
Pe.G10
KN
CM
AP
CP
Pe.G10
TC
TC
AP
CM
CP
Pe.G10
SN
Viêm họng
Viêm tai
Viêm hầu
Viêm thanh quản
Viêm phổi
Viêm não tủy
CM + SN
SM + SN12
TC + SN
AP13
CM14
SN14
TC14
H. influenza
Shigella
Huyết nhiễm trùng
Pe.G
Viêm khớp
Viêm nội mạc tim
Áp se
Viêm cầu thận và các cơ quan AP
khác
Pe.G
12
Past.multo Pas. Pestis Brucella
cida
và
tulare
nsis
Perfri
ngens
TC
TC + SM15
CM
Gây bệnh sốt tularensis
SM
SN16
CM
TC
PMX
NM
Gây áp se
Huyết nhiễm trùng
Viêm não tủy
SM
TC
CM
KN
Viêm hoại tử dạ dầy, ruột
Pe.G20
TC
Bệnh uốn ván
Pe.G20
Gây áp se não và các cơ quan khác TC18
Phù não
Gây huyết nhiễm trùng
CM18
Bệnh lao
INH21
SM21
PAS21
CS22
ET22
PZ22
Gây bệnh hủi, bệnh phong
SP
ETM23
TSC23
PHZ23
Bệnh xoắn khuẩn
Viêm não tủy
Pe.G
TC
Leptospira M. leprae
M.
tubercul
osis
Bacteroide Cl. tetani
ss
Cl.
Xẩy thai truyền nhiễm
13
Ghi chú:
1. * Gồm các chủng vi khuẩn đã qua kiểm tra kháng sinh đồ - KSĐ mẫn cảm với thuốc
2. TC3 : Khi kiểm tra có khoảng từ 10 – 30% số chủng Strep.pyogenes nhóm A không
còn mẫn cảm với Tetracycllines.
3. SM4 : Có thể chỉ dùng liều rất cao Penicillines 20 000 000 UI hay hơn nữa khi điều
trị. Hay cũng có thể kết hợp với Streptomycine.
4. TC5 : Có một số chủng Pneumococcus đã kháng lại Tetracyclines.
5. Pe.G6, SE6 : Hầu hết các chủng meningococcus – lậu cầu khuẩn vẫn con rất mẫn cảm
với các Sulphonamid trừ typ B đã kháng lại với Pe.G. Thực tế hay dùng
Sulfsdiazinne và Sulfisoxazole.
6. C.diphtheriae7 : Khi điều trị làm kháng sinh đồ chọn thuốc đặc hiệu, không nên phối
hợp thuốc sẽ gây độc.
7. Vi khuẩn8: Các chủng vi khuẩn này rất hay xuất hiện sự kháng thuốc. Trước khi điều
trị cần cân nhắc, kiểm tra sự mẫn cảm với thuốc.
8. SN9: Khi bị viêm cầu thận do E.coli, nên chọn Sulphonamides có tỷ lệ acetyl hóa
thấp, ít được bài thải qua nước tiểu.
9. Pe.G10 : Có thể tăng liều từ 10 – 40 000000 UI/ngày và nhất thiết phải kiểm tra sự
mẫn cảm với thuốc bằng phương pháp ơha loãng.
10.Có nhiều chủng Proteus khác so với chủng P. mirabilis cũng gây bệnh. Khi điều trị
cần chú ý.
11. Khi phối hợp chung SM+SN12. Thuốc phải bảo quản trong dung dịch đặc biệt.
12. AP13 : Ampicillin có hiệu quả cao với H. influenzae, nhưng không có tác dụng khi
động vật nuôi bị viêm não tủy.
13. Các thuốc CM14; SN14 và TC14: Các thuốc này chỉ dùng khi gia súc viêm hang, thanh
khí quản, tai và phổi. Không dùng khi bị vêm não tủy.
14. Chỉ dùng riêng Tetracilline cũng có tác dụng điều trị bệnh xẩy thai truyền nhiễm.
Nhưng tốt nhất, chắc chắn nên dùng phối hợp Tetracilline với Streptomycin
TC+SM15.
15. Hiệu quả điều trị tụ huyết trùng gia súc của Sulphonamide cũng tương tự như
Streptomycin. Có thể dùng SN16 đơn trị đều được.
16.Các trường hợp bệnh của gia súc có số 18, khi chọn thuốc cần lưu ý dược động học.
Thuốc dụng phải ngấm được vào các tổ chức đang bị tổn thương.
17. 19 : Cần thiết phải thải các chất độc, cặn bã ra bằng cách dùng dầu tẩy.
18. Pe.G20: ít nhất phải dùng 10 000000UI/ngày.
19. Các thuốc 21 và 22 chỉ ưu tiên cho bệnh lao.
14
20. Các thuốc 23 chỉ dùng cho bệnh phong, bệnh hủi cùi.
IV. NGUYÊN TẮC PHỐI HỢP KHÁNG SINH TRONG ĐIỀU TRỊ
4.1. Cơ sở lý thuyết
Phối hợp kháng sinh được thực hiện trong các điều kiện sau:
- Nhằm làm giảm khả năng xuất hiện chủng vi khuẩn kháng thuốc với kiểu kháng
thuốc do đột biến, khi phối hợp kháng sinh sẽ lamg giảm tần số xuáta hiện đột biến
kép. Đột biến của vi khuẩn kháng lại Streptomycin 10-9 và Rifampicin 10-7. Khi phối
hợp chúng thì xác suất xuát hiện đột biến kháng được cả hai kháng sinh trên là 10-7 x
10-9 = 10-16. Đây chính là lý do phối hợp hai tloại thuốc trên để chữa lao.
- Nhằm điều trị các bệnh nhiễm khuẩn do nhiều loại vi khuẩn, cả vi khuẩn ưa khí, kị
khí như khi bị viêm phúc mạc, phế mạc, viêm phổi, áp se não, nhiễm trùng
huyết…..Khi đó mỗ kháng sinh sẽ tiêu diệt một loại vi khuẩn, phối hợpkháng sinh sẽ
tiêu diệt được nhiều vi khuẩn hơn.
- Phối hợp kháng sinh để tăng khả năng diệt khuẩn như dùng Sulfamethoxazole cùng
với Trimethoprim trị bệnh do Salmonella typhi. Phối hợp Carbenicillin với
Gentamycinhay với Tobrramycin trị viêm phổi do Pneumonia aeruginosa.
- Chỉ nên phối hợp kháng sinh khi bị nhiễm đồng thời nhiều vi khuẩn hay khi phối hợp
sẽ diệt được vi khuẩn kháng thuốc.
4.2. Kết quả của phối hợp kháng sinh
Mỗi loại kháng sinh, ngoài tác dụng chính còn ít nhiều tác dụng phụ không mong
muốn. Khi phối hợp chúng lại, những tác dụng phụ này cũng sẽ cộng lại hay tăng
thêm. Dùng liều lượng sai cũng sẽ có thể dẫn đến nguy cơ xuất hiện vi khuẩn kháng
đa thuốc. Sự phối hợp kháng sinh sẽ dẫn đến các kiểu tác dụng: đối kháng, hiệp đồng
cộng và hiệp đồng tăng mức.
- Tác dụng đối kháng:
Các thuốc phối hợp ngược nhau về cơ chế tác dụng như: dùng Tetraxycllin cùng với
Penicillin sẽ dẫn tới đối khngs vì: Penicillin tác dụng lên tế bào vi khuẩn đang nhân
lên trong khi đó Tetraxycllin lại ức chế sự phát triển của vi khuẩn.
Phối hợp kháng sinh có cùng đích tác dụng, vì chúng sẽ đẩy nhau ra khỏi đích như:
Erythromycin với Lincomycin (hay Clindamycin) và Chloamphenicol.
Dùng thuốc kháng sinh có tính chất tương kỵ nhau như: khi truyền vào tĩnh mạch
chữa các bệnhnhiễm khuẩn do ghép nhiều vi khuẩn, nếu trộn lẫn Penicillin với
Gentamycin thì hiệu quả điều trị sẽ giảm đi do các thuốc này có tính tươg kỵ,
Penicillin làm mất hoạt tính của Gentamycin.
- Tác dụng hiệp đồng:
15
Các thuốc có tác dụng ức chế những khâu khác nhau trong cùng một chu trình chuyển
hóa của căn nguyên gây bệnh (vi khuẩn hay protozoa – ký sinh trùng đường máu),
với vi khuẩn như: sự phối hợp của Sulfamethoxazole và Trimethoprim (co –
trimoxazole). Thuốc này có tác dụng vào hai khâu khác nhau trong quá trình tạo acid
tetrahydrofolic cần cho sự sinh sản và nhân lên cảu vi khuẩn. Sự phối hợp này làm
tăng hiệu quả chữa bệnh rõ rệt. Với protozoa có Sulfadoxine (fanasil) với
Pyrimethamine (daraprin) để tạo fasidar có hoạt tính chống ký sinh trùng sốt rét cao.
Phối hợp một thuốc có tác dụng ức chế men ß – lactamase, giúp cho vòng ß – lactam của
thuốc không bị phân hủy sẽ phát huy tác dụng mạnh. Phối hợp Amoxicilin cới axit
Clavulanic (augmentin), hay dùng Ampicilin cùng Sulbactam (unasyn). Các thuốc
Clavulanic và Sublactam khi dùng đơn độc ít có tác dụng kháng sinh, vì nó chỉ ức chế
sự sản sinh ra men ß – lactamase do các plasmid của tụ cầu và nhiều vi khuẩn đường
ruột khác sinh ra.
Phối hợp kháng sinh cùng ức chế sự tổng hợp vách tế bào vi khuẩn: sự tạo vách tế bào vi
khuẩn gồm nhiều khâu và rất nhiều phản ứng. Khi phối hợp, môic thuốc sẽ có tác
dụng vào một khâu hay một phản ứng nhất định, nên khi dùng chung sẽ cótác dụng
hiệp đồng như: dùng Ampicillin với Oxacillin hay Cloxacillin; Ampicillin với
Tircarcillin; Ampicillin với Mecillinam.
Phối hợp kháng sinh có tác dụng lên vách tế bào, tạo điều kiện cho nhóm kháng sinh
Aminoglucozid thấm nhanh, thấm sâu vào nguyên sinh chất tế bào vi khuẩn. Dùng
chung kháng sinh Penicillin với các nhóm kháng sinh thuộc nhóm Aminoglucozid
(AG): Streptomycin hay Gentamycin để chống các liên cầu mẫn cảm với Penicillin;
Oxacillin với Gentamycin hay Tobramycin để chống tụ cầu kháng Methicillin;
Cephalothin với Gentamycin chống Klebsialla.
- Tác dụng cộng
Khi phối hợp hai hay nhiều thuốc trong một hỗn hợp, dẫn đến quá trình chuyển hóa tế
bào, tác dụng cộng đơn giản do tăng liều. Hỗn hợp này rất có lợi khi mà tăng liều của
một tác nhân nào đó lại có tác dụng phụ. Phối hợp này sẽ mở rộng phổ kháng sinh.
- Tác dụng độc lập:
Sản phẩm được tạo ra khi tác dụng của thuốc có hiệu lực ngang bằng với tác dụng của
một thuốc. Về cơ bản một kháng sinh đã không được tác dụng (bị lãng phí).
4.3. Các chỉ dẫn chung cho phối hợp kháng sinh
Có nhiều cơ sở khoa học để xem xét, phối hợp các thuốc kháng sinh, tùy tính chất lý ,
hóa, dược động học,loại gai súc, loại vi khuẩn gây bệnh….Sau đây là một số loại
công thức để tham khảo:
a/ Dựa trên cơ sở chắc chắn của cơ chế tác dụng
16
- Sự diệt khuẩn:
+ Nguyên nhân là do thoát các chất dinh dưỡng ra khỏi màng tế bào vi khuẩn trong khi
đó vi khuẩn lại đang nhân lên với tốc độ nhanh để gây bệnh.
+ Do thay đổi tính thấm của màng tế bào hay thay đổi quá trình đồng hóa.
+ Các thuốc có tác dụng diệt khuẩn: Penicillin G và V, Bacitracin, Vancomycin,
Ampicillin, Hetacillin, Methicillin, Oxacillin, Nafcillin, Gentamycin, Cephalosporin,
Tribrissen, Nitrofurantoin,….
- Sự kìm khuẩn:
+ Do ức chế sinh tổng hợp Protein, acid nucleic và chuyển hóa nội bào của vi khuẩn.
Những điều nêu trên làm giảm tốc độ phát triển của vi khuẩn.
+ Do vi khuẩn bị mắt cơ chế tự bảo vệ.
+ Gồm các loại thuốc: Tetracyclines, Chloramphenicol, Lincomycin, Tylosin,
Erythromycin, Novobiocin, Sulfonamid….
b/ Sử dụng kháng sinh đúng nguyên tắc hay các chỉ định khi phối hợp kháng sinh.
Nếu phối hợp kháng sinh đúng sẽ đạt được những lợi ích lớn trong điều trị. Phối hợp
kháng sinh phải dựa trên cơ sở của việc xếp loại kháng sinh đã được giới thiệu.
+ Các thuốc ức chế và tiêu diệt vi khẩn có thể có tác dụng đối kháng, tác dụng công
hay tác dụng độc lập.
+ Đối kháng không phải là nguyên nhân giữa các thành viên khi phối hợp (ức chế hay
diệt khuẩn).
+ Phối hợp giữa các kháng sinh ức chế vi khuẩn chưa bao giờ có tác dụng hiệp đồng,
nhưng có thể tác dụng cộng hay tác dụng độc lập.
+ Phối hợp các kháng sinh diệt khuẩn có thể có tác dụng hiệp động, cộng và độc lập.
+ Phối hợp điều trị chỉ sử dụng theo chỉ định: nhiễm trùng hốn hợp, vi khuẩn hoàn
toàn kháng thuốc hay để đề phòng sự xuất hiện của vi khuẩn kháng thuốc.
4.4. Quan sát tác dụng của thuốc trên lâm sàng
- Tác dụng của thuốc kháng sinh trong phòng thí nghiệm đôi khi không giống như lý
thuyết đã viết là thuốc ức chế hay diệt khuẩn.
- Thuốc có tác dụng tốt, khi đó thuốc kháng sinh có thể là thuốc ức chế hay diệt khuẩn
còn phụ thuộc vào: Loại vi khuẩn, mức độ vi khuẩn mẫn cảm với thuốc (MIC) và
hàm lượng thuốc tại nơi tác dụng (nơi bị nhiễm khuẩn = nơi vi khuẩn cư trú), thuốc
đạt nồng độ MIC trong tổ chức bệnh như thế nào? Chế độ cho thuốc? Thời gian dùng
thuốc?
- Với thuốc Tetracycllin có khi là thuốc ức chế nhưng cũng có khi là thuốc diệt khuẩn.
- Trong nhiều trường hợp cân phải tăng liều để diệt khuẩn.
17
- Đã có nhiều kết quả điều trị mâu thuẫn (phủ nhận nhau) vì căn nguyên gây bệnh trên
các loại gia súc khác nhau.
- Kết quả điều trị còn phụ thuộc vào chế độ dùng thuốc và khả năng chăm sóc quản lý
gia súc cũng như mức độ mẫn cảm của vi khuẩn với thuốc.
Các phối hợp thuốc chỉ dùng trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn ghép, bệnh nguy
hiểm như: bệnh lao, viêm não tủy, viêm màng trong tim.
Bệnh nặng có ảnh hưởng đến tính mạng nhưng lại khó chẩn đoán tìm ra các vi khuẩn
gây bệnh, chữa được hay không phải chờ kết quả xét nghiệm.
Khi phối hợp kháng sinh cần dùng đủ liều, nên chọn các kháng sinh có tính dược
động học gần nhau.
Có rất nhiều cáh chỉ dẫn phối hợp kháng sinh, sau đây xin giới thiệu để chúng ta cùng
tham khảo. Thực tế kết quả của sự phối hợp không theo ý muốn trong những bệnh cụ
thể. Điều này còn phụ thuộc nhiều yếu tố và cũng không tuân theo một qui tắc chung
nào.
Các phối hợp đã cho kết quả điều trị tốt
a/ Phối hợp các thuốc trong nhóm Penicillin
+ Ampicillin với một trong các thuốc: Cloxacillin, Oxacillin, Ticarcillin, Mecillinam.
+ Phối hợp Cloxacillin (hoặc Oxacillin) với Mezlocillin hay Piperacillin.
+ Fluclozacillin với acid fusidic.
b/ Nhóm Penicillin với chất ức chế ß – lactamse
+ Amoxicillin hay Tircarcillin + acid Clavulanic.
+ Ampicillin + Sulbactam.
c/ Nhóm Penicillin với Metronidazole
Phối hợp một trong các thuốc sau: Penicillin, Ampicillin, Mezloccillin và Azlocillin
với Metronidazole.
d/ Nhóm Penicillin với nhóm Aminoglucozid
Phối hợp một trong số các kháng inh thuộc nhóm Aminiglucozid với một trong
những thuốc sau: Penicillin, Ampicillin, Ticarcillin, Azlocillin.
e/ Các phối hợp khác
+ Aminoglucozid + Metronidazole.
+ Aminoglucozid + Clindamycin (hoặc Lincomycin).
+ Rifampicin + Tetracyclin
+ Rifampicin + Trimethoprim.
+ Sulfamide + Trimethoprim.
f/ Ứng dụng trong điều trị bệnh cụ thể
18
Khi bị nhiễm khuẩn nặng do Pneumonia aeruginosa nên sử dụng phối hợp Azlocillin
(hay Piperacillin) vớikháng sinh nhóm Aminogucozid sẽ cho kết quả điều trị rất tốt.
Khi bị nhiễm khuẩn nặng do tụ cầu có thể dùng các phối hợp sau: Oxacillin hay
Cloxacillin với axid Fusidic hoặc Cephalosporin (thế hệ I,II) với Aminogucozid; hoặc
Aminogucozid với Clindamycin (hoặc Lincomycin).
Khi bị viêm phúc mạc hay nhiễm khuẩn kỵ khí ở ổ bụng nên phối hợp Cephalosporin
+ nhóm Penicillin + Metronidazole.
Khi bị viêm nhiễm vùng đầu và đường hô hấp do vi khuẩn kỵ khí dùng phối hợp các
kháng sinh thuộc nhóm Aminogluczid + Clindamycin (hoặc Lincomycin), vì chúng
có tác dụng tốt với tụ cầu. Khi bị nhiễm khuẩn do Legienella dùng công thức
Erythromycin + Azlocillin + Cephalosporin.
g/ Phối hợp thuốc trong từng bệnh cụ thể
Các thuốc khi phối hợp có tác dụng trong phòng thí nghiệm và được sử dụng trên lâm
sàng với các vi khuẩn gây bệnh cụ thể như sau:
+ Penicillin G/Cloxacillin: trị bệnh Staphylococcus.spp. Penicillin G/Cephalosporins:
trị bệnh Streptococcus.spp
+ Penicillin với các nhóm thuốc Aminogucozid trị bệnh do Listeria monocytogenes.
+ Ampicillin/Cloxacillin trị bệnh E.coli, Sal, Klebsiella, E.coli, Proteus.
+ Ampicillin/ Gentamycin trị bệnh Proteus.
+ Carbennicillin/ Gentamycin trị bệnh Pseudomonas, Klebsiella, E.coli, Proteus.
+ Cephalosporin/ Gentamycin trị E.coli, Klebsiella, Enterobact.
+ Lincomycin/ Aminoglucozid trị bênh nhiễm trùng hỗn hợp, nghiêm trọng do
Anaerobic và Aerobic.
+ Tylosin/ Oxytetracycline trị Pasteurella.
h/ Cách phối hợp (Theo Upon’ S Handbook of clinical Vet. Pharmacology)
+ Những kháng sinh có hoạt phổ rộng ưu tiên đặc biệt cho bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm, lúc đó chỉ chọn hai loại thuốc để phối hợp theo bảng sau. Thuốc sẽ có hiệu lực
tốt khi bị bệnh nhiễm trùng hỗn hợp cả các tác nhân gây bệnh ở ô A và B, chọn một
thuốc ở ô C và một thhuốc ở ô D, ví như Ticarcillin/Amikacin.
+ Các thuốc thuộc ô C chỉ phối hợp 1 – 2 thuốc; con thuốc ở ô D có thể phối hợp 2 –
3 thuốc.
A Tác nhân gây bệnh
B
Gram (-). Aerobes; Gram (-). Anaerobes; Gram (+). Aerobes
Gram (+). Anaerobes
19
C
D
Penicillin
Ampicillin
Amoxillin
Carbenicillin
Clamox
Cephalosporin
Chỉ phối hợp 1 – 2 thuốc
Gentamycin
Kanamycin
Amikacin
Tobrammycin
Cephalosporin
Phối hợp 2 – 3 thuốc
Trong lâm sàng, đôi khi sự phối hợp thuốc kháng sinhcó thể đạt hoặc đôi khi không
thể đạt như mong muốn.
+ Phối hợp Penicillin với Streptomycin: đây là phối hợp hiệp đồng, được sử dụng
rộng rãi trong điếu trị.
+ Novobiocin với Tetracyclin là phối hợp có chỉ định.
MIC – nồng độ tối thiểu tác dụng theo μg/ml
Loại vi khuẩn
Novobiocin
Tetracyclin
No/Te (tỷ lệ 1:1)
-
+
+
Sta aureus
0,3125
10,0
0,078/0,078
Stre hemolyticus
10,0
40,0
10,0/10,0
Bordetella
10,0
0,3125
0,3125/0,3125
Mycoplasma
3,54
0,73
0,73/0,73
Resistan strain of 3/6
2/6
0/6
My
Theo bảng theo dõi trên ta thấy :
Khi dùng đơn trị, Novobiocin có MIC thấp hơn Tetracyclin để chống lại
Staphylococcus.
Tetracyclin cũng có MIC thấp hơn Novobiocin khi chống lại Bordetella và
Mycoplasma, nhưng khi sử dụng hốn hợp tác dụng đã tăng lên để chống lại tất cả các
chủng Mycoplasma
Phối hợp Tylosin và Oxytetracillin: hỗn hợp có tác dụng cả trong ống nghiệm cũng
như trên cơ thể sống để chống lại Pasteurella multocida.
Phối hợp Gentamycin với semi – synthetic penicillin (các penicillin bán tổng hợp)
cũng có tác dụng công hưởng chống lại vi khuẩn gram (-). Cả hai loại thuốc đều diệt
khuẩn.
Các phối hợp thuốc đã được công nhận có tác dụng tốt trên lâm sàng (trên lâm sàng
đã theo dõi và hgi nhận) các kết quả sau:
+ Lincomycin/ Erythromycin;
20
- Xem thêm -