Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá khả năng sinh trưởng, một số bệnh thường gặp và cách điều trị của con l...

Tài liệu đánh giá khả năng sinh trưởng, một số bệnh thường gặp và cách điều trị của con lai f1 (lợn rừng x alíc), f1(lợn rừng x móng cái) và lợn alíc

.PDF
47
965
94

Mô tả:

PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1.1 Đặt vấn đề Chăn nuôi là một nghề truyền thống của nhân dân ta, là ngành sản xuất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Trong đó, chăn nuôi lợn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chăn nuôi nước ta. Trong sản xuất nông nghiệp chăn nuôi giữ một vị trí quan trọng vì nó cung cấp các loại thực phẩm (thịt,trứng,sữa,…) có giá trị dinh dưỡng cho con người. Ngoài ra còn là ngành tạo ra nhiều công ăn việc làm, giải quyết nguồn lao động, tận dụng các nguồn phụ phế phẩm nông nghiệp, cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người nông dân. Đặc biệt, từ khi đất nước đổi mới và đang khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần của con người được nâng lên thì nhu cầu thực phẩm cũng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Đòi hỏi các nhà chăn nuôi phải tạo ra các vật nuôi có chất lượng ngày càng cao, nên việc tạo ra tổ hợp gene mới để đáp ứng nhu cầu là rất cần thiết. Việc sử dụng nguồn gene hợp lý đã và đang được nhiều tổ chức và nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là sử dụng hợp lý những con giống địa phương. Các con giống địa phương có những ưu điểm là chịu kham khổ, dễ nuôi dưỡng, tận dụng tốt nguồn thức ăn tái chế, mắn đẻ, nuôi con khéo, đề kháng cao với bệnh tật và đặc biệt thích nghi với môi trường khí hậu... Nhưng ở mỗi một giống cũng có những hạn chế nhất định như tỷ lệ đẻ, tỷ lệ sống thấp (lợn rừng A Lưới), thịt nhiều mỡ (lợn Móng Cái)... Việc sử dụng nguồn gene hiệu quả, là cần khắc phục những tồn tại và phát huy những ưu điểm của giống sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân. Một trong những biện pháp để giải quyết vấn đề trên là sử dụng phương pháp lai tạo giữa các giống. Lai tạo vừa có tác dụng bổ trợ vừa tạo nên ưu thế lai. Lợn rừng hoang dã ở vùng A Lưới, Thừa Thiên Huế có thịt thơm ngon rất đặc trưng, da mỏng và giòn, nhiều nạc, ít mỡ, hàm lượng cholesterol thấp người tiêu dùng rất ưa chuộng nên bán được giá cao gấp 3-4 lần lợn bình thường. Vì vậy, lợn rừng hoang dã thường bị người dân săn bắn nên số lượng ngày càng suy giảm nghiêm trọng (Nguyễn Quang Linh và cs, 2005). Trong lúc đó việc thuần hóa và nuôi lợn rừng thuần chủng lại cho năng suất không cao do khó thuần dưỡng và tỷ lệ sống thấp. Trong khi đó lợn cỏ A Lưới (được người dân địa phương gọi là Alíc), có đặc điểm lông đen, dài và dầy, ở con trưởng thành có lông bờm cao kéo dài từ trán đến giữa lưng, lông mọc thành cụm: cứ 3 lông hình thành một cụm lông, trong khi đó các giống lợn khác chỉ từ 1– 2 lông làm thành 1 cụm (Phạm Khánh Từ và ctv, 2010). Lợn Alíc được nuôi bán hoang dã, quanh nhà và vườn rừng. Nguồn thức ăn chủ yếu là củ, quả và cỏ trong tự nhiên. Lợn Alíc được nuôi tại đây có đặc điểm nổi trội hơn các giống lợn khác là khả năng thích nghi cao, thịt thơm ngon khả năng sinh con và chăm con của giống lợn này là tương đối tốt (Phạm Khánh Từ và ctv, 2010). Mặt khác, lợn Móng Cái rất mắn đẻ (2 lứa/năm), đẻ nhiều con (10-16 con/lứa), khéo nuôi con, lợn cái có 1214 vú. Lợn phàm ăn, chịu đựng kham khổ tốt (Nguyễn Bá Mùi và ctv, 2011). Lai tạo giữa lợn rừng và lợn Móng Cái, lợn ALíc sẽ kết hợp bổ sung những đặc tính mong muốn của cả hai giống. Việc lai tạo giữa các giống lợn này hy vọng tạo ra được con lai có tầm vóc cải thiện, tăng trọng cao và giữ được năng suất sinh sản, chịu kham khổ tốt, thịt thơm ngon, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và nâng cao hiệu quả kinh tế cho người nuôi. Khi tạo ra được sản phẩm có chất lượng tương đương với lợn rừng đáp ứng được nhu cầu của thị trường sẽ giảm thiểu việc săn bắt trái phép lợn rừng tự nhiên đồng thời khuyến khích được người dân duy trì chăn nuôi lợn địa phương. Do vậy, việc tạo ra những tổ hợp lai trên cơ sở kết hợp các đặc điểm tốt của mỗi giống, mỗi dòng và đặc biệt là sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi lợn để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng là rất cần thiết trong chăn nuôi hiện nay. Do thời gian không cho phép chúng tôi đi sâu vào các phần khác như đánh giá về năng suất và chất lượng thịt của con lai. Xuất phát từ tình hình thực tế này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá khả năng sinh trưởng, một số bệnh thường gặp và cách điều trị của con lai F1 (lợn Rừng x Alíc), F1(lợn Rừng x Móng Cái) và lợn Alíc”. Với mục đích là tìm hiểu và khai thác hiệu quả những tính trạng tốt của giống lợn địa phương và lợn rừng, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân. 1.2.Mục tiêu đề tài - Nghiên cứu đánh giá khả năng sinh sản của lợn Alíc, Móng Cái khi lai với lợn Rừng và lợn Alíc. - Nghiên cứu đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất của con lai F1(Lợn Rừng x Móng Cái); F1(Lợn Rừng x Alíc) và lợn Alíc từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi và làm cơ sở cho việc và khai thác hiệu quả các giống lợn địa phương và lợn rừng góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân. - Theo dõi các bệnh thường mắc phải và hướng điều trị của con lai F1(Lợn Rừng x Móng Cái); F1(Lợn Rừng x Alíc) và lợn Alíc từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi. PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 Tình hình chăn nuôi ở Việt Nam 2.1.1 Tình hình chăn nuôi lợn ở nói chung Ở Việt Nam, trong những năm qua chăn nuôi lợn vẫn chiếm vị trí số một trong ngành chăn nuôi và duy trì mức tăng trưởng hằng năm cao. Từ năm 2000 – 2005 do sự phát triển của hình thức chăn nuôi trang trại cùng chính sách khuyến khích phát triển nghành chăn nuôi trong cơ cấu nông nghiệp nước ta, số đầu lợn tăng từ 20,2 triệu con (năm 2000) lên tới 27,4 triệu con (năm 2005), tốc độ tăng trưởng cao, trung bình là 5,98%. Từ năm 2006 – 2010 số đầu lợn giảm đáng kể do sự bùng phát dịch tai xanh và lở mồm long móng trên diện tích rộng. Từ đầu năm 2006 chỉ còn 26,9 triệu con, giảm xuống 2,1% so với năm 2005 và giảm xuống còn 26,6 triệu con ở năm 2007. Năm 2008 bắt đầu có dấu hiệu tăng nhẹ lên 26,7 triệu con, tăng 0,5% so với năm 2007. Đến năm 2009, số đầu lợn ở nước ta đạt 27,6 triệu con và đứng thứ tư trên thế giới về đầu lợn. Theo số liệu thống kê tại thời điểm 04/2010, cả nước có 27,3 triệu con, tăng 3,06% so với cùng kỳ năm 2009. Các vùng có số đầu lợn nhiều là vùng Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH) có 7,2 triệu con, chiếm 27,1% tổng đàn lợn trong cả nước; Đông Bắc (ĐB) 4,6 triệu con, chiếm 17,3%; Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) có 3,6 triệu con, chiếm 13,6%; Bắc Trung Bộ (BTB) có 3,4 triệu con, chiếm 12,9%; Đông Nam Bộ (ĐNB) có 2,5 triệu con, chiếm 9,3%; Duyên Hải Nam Trung Bộ (DHNTB) có 2,4 triệu con, chiếm 9,0%. Các tỉnh có số đầu lợn lớn trên 1 triệu con tại thời điểm 04/2010 là Hà Nội, Đồng Nai, Nghệ An, Thái Bình, Bắc Giang. Đến giữa năm 2012, tổng đàn lợn khoảng 27,6 triệu con, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2011. Đàn lợn nái khoảng 4,15 triệu con, tăng 8,7% so với cùng kỳ. 2.1.2 Phương thức chăn nuôi lợn Đặc điểm nổi bật nhất trong thời gian qua của ngành chăn nuôi lợn nước ta là bên cạnh phương thức chăn nuôi truyền thống, chăn nuôi trang trại tập trung hình thành và có xu hướng ngày càng phát triển, nhất là từ khi có nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về phát triển kinh tế trang trại. Đây là xu thế phổ biến trên toàn thế giới và là hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế quan trọng trong sản xuất chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng ở nước ta nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm thịt lợn đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng. Việc sử dụng các phương thức chăn nuôi khác nhau tùy vào điều kiện kinh tế và trình độ chăn nuôi của từng hộ gia đình, từng đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi vùng. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại cả ba phương thức chăn nuôi lợn, gồm: * Chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ Đây là phương thức chăn nuôi phổ biến trong cả nước, chiếm khoảng 75 80% về đầu con, nhưng sản lượng chỉ chiếm khoảng 65 - 70% tổng sản lượng thịt lợn sản xuất cả nước; quy mô chăn nuôi dao động từ 1-10 con/hộ; thức ăn đầu tư chủ yếu là tận dụng sản phẩm nông nghiệp sản xuất và khai thác tại chỗ các sản phẩm trồng trọt và sản phẩm ngành nghề phụ (làm đậu, nấu rượu, làm mì) do đó giảm chi phí đầu tư thức ăn; con giống chủ yếu là giống địa phương hoặc giống có tỉ lệ máu nội cao (F1: nội x ngoại). Phương thức này có năng suất chăn nuôi thấp, khả năng tham gia thị trường của sản phẩm thấp do lợi nhuận chia cho thương lái (chi phí thu gom, vận chuyển, kiểm dịch và chất lượng). Đặc biệt với phương thức chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ, các cơ quan chức năng cũng như người chăn nuôi không thể kiểm soát được đầu vào (giống, thức ăn) và đầu ra (lợn giống, lợn thịt) trong chăn nuôi lợn, do đó gây nên những rủi ro tiềm tàng về con giống, về dịch bệnh, về vệ sinh an toàn thực phẩm… nên có thể nói rằng chăn nuôi lợn Việt Nam chưa có tính bền vững cao. Phương thức chăn nuôi lợn nông hộ nhỏ lẻ đang có xu hướng giảm dần và trong tương lai sẽ không tồn tại hoặc được cải tiến dần thành chăn nuôi gia trại. * Chăn nuôi gia trại Đây là phương thức chăn nuôi có sự kết hợp những kinh nghiệm chăn nuôi truyền thống và kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến. Mục đích chăn nuôi đã mang đậm tính hàng hóa. Đặc trưng của phương thức này là: quy mô đàn lợn từ 10 - 30 nái, hoặc từ 10 - 50 lợn thịt/ gia trại có mặt thường xuyên; ngoài các phụ phẩm nông nghiệp thì có khoảng 40% thức ăn công nghiệp được sử dụng nuôi lợn; con giống chủ yếu là con lai có từ 50-75% máu lợn ngoại trở lên; công tác thú y và chuồng trại đã được chú trọng. Phương thức chăn nuôi nuôi này phổ biến ở các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng (Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nam) và phát triển mạnh hầu khắp trong những năm gần đây. Năng suất chăn nuôi theo phương thức gia trại tiến bộ hơn nhiều so với phương thức chăn nuôi nông hộ, tuy nhiên năng suất vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường nhất là nhu cầu về chất lượng thịt. * Chăn nuôi trang trại Phương thức chăn nuôi này được phát triển mạnh trong những năm gần đây, tính đến năm 2006, cả nước có 7.475 trang trại (TT) chăn nuôi lợn (trong đó 2.990 TT lợn nái và 4.485 TT lợn thịt chiếm 42,2% tổng số trang trại chăn nuôi. Trong đó, miền Bắc có 3.069 TT, chiếm 41,1%, miền Nam có 4.406 TT, chiếm 58,9%. Vùng có nhiều TT chăn nuôi lợn là ĐNB: 2.604 TT, chiếm 34,8%; tiếp đến là ĐBSH: 1.927 TT, chiếm 25,8%; ĐBSCL: 1.029 TT, chiếm 13,8%; ĐB: 534 TT, chiếm 7,1%; BTB: 495 TT, chiếm 6,6%; Tây Nguyên (TN) 422 TT, chiếm 5,7%. Các vùng ít phát triển là Trung Bộ, chỉ có 113 TT, chiếm 1,5% tổng số trang trại chăn nuôi lợn trên toàn quốc. Phương thức chăn nuôi này chiếm khoảng 10-15% về đầu con, 20-25% về sản lượng thịt; quy mô từ trên 20 nái hoặc trên 100 lợn thịt có mặt thường xuyên (có trường hợp 11 ngàn lợn nái bố mẹ/1 trại). Yêu cầu kỹ thuật trong chăn nuôi lợn công nghiệp rất khắt khe, chỉ có thể sử dụng thức ăn công nghiệp, con giống chủ yếu là lợn ngoại 2 máu hoặc 3 máu, áp dụng công nghệ chuồng trại tiên tiến như: chuồng lồng, chuồng sàn, chuồng có hệ thống làm mát và sưởi ấm cho lợn con, hệ thống máng ăn, núm uống tự động… Nhờ vào đó mà năng suất chăn nuôi được nâng cao, khối lượng xuất chuồng bình quân 90 kg/ con. Chăn nuôi công nghiệp bằng các giống cao sản nhập ngoại là nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng cho các thành phố lớn hiện nay và người tiêu dùng cả nước cũng như xuất khẩu trong tương lai. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì chăn nuôi lợn theo phương thức công nghiệp ở nước ta vẫn còn trong tình trạng thấp kém cả về trình độ công nghệ và năng suất chăn nuôi, khả năng cạnh tranh sản phẩm thịt lợn còn thấp do việc thiếu quản lý hàm lượng các hoạt chất sinh học trong thức ăn công nghiệp, kỹ thuật giết mổ và chế biến thịt lợn còn nhiều hạn chế. 2.1.3 Tình hình chăn nuôi lợn Rừng và lợn địa phương ở Việt Nam Chăn nuôi lợn địa phương ở nước ta có từ lâu đời, với mỗi vùng miền thì có các giống lợn đặc trưng được nuôi nhỏ lẻ theo kiểu hộ gia đình. Hiện nay việc nuôi lợn rừng và các giống lợn địa phương đang được ưa chuộng và đang phát triển. Ngoài các giống lợn địa phương có từ lâu đời của mỗi vùng thì lợn rừng cũng đang được nuôi rộng rãi. Kết quả điều tra trên 77 cơ sở chăn nuôi lợn rừng trên cả nước của Viện Chăn Nuôi cho thấy, 61,1% cơ sở nuôi lợn rừng Thái Lan thuần, 38,9% cơ sở nuôi nhiều loại, gồm lợn rừng Thái Lan, Việt Nam, lợn bản địa và các loại lai. Có 6 cơ sở nuôi lợn rừng Việt Nam thuần. Về quy mô thì chỉ có một vài trang trại có quy mô lớn nuôi 1000 con, còn lại dưới 100 con lợn thuần, chăn nuôi nông hộ từ 3-5 con (Võ Văn Sự, 2009). 2.2 Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của lợn thịt 2.2.1 Đặc điểm sinh trưởng lợn thịt Lợn con có tốc độ sinh trưởng nhanh và không đồng đều qua các giai đoạn. Nhanh nhất là ở 21 ngày tuổi đầu, sau đó tốc độ có phần giảm xuống do lượng sữa của lợn mẹ bắt đầu giảm và hàm lượng hemogobin trong máu lợn con giảm (Phạm Xuân Hùng). Trong quá trình sinh trưởng của con vật xương phát triển đầu tiên rồi đến cơ và cuối cùng là mỡ. Từ sơ sinh đến trưởng thành thì lợn tăng trọng nhanh, sau đó trưởng thành thì tăng khối lượng rất chậm rồi ngừng hẳn. Khi con vật lớn lên khối lượng kích thước các cơ quan, các bộ phận của chúng không tăng lên một cách đều đặn, trái lại tăng với các mức độ khác nhau (Vũ Duy Giảng). Và quy luật sinh trưởng phát triển của gia súc nói chung cũng như của lợn nói riêng đều tuân theo quy luật tự nhiên của sinh vật: Quy luật sinh trưởng không đồng đều, quy luật phát triển theo giai đoạn và chu kỳ. Cường độ sinh trưởng thay đổi theo tuổi, tốc độ tăng khối lượng cũng vậy, các cơ quan bộ phận khác nhau trong cơ thể cũng sinh trưởng phát triển khác nhau. Ví dụ: Cơ thể lợn còn non tốc độ sinh trưởng của các cơ bắp phát triển mạnh hơn do đó cần tác động thức ăn sao cho lợn phát triển đạt khối lượng nhanh, tăng tỉ lệ nạc ở giai đoạn đầu. Dưới đây là một số đặc điểm của lợn con có liên quan đến sự sinh trưởng. * Đặc điểm của cơ quan tiêu hoá Lợn con sơ sinh sống nhờ sữa của lợn mẹ, chức năng cơ quan tiêu hoá chưa hoàn thiện nhưng phát triển rất nhanh về kích thước và dung tích. Dung tích dạ dày của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 60 ngày tuổi gấp 60 lần lúc sơ sinh (lúc sơ sinh dung tích dạ dày khoảng 0,03 lít). Dung tích ruột non lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 50 lần (lúc sơ sinh khoảng 0,11 lít). Và dung tích ruột già của lợn con cũng tăng lên so với lúc sơ sinh, 10 ngày tuổi tăng gấp 1,5 lần, và lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 50 lần (lúc sơ sinh khoảng 0,04 lít). Khả năng tiêu hoá thức ăn của lợn con rất kém, nguyên nhân là do một số men tiêu hoá thức ăn (men pepsin; men Amilaza và Mamltaza; men Tripsin; men Catepsin; men Lactaza; men Saccaraza) chưa có hoạt tính mạnh, nhất là giai đoạn 3 đến 4 tuần tuổi đầu. * Đặc điểm về cơ năng điều tiết nhiệt Cơ năng điều tiết nhiệt ở lợn con là chưa hoàn chỉnh, và thân nhiệt chưa được ổn định. Để có khả năng điều tiết nhiệt tốt cần có 3 yếu tố: Thần kinh, mỡ và nước. Với lợn con sự điều tiết thân nhiệt ít chịu ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh ban đầu. Và nhiệt độ trên các bộ phận cơ thể của lợn cũng khác nhau, phần bụng có nhiệt độ cao hơn so với phần thân, chân, và phần tai. Tóm lại, ở lợn con có khả năng điều tiết thân nhiệt còn kém, nhất là trong tuần đầu mới đẻ ra. Tuổi của lợn con càng ít thân nhiệt của lợn con hạ xuống càng nhiều khi nhiệt độ chuồng nuôi thấp. Sau 3 tuần tuổi thì cơ năng điều tiết thân nhiệt của lợn mới tương đối hoàn chỉnh, thân nhiệt của lợn con được hoàn chỉnh hơn (39-39,5oC). * Đặc điểm về khả năng miễn dịch ở lợn con Khả năng miễn dịch của lợn con ở 3 tuần tuổi đầu hoàn toàn phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thu được từ sữa lợn mẹ. Trong sữa của lợn mẹ có chứa hàm lượng -globulin cao. Thành phần sữa đầu biến đổi rất nhanh, protein 1819% giảm còn 7% trong vòng 24 giờ, tỷ lệ  - globulin trong sữa đầu cũng giảm từ 50% xuống còn 27%. Sự thành thục về khả năng miễn dịch của lợn con có được sau một tháng tuổi. Do đó, lợn con bú sữa đầu là rất quan trọng để tăng sức đề kháng cho lợn con. Nếu lợn con không được bú sữa đầu thì sau 24 - 25 ngày tuổi mới có khả năng tự tổng hợp được kháng thể, vì vậy những lợn con không được bú sữa đầu thì sức đề kháng kém, tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết cao. 2.2.2 Sự phát triển các hệ thống trong cơ thể Trong quá trình sinh trưởng phát triển của lợn các tổ chức khác nhau được ưu tiên tích luỹ khác nhau. Các hệ thống chức năng như hệ thần kinh, hệ tiêu hoá, tuyến nội tiết được ưu tiên phát triển trước hết. Sau đó là bộ xương, hệ thống cơ bắp và cuối cùng là mô mỡ. Mối quan hệ giữa tỉ lệ tốc độ sinh trưởng của các tổ chức nạc, mỡ, xương trong cơ thể lợn rất được quan tâm trong việc cung cấp thịt làm thực phẩm cho con người. Tỉ lệ nạc và mỡ thể hiện giá trị của thân thịt trong khi đó hàm lượng mỡ trong thịt là chỉ thị quan trọng đối với chất lượng sản phẩm, bởi ảnh hưởng của nó tới quá trình chế biến thịt cũng như việc bán sản phẩm thịt tươi, tất nhiên, nhu cầu của người tiêu dùng ở các nước khác nhau sẽ dẫn đến sự khác nhau về yêu cầu tỉ lệ mỡ: nạc trong thân thịt. Đây cũng là một trong những lý do đưa người chăn nuôi đi đến quyết định giết thịt lợn ở tuổi và khối lượng phù hợp với sở thích của người tiêu dùng. Cùng với sự phát triển của cơ thể thì các tổ chức nạc, mỡ, xương cũng phát triển nhưng tốc độ phát triển hoàn toàn khác nhau. Trong đó, cơ bắp thành phần quan trọng tạo nên sản phẩm thịt lợn. Số lượng và kích thước các sợi cơ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng của lợn thịt cũng như liên quan mật thiết tới đặc tính chất lượng thịt (Dwyer và cs). 2.3 Các chỉ tiêu sinh trưởng, năng suất Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng của lợn Theo Clutter Brascamp (1998), các chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng sinh trưởng của lợn thịt bao gồm: tăng trọng hằng ngày, lượng thức ăn ăn vào hằng ngày, tiêu tốn thức ăn, tuổi đạt khối lượng giết thịt. Tăng trọng hằng ngày: là khối lượng cơ thể tăng tính trung bình cho một ngày trong một giai đoạn nuôi nhất định, đây là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá khả năng sinh trưởng của vật nuôi. Tăng trọng hằng ngày cao thể hiện tốc độ sinh trưởng của con vật nhanh, và là chìa khóa thành công trong chăn nuôi lợn thịt. Tốc độ tăng trọng càng nhanh thì càng giảm thời gian sử dụng chuồng trại, lao động và các chi phí khác, như vậy, người chăn nuôi có thêm điều kiện để tăng đầu lợn hằng năm mà không cần đầu tư thêm phần vốn cố định trong kinh doanh. Hơn thế nữa, việc lợn tăng trọng nhanh cũng có nghĩa là tiết kiệm đáng kể lượng thức ăn ngày vì những con lợn tăng trọng nhanh sẽ có khả năng chuyển hóa thức ăn tốt (Schinckel và cs,1994; Seller, 1998). Lượng ăn vào hằng ngày là lượng thức ăn mà con vật ăn được tính trong một ngày, trong nghiên cứu, chỉ tiêu này phản ánh giai đoạn sinh trưởng, tình trạng sức khỏe và chất lượng thức ăn của lợn thịt. Trong giai đoạn nuôi thịt, lượng ăn vào hằng ngày tăng tuyến tính cùng với sự tăng lên về tuổi và khối lượng cơ (biểu đồ 2.1), tuy nhiên khả năng tiếp nhận thức ăn phụ thuộc vào cách cho ăn và chất lượng các loại thức ăn. Lợn được cho ăn tự do với chất lượng thức ăn tốt thì khả năng ăn vào của lợn sẽ đạt mức tối đa trong giới hạn sinh lý tiêu hóa của nó. Giữa lượng thức ăn ăn vào hằng ngày và tăng trọng có mối tương quan di truyền dương trung bình, r = 0,28 – 0,38 (Seller, 1998). Nguồn: DeLange, Donald và Petracek (1993). Biểu đồ 2.1: Lượng thức ăn hằng ngày của lợn thịt ở theo khối lượng cơ thể Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của con vật, dinh dưỡng trong thức ăn được cung cấp từ ngoài vào sẽ tham gia vào các quá trình chuyển hóa trong cơ thể, một phần được sử dụng để phục vụ cho các hoạt động sống cơ bản nhất như hô hấp, tuần hoàn... Phần còn lại được dùng để tích lũy ở các mô trong cơ thể mà chủ yếu là mô cơ và mô mỡ. Trong chăn nuôi, chúng ta lợi dụng được phần tích lũy làm thực phẩm cho con người. Do vậy, chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn được dùng để lượng hóa phần thức ăn mà con lợn dùng để tạo nên sản phẩm thịt. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất trong chăn nuôi lợn bởi vì thức ăn chiếm 60 – 70% tổng giá thành sản phẩm, do vậy tiêu tốn thức ăn càng cao sẽ dẫn đến chi phí cho chăn nuôi lợn cao, làm giảm hiệu quả kinh tế của chăn nuôi lợn. Lợn ở giai đoạn còn non có khả năng tiêu tốn thức ăn thấp hơn lợn trưởng thành do khi khối lượng cơ thể lớn yêu cầu nhu cầu duy trì cao, bên cạnh đó, sự phát triển mô mỡ ở giai đoạn cuối của quá trình sinh trưởng đòi hỏi tiêu tốn gấp ba lần năng lượng trong thức ăn so với sự phát triển của mô nạc (Whitemore, 2003). Cũng vì vậy mà lợn hướng mỡ tiêu tốn thức ăn cao hơn lợn hướng nạc. Trong điều kiện sức khỏe tốt, sinh lý bình thường, môi trường thuận lợi, tiêu tốn thức ăn có thể đạt tới mức thấp tối đa, nhưng nếu con vật bị bệnh, môi trường bất lợi thì tiêu tốn thức ăn sẽ cao do dinh dưỡng trong thức ăn phải chi trả cho các quá trình điều chỉnh sinh lý trong cơ thể. Giữa tăng trọng hằng ngày và tiêu tốn thức ăn có mối tương quan di truyền âm chặt chẽ, r = - 0,69 đến - 0,99 (Seller, 1998). 2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của lợn 2.4.1 Cơ sở di truyền học các tính trạng số lượng Các tính trạng thuộc về sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt đều là các tính trạng số lượng. Con người dựa trên những hiểu biết về sự di truyền của các tính trạng xem xét mà có thể tác động vào bản chất bên trong của mỗi tính trạng để đạt được mục đích mong muốn. *Mô hình cơ bản của các tính trạng số lượng Mô hình di truyền cơ bản của các tính trạng số lượng có thể được biểu diễn theo dạng phương trình sau đây: P=+G+E+GxE Trong đó: - P là giá trị kiểu hình (phenotype value), -  là giá trị trung bình của kiểu hình của quần thể, - E là giá trị ảnh hưởng của yếu tố ngoại cảnh, - G là giá trị kiểu gene, - G x E là tương tác giữa kiểu gene và ngoại cảnh. 2.4.2 Ảnh hưởng của yếu tố di truyền * Giống Trong chăn nuôi, giống là tiền đề quyết định đến sự thành công “Giống có giá trị kinh tế, giá trị gây giống tương đối ổn định có thể di truyền các đặc tính cho đời sau” (Trương Lăng). Các giống khác nhau thì có sức sản xuất khác nhau, có khả năng thích nghi với môi trường sống khác nhau. Trong cùng một giống (lợn) cùng một đàn cùng nuôi tại một thời điểm nhưng có những con mang kiểu gene tốt thì khả năng sinh trưởng vượt trội. Tóm lại: Giống là tiền đề, nếu không có giống tốt thì các yếu tố khác có tốt đến mấy người chăn nuôi cũng không thể đạt được năng suất chất lượng cao. - Ảnh hưởng của giống đến sức chống chịu bệnh. Ở nước ta, tăng trọng trung bình hằng ngày của lợn bản địa như Ỉ, Móng Cái khoảng 300 – 350 g/ ngày, trong khi con lai ngoại x nội có thể đạt 550 – 650 g/ ngày, lợn ngoại nuôi trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp có thể đạt 700 – 750 g/ ngày. Ngoài khả năng sinh trưởng kém, các giống lợn nội có khối lượng móc hàm, khối lượng thịt xẻ thấp, trong khi đó tỉ lệ mỡ trong thân thịt cao hơn so với các giống lai ngoại hay ngoại thuần (Nguyễn Quang Linh và cs, 2005). 2.4.3 Thức ăn và dinh dưỡng Dinh dưỡng là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố ngoại cảnh chi phối đến khả năng sinh trưởng của lợn. Lợn cũng như những loài gia súc khác phải cho ăn thi mới phát triển được. Cho nên lượng thức ăn cho ăn cũng như thành phần dinh dưỡng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trọng của lợn (Lê Đức Ngoan, 2002). *Năng lượng Năng lượng thức ăn trước tiên cần để đáp ứng nhu cầu duy trì cho cơ thể, nhờ đó ngăn ngừa quá trình phân hủy các mô làm giảm khối lượng gia súc. Khi năng lượng trong khẩu phần cao hơn năng lượng duy trì, thì năng lượng còn lại sẽ được sử dụng tạo thành sản phẩm. Nhu cầu năng lượng được tính như sau: E = Edt + Ett Trong đó: E là nhu cầu năng lượng. Edt là nhu cầu cho năng lượng duy trì. Ett là nhu cầu cho tăng trọng. Ett = Etích lủy nạc + Etích lủy mỡ Etích lủy nạc = 15MJDE/ kg nạc Etích lủy mỡ = 50MJDE/ kg mỡ. Mật độ năng lượng trong khẩu phần nó ảnh hưởng đến khả năng ăn vào. Trong từng giai đoạn phát triển thì lợn có nhu cầu khác nhau. Giai đoạn đầu (20 – 60kg): Trong giai đoạn do có sự ưu tiên tích lũy nạc nên nhu cầu năng lượng chỉ cần cho năng lượng sống khác của cơ thể. Tuy nhiên, tiềm năng sinh trưởng của heo trong giai đoạn này rất cao nên chúng ta dùng khẩu phần có mật độ năng lượng cao và cân đối protein sẽ làm cho heo tăng trọng nhanh. Bảng 2.1: Ảnh hưởng của mức năng lượng ăn vào đến khả năng tăng trọng của lợn Chỉ Tiêu Mức năng lượng ăn vào (MJDE/ ngày) ăn vào tự do 16,00 18,30 20,10 24,00 29,30 Tăng trọng (g/ ngày) 388 426 564 903 909 Tiêu tốn thức ăn (kg/TĂ/kg TT) 2,81 2,63 2,4 2,3 3,34 Lượng ăn vào (kg VCK/ ngày) 1,1 1,12 1,4 1,6 2,13 Tích lũy protein (g/ ngày) 70 81 90 109 138 Tích lũy mỡ (g/ ngày) 57 107 126 157 205 (Nguồn: Lê Đức Ngoan, Nguyễn Thị Hoa Lý, Dư Thanh Hằng (2005), giáo trình thức ăn gia súc. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 2005). Giai đoạn sau (60-100 kg): Trong giai đoạn này lợn bắt đầu quá trình tích lũy mỡ, do vậy nếu tiếp tục cho lợn ăn tự do với mật độ năng lượng trong khẩu phần cao sẽ dẫn đến tình trạng tích lũy nhiều mỡ, giảm phẩm chất thịt tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng trọng cao. Do đó sẽ giảm hiệu quả kinh tế chăn nuôi. Như vậy khi tăng mức năng lượng ăn vào thì làm lợn tăng nhanh, giảm lượng thức ăn tiêu tốn trên 1 kg tăng trọng. Chính vì thế, trong từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của lợn cần khẩu phần có mức năng lượng phù hợp giúp tối ưu hóa năng suất và phẩm chất thịt trong chăn nuôi lợn. Bảng 2.2: Ảnh hưởng của mức năng lượng ăn vào đến khả năng tăng trọng của lợn Chỉ Tiêu Mức năng lượng ăn vào (MJDE/ ngày) ăn vào tự do 23,5 27,5 33,00 37,5 41,5 Tăng trọng (g/ ngày) 418 576 793 842 884 Tiêu tốn thức ăn (kg/TĂ/kg TT) 3,90 3,40 2,10 3,10 3,50 Tích lũy protein (g/ ngày) 69,4 48,0 129,5 130,0 132,0 (Nguồn: Lê Đức Ngoan, Nguyễn Thị Hoa Lý, Dư Thanh Hằng (2005), giáo trình thức ăn gia súc. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 2005). *Protein và Acid amin (a.a): Protein được cơ thể ăn vào nhằm đáp ứng nhu cầu duy trì và sản xuất. Nhu cầu protein duy trì tăng lên theo trọng lượng cơ thể. Khi gia súc còn non thì nhu cầu protein của nó cao hơn so với lúc trưởng thành, do trong giai đoạn này hệ cơ quan phát triển mạnh. Sự thiếu hay thừa protein trong khẩu phần đều ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng thịt. Do đó, khi thiết lập khẩu phần ăn cho lợn thì phải cung cấp đầy đủ nhu cầu protein và cân đối các thành phần acid amin phù hợp cho từng giai đoạn sinh trưởng. Trong các chất dinh dưỡng cần thiết cho gia súc, protein có vai trò rất quan trọng, protein là cơ sở của sự sống và thành phần cấu tạo của tế bào, cơ quan, là chất xúc tác sinh học, các enzyme tham gia việc điều khiển các phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể. Ngoài ra protein còn tham gia vào hệ thống bảo vệ cơ thể (kháng thể) và vận tải dể vận chuyển các chất dinh dưỡng từ máu lên các mô, cơ quan trong cơ thể. Giá trị sinh học của protein phụ thuộc hàm lượng các acid amin không thay thế của protein đó, thức ăn giàu acid amin nâng cao tỷ lệ tiêu hóa, giảm các phản ứng strees. Việc cung cấp đầy đủ các acid amin không thay thế cho lợn rất có ý nghĩa như histidinin, tryptophan có lợi cho sức khỏe. Protein đóng vai trò quyết định cho sự sinh trưởng và phát triển của lợn. Tuy nhiên, người chăn nuôi cần thiết phải biết tính toán nhu cầu protein của lợn thịt trong từng giai đoạn nuôi khác nhau, để cung cấp protein khẩu phần thích hợp. *Acid amin (a.a) Nhu cầu protein của động vật chính là nhu cầu acid amin. Sự tổng hợp protein đòi hỏi có mặt của 20 acid amin khác nhau. Trong thành phàn protein thịt nạc của lợn có khoảng 30acid amin, trong đó có 10 acid amin thiết yếu mà lợn không tự tổng hợp ở mức thấp so với nhu cầu, đòi hỏi phải qua cung cấp thức ăn. Agrinine, Threonine, Valine, Leonine, Isoleucine, Methionine, Lysine, Phenylaine, Histidne và Trytopine. Nếu thiếu một trong mười acid amin đó thì gia súc kém ăn chậm lớn, tỷ lệ sử dụng thức ăn thấp (Trương Lăng). Hiện nay, người ta sử dụng rộng rải acid amin tổng hợp hóa học như: D,L Methionine trong chăn nuôi. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được vai trò của acid amin trong tổng hợp D,L Methionie trong việc cân bằng acid amin cho một khẩu phần. Ở lợn ăn khẩu phần ngô, bột sắn, đậu tương thì Methionine có vai trò quan trọng là nguồn cung cấp lưu huỳnh trong việc khử độc HCN ở gia súc (Heu và cs 1972). Mặt khác, Methyonie có tác động lên hoạt động của hệ thần kinh cũng như quá trình chuyển hóa amin hóa và oxy hoá khử và các mô cơ thể. Khi thiếu Methyonie trong khẩu phần , cơ thể bị tích lũy mở ở gan, làm giảm hoạt động của tuyến tụy trong động vật. Methyonie còn liên quan chặt chẽ tới sự tạo thành và trao đổi colin , vitamin B12 và acid folic. Cùng với những chất này Methyonie làm tăng khả năng sử dụng chất béo trong khẩu phần sử dụng thức ăn động vật . Tóm lại, trong nuôi dưỡng để đạt tốc độ nuôi dưỡng để đạt tốc độ sinh trưởng cao cùng với cải tiến chất lượng con giống, người chăn nuôi lợn cần cung cấp khẩu phần cân đối về nhu cầu các chất dinh dưỡng đặc biết chú ý đến cân bằng acid amin. * Phương thức cho ăn Căn cứ vào các đặc điểm của lợn và điều kiện chăn nuôi mà có hai phương thức cho ăn: - Phương thức cho ăn tự do: Cho lợn ăn tự do theo nhu cầu từ cai sữa đến xuất chuồng. Phương thức này có ưu và khuyết điểm như sau: Ưu điểm: Heo mau lớn nên thời gian nuôi ngắn, quay vòng vốn nhanh Khuyết điểm: Không tiết kiệm được thức ăn, có tỷ lệ mỡ cao - Phương thức cho ăn định lượng: Heo dưới 60 kg: ở giai đoạn này cho ăn tự do theo nhu cầu của heo ( ở giai đoạn dưới 30 kg nên cho heo ăn nhiều bữa trong ngày). Từ 61kg đến lúc xuất chuồng: Ở giai đoạn này nếu cho ăn nhiều sẽ mập do tích lũy mỡ, nên cho ăn hạn chế khoảng 2,3 – 2,7 kg/ con/ ngày và sử dụng đúng loại thức ăn. Phương thức này có ưu và khuyết điểm như sau: Ưu điểm: Tiết kiệm được thức ăn, heo có tỷ lệ nạc cao hơn so với phương thức cho ăn tự do. Khuyết điểm: Thời gian nuôi kéo dài Ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của lợn đã nêu trên còn có các yếu tố khác như: Phương thức nuôi dưỡng, chuồng trại, tiểu khí hậu chuồng nuôi…Nếu chúng ta cung cấp đủ theo yêu cầu của từng loại lợn sẽ giúp cho lợn sinh trưởng một cách tối đa. * Dinh dưỡng nước Nước thực hiện một số chức năng sinh lý cần thiết cho sự sống như tạo hình trong cơ thể, điều hòa nhiệt độ cơ thể. Nước cần cho quá trình vận chuyển các chất dinh dưỡng tới tế bào cơ thể và làm sạch các chất cặn bã, thải ra từ các tế bào này. Nước có khả năng hòa tan rất nhiều chất dinh dưỡng và vận chuyển chúng đến khắp cơ thể thông qua hệ thống tuần hoàn. Để đảm bảo tốt nhu cầu về nước cho lợn nên có các hệ thống cung cấp nước tại chuồng nuôi để lợn có thể tự uống. * Dinh dưỡng khoáng Dựa vào hàm lượng các nguyên tố khoáng trong cơ thể vật nuôi, hoặc dựa vào từng loại chất khoáng mà vật nuôi đòi hỏi cần được cung cấp trong thức ăn hằng ngày, người ta chia chất khoáng thành hai nhóm chính: Khoáng đa lượng: Ca, P, K, Na, S, Mg… Khoáng vi lượng: Fe, Zn, Cu, Mo, Se, I, Mn… Trong cơ thể gia súc chất khoáng chiếm một tỷ lệ rất thấp so với các chất hữu cơ nhưng đóng một vai trò quan trọng đối với vật nuôi. Chất khoáng chiếm khoảng 3% trong cơ thể lợn, Tập trung chủ yếu ở xương. Trong xương có khoảng 75% là Ca và P. Theo Hoàng Văn Tín (1987): Sự thiếu Ca và P trong thời kỳ tăng trưởng có thể làm xương bị biến dạng. Đối với gia súc non, sự hấp thu và sử dụng chất khoáng Ca và P tốt hơn gia súc trưởng thành và già. Vì vậy, khi cân đối khẩu phần ăn cần phải chú ý đến hai nguyên tố này. Tỷ lệ cân đối giữa Ca/P đối với gia súc nhỏ là 1,5 – 1,2/1; Ở gia súc lớn là 1,2/1 (Lê Đức Ngoan, 2002). Ngoài ra các yếu tố K, Na, Cl, Fe, Mn, Cu, Zn và Vitamin cần được chú ý trong khẩu phần. Đặc biệt, khi bổ sung nguyên tố vi lượng Zn vào khẩu phần ăn của lợn, nâng cao sức khỏe cho lợn. Kẽm là thành phần cần thiết của hơn 200 enzyme trong các phản ứng sinh hóa của lợn. Ngoài ra Zn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch, với lượng 3000 ppm bổ sung vào khẩu phần ăn của lợn con mới cai sữa đã cải thiện tốt cho sinh trưởng và sức đề kháng tiêu chảy của lợn. Bên cạnh đó, thiếu Zn có thể gây ra bệnh rụng lông, tổn thương da và kế phát các bệnh nhiễm trùng. Hiện nay, trong chăn nuôi lợn người chăn nuôi đã bổ sung Zn vào khẩu phần từ 3000 – 4000 ppm để cải thiện sức khỏe cho lợn, nhất là lợn con sau cai sữa (Hahn và cs, 1993). Mặt khác, muối ăn NaCl là nguồn khoáng cần thiết cho lợn, hàm lượng muối trong khẩu phần cho lợn là 0,2 – 0,5% Vì vậy, sự đầy đủ và cân đối các chất khoáng trong khẩu phần của gia súc, gia cầm là rất cần thiết và sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. Bảng2. 3: Hàm lượng một số nguyên tố khoáng trong cơ thể vật nuôi Đa lượng g/ kgTT Vi khoáng g/ kgTT Ca 15 Fe 20 P 10 Zn 10 K 2 Cu 1 Na 1,6 Mo 1 Cl 1,1 Se 1 S 1,5 I 0,3 Mg 0,4 Mo 0,2 Co 0,02 (Nguồn: Lê Đức Ngoan, 2002). *Dinh dưỡng Vitamin Vitamin là nhóm chất dinh dưỡng thiết yếu trong thức ăn được phát hiện trong những năm đầu của thế kỷ XX. Hằng ngày, vật nuôi đòi hỏi một lượng Vitamin rất nhỏ so với các chất dinh dưỡng khác, vitamin rất dể bị phân hủy do quá trình oxy hóa hoặc do nhiệt độ cao, ánh sáng…Do đó, thức ăn của gia súc cần được bảo quản trong nhiệt độ thích hợp để hạn chế sự phân hủy vitamin. Nếu thiếu vitamin trong khẩu phần sẽ làm giảm tính ngon miệng, giảm khả năng ăn vào, gia súc bị còi cọc, chậm lớn và có thể dẫn đến tình trạng bệnh tật…Ngược lại, nếu thừa vitamin trong khẩu phần sẽ gây lãng phí và dẫn đến ngộ độc cho gia súc gia cầm. Do vậy, trong chăn nuôi cần phải quan tâm đến vấn đề cung cấp vitamin đầy đủ trong khẩu phần cho từng đối tượng nuôi. Bảng 2.4: Nhu cầu của một số Vitamin trong cơ thể Chỉ tiêu Đơn vị Trọng lượng sống của lơn (kg) 5 - 10 10 - 20 20 - 35 35 – 60 60 100 Tăng trọng Kg/ ngày 0,3 0,5 0,6 0,75 0,9 B Caroten mg 4,4 3,5 2,6 2,6 2,6 Vitamin A UI 2200 1750 1300 1300 1300 Vitamin D UI 220 200 200 125 125 Thiamin mg 1,3 1,1 1,1 1,1 1,1 Riboflavin mg 3 3 2,6 2,2 2,2 Acid Pantomic mg 13 11 11 11 11 Vitamin B6 mg 1,5 1,5 1,5 1,1 1,1 Nguồn: Hoàng Nghĩa Duyệt và cộng sự (2002) 2.4.4 Giới tính Giới tính có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các chỉ tiêu sinh trưởng. Do sự khác nhau về loại hocmon sinh dục trong mỗi giới tính dẫn đến sự khác nhau về khả năng chuyển hóa dinh dưỡng trong cơ thể. Mặc dầu trong quá trình sinh trưởng và phát triển, con đực có khả năng ăn vào lớn hơn, tăng trọng cao hơn nhưng tiêu tốn thức ăn cao hơn so với con cái (Latorre, 2004). 2.4.5 Nhiệt độ và độ ẩm môi trường Nhiệt độ và ẩm độ môi trường là hai yếu tố chính thường xuyên tác động tới vật nuôi. Lợn chỉ có thể sống và phát triển trong ngưỡng nhiệt độ cho phép, lợn thịt sinh trưởng tốt nhất ở nhiệt độ 18 – 200C (NRC, 1987). Nhiệt độ chuồng nuôi cao hơn hay thấp hơn nhiệt độ tới hạn đều là yếu tố bất lợi đối với sinh trưởng của lợn thịt. Ở nhiệt độ cao, lợn phải tăng cường quá trình thải nhiệt thông qua tăng cường hô hấp để cân bằng thân nhiệt. Lê Văn Phước và cs (2008) cho biết, tần số hô hấp và nhịp tim của lợn có tương quan chặt chẽ với nhiệt độ không khí với hệ số tương quan tương ứng là r 2 > 0,8 và r2 = 0,61 – 0,78. Đặc biệt, các giống lợn nhập nội cao sản dễ mẫn cảm với nhiệt độ môi trường cao hơn so với các giống nội. Ngoài ra khi nhiệt độ cao sẽ làm cho khả năng thu nhận thức ăn hằng ngày của lợn giảm, do đó tăng trọng bị ảnh hưởng cũng như khả năng chuyển hóa thức ăn kém ( Lopez và cs, 1991). Nhiệt độ và ẩm độ ở nước ta chính là rào cản lớn nhất để nuôi các giống lợn ngoại có năng suất cao khi hệ thống chuồng trại còn khá thô sơ. Ngược lại, khi nuôi lợn ở nhiệt độ thấp dưới nhiệt độ tới hạn thì phải cung cấp thêm cho lợn năng lượng chống rét từ thức ăn. Cứ 1oC dưới giới hạn thấp thì bổ sung thêm một lượng nhiệt năng là 0,017 MJ DE/1kg trọng lượng trao đổi, do vậy, tiêu tốn thức ăn sẽ cao hơn so với nhiệt độ trung hòa (Richard Cofey, 1995). Nguồn: Richard Coffey và cs (1995). Biều đồ2.2: Ảnh hưởng nhiệt độ tới khả năng ăn vào, tăng trọng và hiệu quả chuyển hóa thức ăn ở lợn thịt (0F) 2.5 Công tác giống trong việc nâng cao khả năng sản xuất của lợn thịt 2.5.1 Chọn lọc Chọn lọc là quá trình mà qua đó một số cá thể được giữ lại và cho phép sinh sản. Chọn lọc là biện pháp đầu tiên để cải tiến di truyền giống vật nuôi. Chọn lọc không tạo ra các kiểu gene nhưng nó cho phép kiểu gene nào được tồn tại nhiều ở con cái, điều đó cũng có nghĩa thay đổi tần số các gen hay kiểu gen của quần thể theo hướng có lợi cho con người. Đối với lợn thịt, chúng được chọn lọc theo hướng tăng trọng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, tỉ lệ nạc cao, chất lượng thịt tốt (mỡ dắt, độ mềm, độ mọng, hương vị) và kháng bệnh nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho người chăn nuôi. Công tác giống trên thế giới đã gặt hái rất nhiều thành công, quá trình chọn lọc khắt khe và lâu dài ở các hệ thống giống đã tạo ra nhiều giống lợn có năng suất sinh trưởng và khả năng sản xuất thịt ưu việt và được sử dụng rộng rãi trong hệ thống nhân giống của thế giới, điển hình là các giống lợn Yorkshire, Landrace, Duroc, Pietrain. * Giống Lợn Rừng Xuất xứ: Lợn rừng có tên khoa học là Sus Scrofa, còn có tên khác là lợn lòi, kun bíu. Lợn rừng có mặt khắp mọi nơi trên thế giới. Nó chính là tổ tiên của các giống lợn nhà, có 21 loại phụ sống trên phạm vi rất rộng bao gồm nhiều khu vực ở châu Âu và bắc châu Á, cũng như miền Nam và miền Bắc châu Phi. Phân bố: Ngày nay lợn rừng đã được nuôi phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như Pháp (hiện có 800 trang trại chuyên môn lợn rừng), Ba Lan, Thái Lan, Canada, Anh, Trung Quốc, Đức, Ấn Độ, Braxin, Mexico, Tây Ban Nha, Italia, Đan Mạch, Nhật Bản, Nga, Nepan, Angeri, Indonesia,... và Việt Nam. Đặc điểm ngoại hình: Lợn rừng có dáng thon, cao khoảng 65 - 70 cm, một số giống lợn rừng châu Âu có thể cao tới eo người (90 - 120 cm). Thân hình chắc khỏe, mình mỏng. Phần vai trước thường cao hơn chân sau làm cho hình dạng của lợn rừng vai cao mông thấp. Mông, bụng gọn, đuôi dài không bao giờ cong uốn lại như lợn nhà và luôn ve vẩy. Hai vai và bên trên của 2 chân phía trước đều có u hoặc tấm mỡ sụn lồi ra thành chai cứng. Độ lớn và dày của u chai cứng hoặc tấm mỡ sụn này tăng theo tuổi (3 - 5 cm). Mặt lợn rừng dài, mõm nhọn, tai nhỏ dựng đứng ép sát đầu. Mắt to, lồi, màu đen, híp phần cuối đuôi mắt, tia nhìn dữ tợn. Mũi lợn rừng mềm nhưng mạnh khỏe phù hợp với phương thức kiếm ăn trong cuộc sống hoang dã của chúng là đào bới đất, dũi mô đất mới để đào củ, gốc cây, các côn trùng...Lợn rừng là động vật ăn tạp nên ngoài đặc điểm răng nanh phát triển đặc biệt thì lợn rừng cũng giống như các động vật nuôi con bằng sữa khác về sự không phát triển lắm của hệ thống răng, lợn rừng có 44 răng. Răng cửa phía hàm dưới dài, hẹp và chìa thẳng ra phía trước để làm nhiệm vụ như cái xẻng. Răng hàm trong, răng cấm mọc trong cùng có cỡ rất lớn bằng với răng hàm cái thứ nhất và thứ 2 cộng lại. Cấu tạo của xương mặt và xương hộp sọ làm lợn rừng có hàm mõm dài, phần này thường chiếm 75% đầu lâu sọ. Lông của lợn rừng là kiểu lông nhám, cứng. Lỗ chân lông ở trên lớp da tạo thành búi, mỗi búi có 3 lỗ, mỗi lỗ có 1 sợi lông dài. Riêng lợn rừng con trong 4 tháng đầu tiên có bộ lông sọc dưa rất đẹp được tạo bởi những đường vằn màu nâu vàng lẫn trắng chạy dài theo thân mình hoặc màu nâu nhạt hoặc đỏ nhạt chạy trên nền lông đen tùy giống. Bộ lông này giúp lợn con ngụy trang để giấu mình và đánh lạc hướng kẻ thù trong môi trường tranh tối tranh sáng trong rừng.Trong khoảng 2 - 6 tháng, các sọc dưa nhạt màu dần và ở 1 năm tuổi, chúng có bộ lông chính thức mang màu đặc trưng của giống ổn định cho đến khi chết. Khả năng sản xuất: Lợn rừng sinh trưởng chậm và đạt kích thước tối đa tùy theo từng giống, môi trường và tuổi. Lợn rừng châu Âu thường có tầm vóc to lớn hơn nhiều so với lợn rừng châu Á. Trong khi lợn rừng châu Á chỉ có thể cao 65 - 70 cm, dài 120 - 140 cm, nặng 70 - 150 kg thì lợn rừng châu Âu có thể cao tới 90 - 100 cm, dài 150 - 160 cm, nặng tới 200 -350 kg. Con đực thường to lớn hơn con cái khoảng từ 20 - 30 kg. Lợn sơ sinh rất bé nhỏ, nặng 0,2 - 0,5 kg, dài 15 - 21 cm. Tuổi cai sữa: 55 - 60 ngày; Trọng lượng lợn con khi cai sữa là 4 - 5 kg/ con: Tuổi giết thịt có thể tính từ 6 tháng tuổi. Trọng lượng xuất chuồng thường dao động từ 25 - 50 kg tùy theo nhu cầu của thị trường. Tốc độ sinh trưởng (đối với lợn rừng đã và đang nuôi tại Thái Lan và Việt Nam) chậm ( trung bình chỉ khoảng 0,13 - 0,2 kg/ ngày). Tuổi thọ sinh lý của lợn rừng kéo dài từ 15 - 25 năm. Bảng 2.5: Các đặc điểm về khả năng sinh sản STT Chỉ tiêu Mức thể hiện 1 Tuổi động dục lần đầu 6-7 tháng tuổi 2 Trọng lượng động dục lần đầu 18-20kg 3 Tuổi phối giống 7-8 tháng tuổi 4 Trọng lượng lúc phối 30-35 kg 5 Thời gian mang thai 110-130 ngày 2-3 ngày (đối với nái tơ) 6 Thời gian động dục 7 Chu kỳ động dục 20-22 ngày 8 Hệ số đẻ 1,2-1,3 lứa/năm 9 Số con mỗi lứa 5-8 con 3-4 ngày (đối với nại rạ) ( Nguyễn Quang Linh, Hoàng Nghĩa Duyệt, Phùng Thăng Long,2005). * Giống lợn Móng Cái
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng