Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá hiện trạng nuôi trồng thủy sản tại thành phố hội an tỉnh quảng nam...

Tài liệu đánh giá hiện trạng nuôi trồng thủy sản tại thành phố hội an tỉnh quảng nam

.PDF
48
769
59

Mô tả:

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1.Tính cấp thiết của đề tài Nuôi trồng thuỷ sản là một ngành sản xuất động thực vật thuỷ sinh trong điều kiện kiểm soát hoặc bán kiểm soát, hoặc như người ta vẫn thường nói, nuôi trồng thuỷ sản là sản xuất nông nghiệp trong môi trường nước. Vì vậy, nuôi trồng thuỷ sản đề cập đến cả các hoạt động trong môi trường nước mặn, nước ngọt và nước lợ. Với cánh cửa của WTO ngày càng mở rộng khi Việt Nam đã trở thành thành viên chình thức của tổ chức này, thì đây là một điều kiện hết sức thuận lợi để Việt Nam phát triển nền kinh tế một cách toàn diện trong giai đoạn hội nhập. Gia nhập vào WTO chúng ta có rất nhiều cơ hội để phát triển kinh tế từ kinh tế nông nghiệp đến kinh tế ngoại thương. Trong điều kiện đó thì xuất khẩu sản phẩm thủy sản cũng dễ dàng hơn vào thị trường các nước trên thế giới. Trên thực tế thì hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với 75% dân cư sinh sống ở nông thôn và trên 75% lực lượng lao động xã hội làm việc trong khu vực này. Sự phát triển của nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế và ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Do vậy, khi gia nhập WTO nông nghiệp của Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển hơn. Thủy sản cũng là một bộ phận của ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm nông – lâm – ngư nghiệp. Và có thể nói ngành thủy sản đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nước ta. Có một đặc điểm là nguồn lợi thủy sản mang tính tái tạo, tái sinh. Nhưng khi con người khai khác quá khả năng tái sinh thì nguồn lợi sẽ bị cạn kiệt. Trên thực tế hiện nay sản lượng thủy sản mà con người khai thác ngày càng bị suy giảm và cạn kiệt. Nếu như con người không tiến hành giải pháp khác thì nguy cơ cạn kiệt nguồn lợi là điều dể nhận thấy. Vì vậy, nuôi trồng thủy sản vừa nhằm mục đích phục vụ nhu cầu trong nước đồng thời xuất khẩu có thể nói là một giải pháp hữu hiệu trong giai đoạn phát triển hội nhập như hiện nay. Để đáp ứng được nhu cầu thị trường trong và ngoài nước thì chúng ta cần nắm rõ thực trạng khai thác và nuôi trồng thủy sản để có điều chỉnh cho kịp thời. Hội An là một thành phố nằm ven biển, thuộc vùng hạ du của sông Thu Bồn là một trong các địa phương thuộc tỉnh Quảng Nam được thiên nhiên ưu đãi về tiềm năng phát triển kinh tế thủy sản. Cùng với ngành nông nghiệp trồng lúa nước truyền thống, ngành thủy sản đã và đang phát triển không ngừng. 1 Khởi điểm vào thập niên 80, nghề nuôi trồng thủy sản ở Hội An cũng đã có những biến động lớn. Từ hình thức quảng canh, nghề nuôi trồng thủy sản ở Hội An đã chuyển sang hình thức bán thâm canh với đối tượng tôm sú. Năm 2006, đối tượng tôm thẻ chân trắng đã được đưa vào nuôi trên diện tích 0.4 ha và đã tăng trong những năm gần đây. Bên cạnh đối tượng là con tôm thẻ thì một số đối tượng khác cũng được người dân mạnh dạng đầu tư như cua xanh, cá rô phi đơn tính, cá chẽm, ... Xuất phát từ hiện trạng NTTS ở Hội An, được sự đồng ý của Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Khoa Thủy Sản và thầy giáo hướng dẫn tôi xin chọn đề tài: “ Đánh giá hiện trạng nuôi trồng thủy sản tại thành phố Hội An- tỉnh Quảng Nam” 1.2.Mục tiêu của đề tài. Điều tra, đánh giá hiện trạng NTTS tại thành phố Hội An. Trên cở sở đó định hướng phát triển NTTS bền vững trong thời gian tới. 2 PHẦN 2: TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU 2.1.Tình hình nuôi trồng thủy sản trên thế giới Trên thế giới, Châu Á là nơi cho sản lượng thủy sản nuôi trồng lớn nhất, chiếm 89% tổng sản lượng và 77% tổng giá trị sản phẩm thủy sản nuôi trồng thế giới năm 2006. Năm 2006, tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản thế giới là 51 triệu tấn và sản lượng khai thác là 92 triệu tấn. Trong số này, Trung Quốc chiếm 66.7% tổng sản lượng nuôi, các nước Châu Á khác chiếm 22.8%, và các nước khác còn lại ở Châu Âu, Châu Mỹ, Úc,… chiếm 10,5%. Sự phát triển nhanh chóng của nghề nuôi thủy sản được bắt đầu từ những năm 1970 của thế kỷ XX. Đến nay, nghề nuôi thủy sản vẫn liên tục phát triển đa dạng lẫn thâm canh hóa. Nếu như năm 1970, tốc độ tăng trưởng hằng năm về sản lượng là 3.9%, thì năm 2006, tốc độ tăng trưởng là 36%. Sự phát triển nhanh chóng của nghề nuôi đã góp phần tăng tỷ lệ tiêu dùng sản phẩm thủy sản nuôi trồng từ 0.7 kg/người/năm vào năm 1970 lên 7.8 kg/người/năm vào năm 2006. Sản phẩm từ nuôi trồng thủy sản chiếm 46% tổng sản phẩm thủy sản tiêu dùng hàng năm. Ở Trung Quốc, tỷ lệ này là 90%. Mười nước đứng đầu thế giới năm 2006 về sản lượng nuôi trồng thủy sản gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh, Chile, Nhật Bản, Na Uy và Philippines. Năm 2006, sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam là 1,7 triệu tấn, đứng thứ 5 thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Idonesia, Philippines. Nghề nuôi trồng thủy sản nội địa tiếp tục đóng góp chính cho nghề nuôi thủy sản nói chung, với hơn 61% sản lượng và 53% tổng giá trị sản phẩm nuôi trồng. Nuôi thủy sản nước ngọt chiếm 58% sản lượng và 48% giá trị, nuôi biển chiếm 34% sản lượng và 36% giá trị. Trong khi đó, nuôi nước lợ với tỷ lệ sản lượng thấp 8% nhưng cho tỷ lệ giá trị đến 16% do nuôi chủ yếu các loài tôm có giá trị cao. Cơ cấu nhóm loài nuôi cho thấy, năm 2006, cá nước ngọt cho sản lượng cao nhất là 27.8 triệu tấn, đạt giá trị 29.5 triệu USD; động vật thân mềm và rong biển cho sản lượng và giá trị tương đương nhau. Trong khi đó, giáp xác có sản lượng chỉ 4.5 triệu tấn nhưng đạt giá trị đến 17.95 triệu USD. 3 Theo một báo cáo đánh giá xuất bản tháng 1/2009 của tạp chí BioScience, ngành sản xuất thủy hải sản dường như sẽ tiếp tục phát triển mạnh trên toàn thế giới đến năm 2025. Bản đánh giá do James S. Diana thuộc trường đại học Michigan thực hiện, nhận định cho dù có những mối lo ngại về tác động xấu của sản xuất thủy hải sản tới môi trường nhưng những công nghệ sản xuất đó, khi mà được áp dụng đúng cách, sẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến đa dạng sinh học hơn ngành sản xuất thực phẩm. Báo cáo cho biết tổng sản lượng đánh bắt thủy hải sản trong vòng 20 năm qua dường như không hề thay đổi và có thể suy giảm một chút. Tuy nhiên sản xuất nuôi trồng thủy sản tăng 8.8% mỗi năm từ 1985, chiếm 1/3 tổng sản lượng ngành thủy sản tính theo khối lượng. Những loài cá biển (finfish), động vật thân mềm và loài giáp xác là những loài chiếm đa số trong nuôi trồng và xuất khẩu thủy hải sản mang lại nhiều thu nhập cho các quốc gia đang phát triển nhiều hơn các sản phẩm thịt, cà phê, chè, chuối và gạo cộng lại. Kim ngạch xuất khẩu toàn cầu tăng 9.5% vào năm 2006, 7% năm 2007, lên đến con số kỉ lục 92 tỉ USD. Các nước đang phát triển tiếp tục khẳng định vị trí của mình trong ngành thuỷ sản, chiếm 50% sản lượng thương mại thuỷ sản toàn cầu, chiếm 27% giá trị, tương đương 25 tỉ USD. Các nước phát triển chiếm 80% tổng nhập khẩu thuỷ sản toàn cầu. Hình 1: Sản lượng và giá trị sản phẩm nuôi trồng thủy sản thế giới qua các năm (FAO 2009). 2.2.Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có nhiều thuận lợi cho việc phát triển ngành nuôi trồng thủy sản – có bờ biển dài 3260 km kéo dài từ bắc đến nam, hệ thống sông 4 ngoài phân bố dày, nhiều eo vịnh và đầm phá, chính vì vậy mà ngành nuôi trồng thủy sản của Việt Nam phát triển từ rất lâu và là một ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Ngành nuôi trồng thủy sản đem lại nhiều lợi nhuận, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Ngành nuôi trồng thủy sản nước ta phát triển rất năng động. Nghề nuôi thủy sản truyền thống bắt đầu từ thập niên 1960, tuy nhiên trong vòng 10 năm nay, nghề nuôi thủy sản có tốc độ phát triển rất nhanh chóng. Theo thống kê ở các tỉnh/thành phố năm 2010 cả nước có trên 1 triệu ha mặt nước NTTS, tăng 45% so với năm 2001, bình quân giai đoạn từ năm 2001-2010 tăng 4,2%/năm. Về sản lượng, năm 2010 đạt khoảng 2,47 triệu tấn thủy sản các loại, tăng 286,3% so với năm 2001. Trong đó, sản lượng nuôi thủy sản nước lợ - mặn là 691,5 nghìn tấn, sản lượng nuôi nước ngọt đạt 2 triệu tấn. Hiện nay, đối tượng nuôi và mô hình nuôi thủy sản ở Việt Nam khá phong phú, tuy nhiên, chủ lực nhất vẫn là nuôi cá tra thâm canh ở vùng nước ngọt và nuôi tôm ở vùng nước lợ ven biển. Đặc biệt, năm 2010, sản lượng nuôi cá tra và basa đạt 1.038.256 tấn và sản lượng tôm nuôi đạt 470.314 tấn. Trong báo cáo vừa công bố của Tổng Cục Thống Kê cho biết, sản lượng thủy sản tháng 1/2013 ước tính đạt 376.100 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 281.700 tấn, tăng 2,1%; tôm đạt 33.200 tấn, tăng 2,5%. Tại cuộc hội thảo quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 do Bộ NN&PTNT tổ chức ngày 22-6-2012, TS Nguyễn Thanh Tùng, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản cho biết, ngành thủy sản Việt Nam đối mặt với rất nhiều khó khăn như công tác tổ chức sản xuất trên biển còn quá nhiều bất cập, đầu vào và đầu ra sản phẩm của ngư dân đều do tư thương quản lý, kể cả nguồn vốn nên tình trạng ép giá thường xuyên xảy ra. Sản lượng khai thác thủy sản (KTTS) giá thấp vẫn chiếm tỷ trọng cao, trên 70% là cá tạp các loại dùng trong chế biến thức ăn và tiêu dùng nội địa. Việc sử dụng các loại hóa chất bị cấm trong NTTS vẫn xảy ra, dẫn tới nhiều lô hàng xuất khẩu của Việt Nam bị trả lại; dịch bệnh liên tiếp xảy ra gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Trong cuộc hội thảo nhiều đại biểu tham dự đã cho rằng để quy hoạch tổng thể ngành thủy sản cho những năm tiếp theo cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, cần quy hoạch vùng nuôi theo quy mô lớn, tránh nhỏ lẻ, tự phát dẫn tới không kiểm soát được dịch bệnh. Đầu tư cơ sở vật chất cho NTTS, KTTS, chế biến và xuất khẩu; đổi mới khoa học công nghệ để giảm tổn thất sau thu hoạch 5 xuống còn 10% trong năm 2020. Thứ trưởng Vũ Văn Tám đã nhấn mạnh phát triển NTTS chưa thể hiện rõ sự gắn kết giữa công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ với thực tiễn NTTS, chưa đáp ứng nhu cầu của người nuôi của người nuôi ở các lĩnh vực cơ bản như con giống, công nghệ nuôi, quản lý môi trường và dịch bệnh. Sự phát triển NTTS chưa bền vững đã thể hiện qua tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 1/2013 ước tính đạt 170.600 tấn, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, đặc biệt nuôi cá tra vẫn còn gặp khó khăn do cá tra nguyên liệu ở mức giá thấp trong khi giá cả các yếu tố đầu vào tăng nên sản lượng cá tra thu hoạch giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ trọng trong xuất khẩu thủy sản: cá tra và cá basa chiếm 50.4% về khối lượng và 32.7% về giá trị; tôm chiếm 15.9% về khối lượng và 36.9% về giá trị; cá ngừ chiếm 4.4% về khối lượng và 4.0% về giá trị; mực và bạch tuộc chiếm 6.7% về khối lượng và 6.8% về giá trị, còn lại là các loại thủy sản khác. Năm 2009, tổng số lượng cá Tra giống các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã sản xuất được 2.033 triệu con. Trong đó tỉnh Đồng Tháp sản xuất 905 triệu con giống, An Giang 589 triệu con giống và Cần Thơ 305 triệu con giống. Giá bán cá Tra giống cỡ 2 cm thời điểm cuối năm 2009 chỉ còn 500 600đ/con, giảm 20-30% so với 2 tháng trước. Bùi Huy Cộng và ctv, (1997) với mô hình lúa cá kết hợp tại Phú Thịnh (Yên Bình, Yên Bái), Đại Bái (Gia Lương, Bắc Ninh), Yên Chính ( Ý Yên, Nam Định). Kết quả cho thấy năng suất lúa ở mô hình 2 vụ lúa + 1 vụ cá tăng 8.712.2% và năng suất cá đạt 475- 640kg/ha, hiệu quả gấp 5 lần so với cấy lúa đơn thuần. Còn năng suất lúa ở mô hình 1 vụ lúa + 1 vụ cá tăng 17.3%, năng suất cá đạt 1173- 1377kg/ha, hiệu quả tăng gấp 3 lần so với cấy lúa đơn thuần. Bên cạnh những lợi ích đó thì các mô hình này còn góp phần làm sạch môi trường. Nguyễn Văn Hiền (2013) ở ấp 10 – xã Tân Phong- huyện Giá Rai- tỉnh Bạc Liêu với mô hình quảng canh cải tiến, kết hợp với nuôi cá và nuôi cua. Kết quả cho thấy bình quân mỗi năm thu nhập từ tôm, cua của ông đạt 200 triệu đồng. Ông Võ Văn Vân(2013) KP. Đông, phường Vĩnh Phú, TX.Thuận An - Bình Dương với mô hình nuôi cá tai tượng trong ao đất đã đưa kinh tế gia đình thoát nghèo. Thu nhập bình quân hằng năm từ nuôi cá tai tượng của ông khoảng 400 triệu. 6 Nguyễn Thị Xuân Thu (2001) khi nuôi xen ghép tôm sú với hải sâm, các yếu tố môi trường, hàm lượng vi sinh vật có nhiều sai khác lớn so với nuôi đơn tôm sú. Và đến năm 2003 đã nghiên cứu thành công mô hình nuôi xen ghép tôm sú kết hợp với hải sâm nhằm cải thiện môi trường ao nuôi và tăng thu nhập cho người nuôi. Ở An Giang, nhiều người nuôi xen ghép tôm sú với cá kèo, một đối tượng có giá trị kinh tế cao. Việc nuôi cá kèo bắt đầu vào mùa mưa (tháng 4 âm lịch), nên nuôi cá kèo khi tôm sú đã lớn, và chọn cá khỏe mạnh thả nuôi.Ngoài ra ở đây còn nuôi cá thát lát người thực hiện mô hình này vừa cho thu hoạch 30.000 con cá thát lát sau gần 6,5 tháng thả nuôi, được trên 14 tấn cá thương phẩm với giá 37.000 đ/kg, thu về lợi nhuận trên 150 triệu đồng. Cá chình là một loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Ở Bà Rịa- Vũng Tàu, đã nuôi xen ghép cá chình với cá trắm, cá mè. Mật độ cá trắm, cá mè 4,000- 5,000 con/ha. Tại An Giang, với sự chuyển giao kỹ thuật của phòng Kinh tế Tân Châu và Hội Nông dân thị xã, xã Vĩnh Xương có khoảng 100 hội viên, nông dân tham gia nuôi cá lóc, lươn và ếch Thái Lan. Trong đó, có việc ương con giống và nuôi ếch thịt được tổ chức khá thành công. Còn ở xã Long An, từ Tổ hùn vốn Long Thành đã xuất phát nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản, hỗ trợ cho hội viên và nông dân có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Ở Mỹ Thới, địa bàn ngoại thành Long Xuyên với kinh nghiệm của người nông dân nên nơi đây có số hộ nuôi lươn nhiều nhất, với chất liệu là ny-lon, diện tích mỗi bồn 40 m2 (4m x 10m), có thể thả lươn giống 40 – 50 con/m2 (loại 50 – 60 con/kg), sau 5 – 6 tháng nuôi cho trọng lượng 150 – 200g/con, sản lượng đạt 150kg– 250kg/bồn. Bình quân mỗi bồn người nuôi thu được lợi nhuận khaongr 13 triệu đồng. Tại xã Nam Thái A thuộc huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang có khoảng 272 ha diện tích nuôi kết hợp tôm – cua – sò huyết tập trung ở Xẻo Quao A, Xẻo Đôi, Bảy Biển và Xẻo Vẹt với 52 hộ nông dân thực hiện mô hình này. Với nguồn vốn đầu tư không cao, người nuôi chỉ tốn tiền mua giống, có thể tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao nuôi. Mô hình nuôi ghép này đã góp phần vào việc cải thiện môi trường nước ao như lọc tảo, xử lý mùn bã hữu cơ, vi sinh vật và đã giúp nhiều hộ dân có thu nhập ổn định hơn và vươn lên làm giàu. Ngày nay, hình thức nuôi đa dạng hơn như nuôi trong ao hồ nhỏ, nuôi trong lồng bè trên sông, nuôi luân xen canh thuỷ sản – lúa… Đặc biệt là khu vực 7 ĐBSCL với diện tích NTTS rộng lớn phân bố trên toàn vùng. Những mô hình NTTS trên vùng nước ngọt tập trung ở vùng ngập lũ Tứ giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười và vùng trũng nội địa thuộc bán đảo Cà Mau, chủ yếu ở một số tỉnh thành như: Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang... Các mô hình nuôi thủy sản phổ biến hiện nay là: canh tác lúa-tôm (tôm nước ngọt và tôm càng xanh), canh tác lúa-cá (cá lóc, cá rô, cá sặc, thác lác, cá chép, rô phi, mè vinh...), nuôi cá bè trên sông (cá ba sa, cá tra, cá lóc đen, cá lóc bông...), nuôi tôm/cá đăng quầng (cá linh, cá rô, các loại tôm tự nhiên...), nuôi cá lóc trong vèo, nuôi lươn mùa lũ… 2.3.Tình hình NTTS tại Quảng Nam. Là một tỉnh nằm ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế miền Trung, với đường bờ biển dài 125 km và thềm lục địa rộng lớn, có nguồn hải sản phong phú thuận lợi cho việc khai thác cùng với diện tích đầm, phá và các vùng đất nhiễm mặn ven biển là nguồn tài nguyên quý giá để phát triển các nghề khai thác, chế biến và nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm nước lợ. Theo báo cáo của Chi cục NTTS Quảng Nam, năm 2011, tổng diện tích NTTS trên toàn địa bàn tỉnh là 6.900 ha với sản lượng thu hoạch đạt 14.250 tấn; trong đó diện tích NTTS nước ngọt 4.700 ha, diện tích nuôi thủy sản nước lợ 2.272 ha (nuôi vùng triều là 1.191 ha, nuôi trên cát là 268 ha). Nuôi trồng thủy sản tỉnh Quảng Nam đã góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Theo thống kê của Sở Công thương tỉnh, giai đoạn 20012010, kim ngạch xuất khẩu của Quảng Nam có tốc độ tăng bình quân là 27,7%/năm. Trong đó kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng thủy, hải sản tăng 16,1%/năm. Với vụ đầu thành công, mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt cho người dân nông thôn, nhưng qua kết quả điều tra cho thấy rằng NTTS vẫn là một nghề nhiều rủi ro, ảnh hưởng lớn đến sinh kế người dân cũng như môi trường sinh thái. Năm 2012, Sau gần 3 năm thực hiện quyết định của UBND tỉnh Quảng Nam về quy hoạch ngắn hạn vùng nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát ven biển thuộc 3 xã Bình Hải, Bình Dương và Bình Minh (huyện Thăng Bình) với tổng diện tích 131,1 ha đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, việc ồ ạt nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát đang tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường cao. Đặc trưng của môi trường sống, ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh và xung đột giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài tất cả đều gây khó khăn cho sự phát triển 8 bền vững của ngành thủy sản hiện nay. Ở nhiều xã và một số huyện trực thuộc tỉnh, nuôi tôm thực sự chỉ gợi lại những ký ức nợ nần chồng chất và là một nổ lực thất bại chống lại nghèo đói để cải thiện tình hình kinh tế-xã hội, nhiều người dân đã từ bỏ NTTS sau nhiều năm thua lổ. Theo thống kê, từ năm 1997 đến năm 2003, bình quân hàng năm, tỉnh Quảng Nam có gần 970 ha nuôi tôm bị bệnh (chiếm gần 60% diện tích nuôi tôm) với tổn thiệt hại lên đến 86,5 tỷ đồng, riêng năm 2002 đã có đến 1200 ha nuôi tôm bị thiệt hại. Từ năm 2004 đến nay, diện tích nuôi tôm bị dịch bệnh có giảm nhưng vẫn còn dao động từ 100-200 ha/năm. Trong thời gian qua Chi cục Nuôi trồng thủy sản tỉnh Quảng Nam đã triển khai nhiều biện pháp phòng, chống bệnh trên tôm nuôi, quản lý môi trường nước trong ao nuôi tôm. Tuy nhiên, công tác chỉ đạo sản xuất vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Người dân vẫn chưa nghiêm túc chấp hành lịch thời vụ và kiểm dịch con giống. Ông Ngô Tấn- phó giám đốc sở NN&PTNT kiêm Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng Nam phát biểu: “Thời gian qua, việc phát hiện và xử lý các trường hợp tôm nuôi bị các bệnh nguy hiểm chưa được kịp thời. Khi tôm nuôi có dấu hiệu nhiễm bệnh, chi cục đến vùng nuôi lấy mẫu, phân tích và trả lời kết quả nhanh chóng. Tuy nhiên, khi phát hiện tôm nuôi bị bệnh đốm trắng, đơn vị chỉ dừng lại ở mức kiểm tra, thông báo kết quả, hướng dẫn người nuôi và địa phương thực hiện biện pháp xử lý và khống chế bao vây. Do vi rút đốm trắng phát tán nhanh trong điều kiện ao nuôi sơ sài mà nguồn hóa chất dự phòng lại không có sẵn nên việc lây lan nhanh mầm bệnh là điều khó tránh khỏi”. Bà Phạm Thị Hoàng Tâm, Phó Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng Nam cho biết, vấn đề quản lý chất lượng con giống trên địa bàn tỉnh hiện chưa được toàn diện nên con giống kém chất lượng vẫn tràn lan. Nguyên nhân của hạn chế này là do người nuôi vẫn còn mang tâm lý sợ sệt, trốn tránh, không hợp tác với cơ quan quản lý để kiểm tra chất lượng con giống. Bà Tâm kiến nghị: “Để đảm bảo hiệu quả trong nuôi tôm nước lợ nói riêng, trong nuôi trồng thủy sản nói chung, thời gian tới tỉnh Quảng Nam cần quan tâm bố trí nguồn hóa chất Clorin A dự phòng để đơn vị có thể chủ động giúp nông dân phòng, chống dịch bệnh khi bước vào sản xuất vụ đầu năm đến. Việc tổ chức các lớp tập huấn về phòng, chống dịch bệnh trên tôm nuôi cho cán bộ thủy sản địa phương cũng rất cần thiết”. Đối tượng nuôi chính ở đây là tôm sú (Penaeus monodon), loài phụ là tôm rảo (Metapenaeus ensis) như ở Hội An, Thăng Bình,... Tôm được nuôi chủ yếu 9 trong ao có diện tích trung bình 5000m2. Hình thức nuôi cũng thay đổi theo thời gian, từ nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến đến bán thâm canh, thâm canh. Những người tham gia nuôi tôm nhưng không phải nghề chính thì có xu hướng làm quảng canh cải tiến. Từ năm 2005, với chủ trương cho phép phát triển đối tượng tôm thẻ chân trắng bên cạnh con tôm sú truyền thống đã làm cho diện tích, sản lượng và năng suất nuôi tôm ở Quảng Nam tăng cao. Theo báo cáo của sở NN & PTNT Quảng Nam, năm 2011, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng là 1.400 ha, với sản lượng đạt 7.024 tấn; trong đó diện tích nuôi trên vùng triều là 1.139 ha, nuôi tôm trên cát là 268 ha. Được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh Quảng Nam, Trạm Khuyến nông – Khuyến lâm huyện Núi Thành đã phối hợp với UBND 2 xã Tam Xuân 2 và Tam Nghĩa triển khai xây dựng mô hình nuôi cá thát lát cườm ở ao có diện tích 1.500 m2 và 1.000 m2 ở thôn An Thiện (Tam Nghĩa). Trạm tiến hành thả nuôi 6.250 con, cở 3-4 cm. Mật độ thả là 2,5 con/m2. Sau gần 6 tháng thả nuôi, qua kiểm tra cho thấy cá phát triển tốt, đồng đều, tỷ lệ sống khá cao khoảng 70-80%, trọng lượng bình quân đạt 500 gam/con. Dự kiến tổng lượng thu được gần 2,2 tấn. Với giá bán trên thị trường 60.000 đ/kg, sẽ thu được khoảng hơn 130 triệu đồng, trừ chi phí lãi gần 39 triệu đồng. Đầu năm 2010, một số hộ nông dân ở huyện Núi Thành bắt đầu triển khai mô hình nuôi nghêu thương phẩm với sự hổ trợ tích cực của phòng NN&PTNT huyện đã mang lại thu nhập đáng kể cho nhiều hộ gia đình, mô hình nuôi này còn góp phần vào cải thiện môi trường và cân bằng hệ sinh thái. Tháng 5 năm 2011, ông Nguyễn Ngọc Ánh ở thôn 2 xã Bình Giang huyện Thăng Bình đã được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh Quảng Nam, Trạm Khuyến nông – Khuyến lâm Thăng Bình triển khai mô hình nuôi cua thương phẩm trong ao đất. Mô hình nuôi cua đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, ông đã có lãi trên 14 triệu đồng. Giúp tăng thu nhập và góp phần đa dạng hoá đối tượng nuôi nước lợ, cải thiện môi trường ao nuôi, khắc phục tình trạng nuôi tôm thường hay bị dịch bệnh làm thiệt hại kinh tế đối với nông dân. Nhiều đối tượng khác như cua càng xanh (Scylla serrata), cá diêu hồng (Oreochromis sp), cá rô phi (Oreochromis niloticus và O. Mossambicus), cá dìa (Siganus guttatus), cá chẽm (Lates calcarifer ) cũng được nuôi xen kẻ vào các vụ nuôi, chủ yếu vào vụ 2 hằng năm. Đối với thành phố Hội An, nghề NTTS mà chủ yếu là nuôi tôm nước lợ đã được xác định là một trong những mũi đột phá trong cơ cấu kinh tế của thành 10 phố. Nghị quyết Đại hội Đảng Bộ lần thứ 14 đã xác định: "Xúc tiến quy hoạch chi tiết vùng NTTS và đánh giá lại hiệu quả diện tích sản xuất lúa năng xuất thấp để chuyển sang NTTS, mở rộng diện tích nuôi. Nghiên cứu thực hiện đa dạng hóa đối tượng nuôi ở các thủy vực nội địa và vùng biển đảo." Bên cạnh nuôi tôm nước lợ thì các đối tượng như cá dìa; cá rô phi được nuôi ghép với đối tượng nuôi truyền thống đã mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người nuôi vào vụ nuôi phụ (vụ hai hàng năm). 2.4.Sơ lược về điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội thành phố Hội An 2.4.1.Vị trí địa lý Thành phố Hội An nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông Thu Bồn, được giới hạn bởi tọa độ từ 15o15’26” đến 15o55’15” vĩ độ Bắc và từ 108o17’08” đến 108o23’10” kinh độ Đông; cách quốc lộ 1A khoảng 9 km về phía Đông, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 25 km về phía Đông Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 50 km về phía Đông Bắc. Phía Bắc, phía Tây giáp với huyện Điện Bàn, phía Đông Bắc giáp với biển Đông, phía Nam giáp với huyện Duy Xuyên. Cách đất liền 18 km là cụm đảo Cù Lao Chàm, bao gồm nhiều hòn đảo lớn nhỏ: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Ông, Hòn Tai, Hòn Lá, Hòn Khô, Hòn Nồm với diện tích chiếm một phần tư thành phố Hội An. Hình 2. Bản đồ hành chính thành phố Hội An –tỉnh Quảng Nam. 11 Tổng diện tích tự nhiên toàn thành phố là 6.171,25 ha, phần diện tích đất liền 4.850 ha chiếm 73,50% (trong đó diện tích đất 3.669 ha và diện tích mặt nước 1.180,3 ha), diện tích hải đảo 1.654 ha chiếm 26,50%. Hội An là nơi quy tụ của nhiều nhánh sông: hệ thống sông Cổ Cò, sông Đế Võng ở phía Bắc, phía Nam là sông Trường Giang, phía Tây là sông Thu Bồn với các chi lưu của nó và phía Đông là biển. Với cấu trúc hệ thống sông theo kiểu mạng nhện đã chia cắt Hội An thành những mảnh đất nhỏ hình thành nên các khu dân cư có đời sống kinh tế xã hội khác nhau và một vùng triều rộng lớn thuận lợi cho NTTS. Đặc điểm về vị trí địa lý, cấu trúc địa chất và lịch sử làm cho khí tượng- thủy văn, địa hình, địa mạo của Hội An khá phong phú và đa dạng. Hội An vừa có đô thị cổ, đô thị cũ, đô thị mới; vừa có đồng bằng; vừa có biển, có hải đảo tạo nên nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào về lâm, thổ, hải sản...Phần lớn diện tích tự nhiên của Hội An được bao bọc bởi hệ thống sông lớn nhỏ, mương lạch chằng chịt và bị chia cắt bởi những bãi, nổng, trảng, dốc, cồn cát; những bàu, đầm, hói, vũng, ao…và những rừng dừa nước. 2.4.2. Điều kiện tự nhiên 2.4.2.1.Điều kiện địa hình Địa hình Hội An nhìn chung thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, độ dốc thoải trung bình 0,0150. Thành phố Hội An có hai dạng địa hình: - Dạng địa hình đồng bằng: Địa hình các vùng đồng bằng của Hội An chia thành ba vùng: + Vùng cồn cát: tập trung ở phía Tây Bắc, trải dài từ dốc Lai Nghi địa bàn phường Thanh Hà, sang xã Cẩm Hà, qua phường Cẩm An, chạy dọc biển xuống phường Cửa Đại, kết nối với vùng cát phía Đông huyện Điện Bàn (giáp các xã Điện Nam, Điện Dương). + Vùng thấp trũng: gồm các phường Cẩm Phô, Minh An, Sơn Phong, Cẩm Nam, Cẩm Châu và xã Cẩm Kim bờ Nam sông Thu Bồn. +Vùng mặt nước: sông ngòi gồm phần lớn diện tích xã Cẩm Thanh. - Dạng địa hình hải đảo: Địa hình hải đảo Cù Lao Chàm chủ yếu là đồi núi thấp, hầu hết các đảo nhỏ có hình chóp cụt, độ cao lớn nhất so với mặt biển dao động từ 70 – 517 m. Đảo 12 lớn nhất là Hòn Lao có một dãy núi xếp theo hình cánh cung từ Tây Bắc xuống Đông Nam, chia Hòn Lao thành hai sườn có địa thế khác nhau: sườn Đông có độ dốc lớn, đá tảng bao quanh chân núi rất hiểm trở; sườn Tây dốc thoải, ít đá tảng, nhiều bãi bồi ven biển 2.4.2.2.Điều kiện khí hậu, thủy văn. a) Điều kiện khí hậu. Thành phố Hội An có chế độ khí hậu mang những tính chất và đặc điểm của khí hậu Việt Nam, đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên ngoài những đặc trưng chung, Hội An là một khu vực ven biển Trung Bộ nên có những tính chất riêng, mang tính địa phương do điều kiện địa lý, địa hình đem lại. b) Chế độ nhiệt. - Do phía Bắc được ngăn bởi dải Hoành Sơn, phía Tây được che bởi khối núi Bắc tỉnh Kon Tum nên cũng như các địa phương khác của Quảng Nam và các tỉnh, thành phố lân cận, ở Hội An không có mùa đông lạnh. - Mùa khô từ khoảng tháng 2 đến tháng 8, mùa mưa thường kéo dài từ tháng 9 đến tháng Giêng năm sau. Nhiệt độ không khí ở Hội An lệ thuộc nhiều vào khí hậu nhiệt đới gió mùa: gió mùa đông bắc, gió mùa tây nam, gió mùa đông – đông nam và chế độ mưa. Nhiệt độ trung bình trong năm là 25,6oC, cao nhất là 39,8oC, thấp nhất là 22,8oC. c) Độ ẩm. Độ ẩm không khí trung bình hàng năm vào khoảng 82%, cao nhất khoảng 90% và thấp nhất khoảng 75%. d) Chế độ gió. Hội An nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, với chế độ gió có hai mùa khá rõ, mùa mưa trùng với gió mùa Đông Bắc từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau, mùa khô trùng với gió mùa Tây Nam từ tháng 4 đến tháng 9. Ngoài ra, trong năm còn chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam khá mát, dễ chịu xen giữa các đợt gió Đông Bắc cũng như gió Tây Nam. e) Bão. Bão ở Hội An thường xuất hiện vào các tháng 9,10,11 hàng năm; các cơn bão thường kéo theo những trận mưa lớn gây lũ lụt toàn khu vực. Theo thống kê 13 nhiều năm thì số cơn bão đổ bộ vào Đà Nẵng, Hội An chiếm 24,4% tổng số các cơn bão đổ bộ vào đất liền từ vĩ tuyến 17 trở vào. f) Nắng. Do nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa nên lượng bức xạ nhiệt ở Quảng Nam nói chung và Hội An khá lớn. Số giờ chiếu nắng trung bình 2158 giờ/năm. Các tháng mùa nóng có lượng bức xạ nhiệt khá lớn, số giờ nắng tháng cao nhât 248 giờ (vào tháng 5). Tháng có số giờ chiếu nắng ít nhất vào khoảng 12 giờ/tháng (vào tháng 12) g) Chế độ thủy triều. Chế độ sóng và dòng chảy cũng biến đổi theo chế độ gió mùa. Chế độ mực nước sông Thu Bồn, Trường Giang, Đế Võng phụ thuộc vào chế độ thủy triều lên xuống ngày hai lần (bán nhật triều); giữa kỳ nước cường và nước kém biên độ triều chênh lệch không đáng kể (triều max= 1,4m, triều min= 0,00m). Về mùa khô, do nước sông xuống thấp, nước biển thâm nhập sâu vào lục địa gây nên độ nhiễm mặn (trung bình 12%). h) Đặc điểm thuỷ văn: - Thành phố Hội An chịu ảnh hưởng chính của chế độ thuỷ văn của các con sông lớn. - Sông Thu Bồn có diện tích lưu vực 10.590 km2 với tổng lưu lượng 19,9 tỷ m3/năm. Đoạn sông Thu Bồn chảy ra biển Đông ở Cửa Đại, có các đặc trưng sau đây: chiều dài đoạn chảy qua thành phố Hội An: 8,5 km, chiều rộng: 120 640m, đoạn qua thành phố rộng 200 m, diện tích lưu vực: 3.510 km2, lưu lượng nước bình quân: 232 m3/giây, lưu lượng lũ bình quân: 5.430 m3/giây, lưu lượng kiệt: 40 - 60 m3/giây, mực nước ứng với lưu lượng bình quân: +0,76 m, mực nước bình quân mùa lũ: 2,48 m, mực nước ứng với lưu lượng kiệt: 0,19 m. - Sông Đế Võng: từ xã Điện Dương, huyện Điện Bàn, chạy dọc từ Tây sang Đông ở phía Bắc thành phố Hội An. Chiều dài đoạn chảy qua thành phố trên 7 km, chiều rộng: 80 - 100 m, chế độ mực nước sông Đế Võng phụ thuộc vào chế độ thuỷ triều từ Cửa Đại và cửa sông Hàn. Tại khu vực Cửa Đại, biên độ nhật triều không đều, từ 1,00 m - 1,50 m, giữa kỳ nước cường và nước kém, biên độ triều chênh lệch không đáng kể. Trong kỳ nước kém, biên độ triều khoảng 0,50 m. Sự giao lưu giữa biển và hệ thống sông Thu Bồn – Đế Võng đã tạo cho Hội An vùng nước lợ đặc trưng có nguồn lợi thủy sinh phong phú. 14 - Chế độ dòng chảy: khi triều lên từ Cửa Đại, mực nước trong sông dâng lên, khi triều xuống, dòng nước trong sông lại đổ ra biển. Nói chung dòng chảy tương đối điều hoà nhưng do lưu tốc nhỏ là nguyên nhân gây bồi cạn trong sông. Về mùa khô có những đoạn sông bị cạn, nước bị nhiễm mặn. - Thuỷ triều: biển Hội An chịu ảnh hưởng chế độ thuỷ triều của vùng biển Trung Trung Bộ, mỗi ngày thuỷ triều lên xuống 2 lần (bán nhật triều). Biên độ dao động của triều trung bình là 0,6 m. Trong các cơn bão có những đợt sóng có biên độ rất lớn, cao độ lớn nhất của sóng lên đến 3,40 m ở khoảng cách 50 m so với bờ biển, gây thiệt hại lớn cho vùng ven biển. Về mùa khô, do nước sông xuống thấp, nước biển thâm nhập sâu vào lục địa gây mặn ảnh hưởng lớn cho vấn đề dân sinh kinh tế . 2.4.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội a) Đặc điểm kinh tế. Tổng GDP của thành phố năm 2007 (theo giá trị thực) đạt: 1.249.708 triệu đồng. Từ đó ta có thể biết được thu nhập bình quân đầu người của thành phố (GDP/người) vào khoảng 14,74 triệu đồng. Và tốc độ tăng trưởng kinh tế là 11,73%. Từ đó cho ta thấy được kinh tế của thành phố Hội An đang phát triển rất khả quan. * Về sản xuất công nghiệp, nông nghiệp: Nông nghiệp Hội An cơ bản là sản xuất lúa, bắp, rau quả và tôm mực, cá, khai thác tổ yến. Hàng năm Hội An sản xuất 5.386 tấn lương thực tiêu dùng tại chỗ. Xuất khẩu 13.000 tấn thuỷ sản trong đó 4.290 tấn hải sản. Mặt hàng xuất khẩu thô sơ dạng bán nguyên liệu. Nghề nuôi trồng thuỷ sản có chiều hướng phát triển tốt có thể phục vụ phát triển du lịch. Riêng ngành thuỷ sản đạt 277.550 triệu đồng năm 2007. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên ven bờ có thể dẫn đến phá vỡ sinh thái dưới biển, ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch, thể thao và thám hiểm biển. Trong sản xuất công nghiệp, trước đây, mặt hàng nổi tiếng là dệt vải, chiếu cói, mành trúc, mộc (Kim Bồng), thảm len đã một thời được khách hàng thị trường Đông Âu ưa chuộng; nay được bổ sung nhiều ngành nghề có giá trị kinh tế cao. * Về thương mại-dịch vụ: Hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu tập trung vào hàng thuỷ sản gồm có: Yến, cá, mực, tôm, vây cá, sản phẩm thủy sản đông lạnh, sò và các loại nhuyễn thể. Hải sản và yến sào Hội An nổi tiếng ngon và quý giá. Thương mại phát triển. Du 15 lịch và dịch vụ du lịch tiến triển nhanh, du khách thường trú bình quân trên 21.000 người ( 600000 khách lưu trú : 2,34 ngày lưu trú :12 tháng) b) Đặc điểm xã hội. - Dân số: toàn thành phố năm 2007 có 90.150 người (20.487 hộ). Mật độ dân số là: 1.461người/km2. Trong đó số hộ nghèo 885 hộ, chiếm 4,67%. - Tổng số lao động trong toàn thành phố là: 56.902 người, trong đó lao động nữ là: 29.008 người (theo niên giám thống kê năm 2009). Thực trạng nguồn nhân lực Hội An đựơc phân theo ngành hoạt động chính cụ thể như sau (theo niên giám thống kê Hội An năm 2009) : - Ngành Nông nghiệp: 4.825 người - Ngành Thủy sản: 4.549 người - Ngành công nghiệp và TTCN: 6.714 người - Ngành Thương nghiệp – Dịch vụ : 7.654 người - Tình hình về y tế, giáo dục: 100% xã phường có trạm y tế, trường cấp I, 50% dân số được dùng nước sạch, 100% các hộ có ti vi, radio, 92,31% thôn xã có đường ô tô đến tận nơi, 100% xã có đài truyền thanh xã. - Các hoạt động xã hội như: phong trào đền ơn đáp nghĩa, các phong trào tình nguyện ... đều được duy trì, phát triển và đặc biệt trong du lịch bảo tồn khu phố cổ hoạt động có sáng tạo. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc được phát động và duy trì thường xuyên. Quyết liệt trong chỉ đạo cũng như thực hiện công tác đảm bảo trật tự - an toàn xã hội, giữ gìn môi trường xã hội trong lành. Duy trì công tác huấn luyện, diễn tập và trực sẵn sàng chiến đấu. Có thể nói công tác an ninh- quốc phòng được tăng cường vững mạnh. 16 PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1.Thời gian, địa điểm, đối tượng nghiên cứu 3.1.1. Thời gian nghiên cứu Từ ngày 2/1/2013 đến ngày 4/5/2013 3.1.2.Địa điểm nghiên cứu 5 xã NTTS của thành phố Hội An: Xã Cẩm Thanh, Cẩm Châu, Cẩm Nam, Cẩm An và Cẩm Hà 3.2.Đối tượng nghiên cứu Cộng đồng ngư dân năm phường Cẩm Thanh, Cẩm Châu, Cẩm Hà, Cẩm An và Cẩm Nam, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. 3.3.Nội dung nghiên cứu. - Thu thập các tài liệu, dữ liệu từ các cơ quan, đơn vị, địa phương về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội của các khu vực NTTS. - Điều tra khảo sát về hiện trạng nuôi trồng thủy sản ở thành phố Hội An ( về thời gian nuôi, đối tượng, hình thức nuôi, diện tích, sản lượng, tình hình dịch bệnh, hiệu quả kinh tế ...) 17 - Nghiên cứu tài liệu, văn bản, định hướng phát triển KT – XH của địa phương để xây dựng định hướng phát triển NTTS theo hướng bền vững. 3.4.Phương pháp nghiên cứu. 3.4.1. Phương pháp thu thập thông tin và số liệu thứ cấp. Nhằm thu thập và sàn lọc các thông thin cần thiết được ghi chép trong các tư liệu, tài liệu khác nhau để chứng minh thêm cho vấn đề nghiên cứu hoặc làm cơ sở để xây dựng phương pháp luận trong nghiên cứu... Cụ thể, trong đề tài này là các tài liệu về thực trạng NTTS toàn cầu, trong nước và địa phương. Các thông tin thu thập được thông qua các tài liệu, sách báo, tạp chí, kết quả nghiên cứu và báo cáo của các cơ quan chức năng. 3.4.2.Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp. Đây là phương pháp dùng để thu thập được các thông tin cơ bản và thiết thực, có giá trị thực tiễn thông qua quan sát hiện trạng và quá trình diễn ra trong cộng đồng nghiên cứu. Cụ thể là đã tiến hành khảo sát toàn bộ địa bàn nghiên cứu có kèm theo phỏng vấn các hộ địa phương. Qua đó nắm bắt được những điều cơ bản về tập quán sinh hoạt và sản xuất của cộng đồng nơi đây. 3.4.3.Phương pháp thống kê và phân tích tổng hợp. Thống kê và phân tích là thống kê tất cả các thông tin có liên quan sau đó chia các tổng thể hay các vấn đề phức tạp thành những phần đơn giản để thuận lợi cho nghiên cứu và sản xuất. Thống kê và phân tích tổng hợp là liên kết, thống nhất các bộ phận, yếu tố đã được phân tích, khái quát hóa vấn đề trong nhận thức tổng thể. Trong luận văn, tôi sử dụng phương pháp này để thống kê tất cả các yếu tố có liên quan đến đề tài, ví dụ: số liệu về diện tích NTTS, sản lượng, ..., từ đó phân tích, tổng hợp lại và rút ra những thông tin có cơ sở và tin tưởng để hoàn thành luận văn của mình. Trong phương pháp này, tôi đã sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2007 để đưa ra kết quả cuối cùng. 18 19 PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1.Đánh giá hiện trạng NTTS thành phố Hội An. 4.1.1.Diện tích NTTS từ năm 2005 đến năm 2012. Khởi điểm vào năm 1983, nghề NTTS ở Hội An cũng đã có những biến động lớn. Từ hình thức quảng canh đã chuyển sang bán thâm canh với đối tượng tôm sú. Năm 2006, với chủ trương cho phép phát triển con tôm thẻ chân trắng bên cạnh con tôm sú truyền thống với diện tích ban đầu là 0.4 ha. Đến nay diện tích nuôi tôm thẻ chân trẳng ở Hội An đã tăng lên 141.7 ha trải đều trên 5 xã Cẩm Thanh, Cẩm Châu, Cẩm An, Cẩm Hà và Cẩm Nam. Trong đó, xã Cẩm Thanh chiếm diện tích nuôi lớn nhất 103 ha trong tổng số 182.7 ha. Thuộc vùng hạ lưu sông Thu Bồn, vùng đất ngập nước của Hội An luôn chịu sự tác động của thiên tai, bão lụt hằng năm làm biến đổi dòng chảy từ đó làm thay đổi sinh cảnh, các yếu tố môi trường thủy vực. Các hoạt động khai thác khoáng sản ở vùng thượng lưu, chất thải của một số xí nghiệp, cơ sở sản xuất, dịch vụ ven sông Thu Bồn cũng có thể đã có những tác động đến môi trường thủy vực NTTS. Đặc biệt các hoạt động dịch vụ phục vụ du lịch ở Hội An như việc phát triển các nhà hàng, khách sạn ven sông cũng tác động rất lớn đến môi trường NTTS nói riêng và thủy vực nói chung. Những năm gần đây, NTTS là một thế mạnh của thành phố, đã giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động ven biển. Tuy vậy, thực trạng sản xuất thời gian qua cho thấy sự phát triển không bền vững của nghề này mà nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề ô nhiễm thủy vực. Bên cạnh đó việc thay đổi đối tượng nuôi chính từ tôm sú sang tôm thẻ từ năm 2006 với hình thực bán thâm canh và thâm canh cũng đã ẩn chứa nhiều rủi ro do việc phát thải chất thải. Diện tích NTTS của thành phố đã có sự suy giảm về diện tích nuôi được thể hiện qua biểu đồ sau: 5 4.5 4 3.5 3 2.5 2 1.5 1 0.5 0 Series 1 Series 2 Category C1ategory C2ategory C3ategory 4 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng