Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng nữ quyền trong thơ hồ xuân hương...

Tài liệu Tư tưởng nữ quyền trong thơ hồ xuân hương

.DOCX
69
424
152

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN === === TRƯƠNG THỊ THU HÀ TƯ TƯỞNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lý luận Văn học Người hướng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp: Tư tưởng nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hương, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu từ phía nhà trường, các thầy cô, gia đình và bạn bè. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ThS. Nguyễn Thị Vân Anh, người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện để tôi kịp hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Cuối cùng tôi xin được cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên cạnh, động viên, khuyến khích tôi trong suốt thời gian qua. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả khóa luận Trương Thị Thu Hà LỜI CAM ĐOAN Dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình của ThS. Nguyễn Thị Vân Anh, sau một thời gian cố gắng, tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp: Tư tưởng nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hương. Tôi xin cam đoan rằng số liệu nghiên cứu trong khóa luận này là trung thực, không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng tất cả những thông tin trích dẫn trong báo cáo đã được ghi rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả khóa luận Trương Thị Thu Hà MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................2 3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................5 4. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................5 6. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.............................................. 5 7. Đóng góp của khóa luận................................................................................6 8. Cấu trúc của khóa luận.................................................................................. 6 PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................... 7 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN VÀ PHÊ BÌNH NỮ QUYỀN..................................................................................................... 7 1.1. Chủ nghĩa nữ quyền - nguồn gốc phát sinh và quá trình phát triển............7 1.2. Phê bình nữ quyền....................................................................................10 1.3. Văn học nữ quyền.....................................................................................14 1.4. Khuynh hướng nữ quyền trong văn học Việt Nam...................................17 Chương 2: NHỮNG DẤU HIỆU BIỂU HIỆN TƯ TƯỞNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG............................................................ 21 2.1. Ngợi ca, khẳng định bản lĩnh người phụ nữ.............................................21 2.2. Hạ bệ đàn ông...........................................................................................28 2.3. Tính dục như một phương thức thể hiện bản ngã người phụ nữ..............33 Chương 3: PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN TƯ TƯỞNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG............................................................ 43 3.1. Thể loại.....................................................................................................43 3.2. Ngôn ngữ..................................................................................................46 3.3. Giọng điệu................................................................................................ 49 KẾT LUẬN.................................................................................................... 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lý do chọn đề tài PHẦN MỞ ĐẦU Hồ Xuân Hương - nữ sĩ tài năng và độc đáo bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, bà từng được thi sĩ Xuân Diệu tôn vinh là “Bà Chúa thơ Nôm”. Sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương đã góp phần làm cho đời sống văn học từ xưa tới nay trở nên sôi nổi và đa dạng với hàng trăm bài nghiên cứu, hàng trăm ý kiến trái chiều về thơ bà. Ý kiến về thơ của bà, đặc biệt là mảng thơ Nôm, dù khen hay chê, tất thảy đều tạo nên diện mạo độc đáo cho kho tàng văn học Việt Nam. Thơ của bà được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, đưa người đọc đến gần hơn với văn chương của bà, từ những rung động mạnh trong ngôn từ độc giả chuyển dần sang sự nghiền ngẫm kĩ lưỡng, hiểu được tính nhân văn trong từng vần thơ của nữ sĩ. Cũng từ đó tài năng của Hồ Xuân Hương được nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan. Tài năng của bà được khẳng định hơn nữa khi tên tuổi Hồ Xuân Hương được đặt cạnh những đại thi hào như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... Hơn thế, cái tên Hồ Xuân Hương đã trở nên quen thuộc với độc giả quốc tế khi thơ của bà được chọn dịch và giới thiệu ra nước ngoài, thơ ca dân tộc nói chung và tên tuổi Hồ Xuân Hương nói riêng đã có cơ hội sánh vai cùng các thi sĩ nổi tiếng với các thi phẩm xuất sắc. Sở dĩ nữ sĩ họ Hồ có vị trí đặc biệt trên văn đàn là vì những tư tưởng, những vấn đề mà bà đề cập luôn mới lạ và gây hứng thú vô cùng đối với người đọc. “Nữ quyền” đang là một trong những vấn đề nóng được giới nghiên cứu quan tâm. Tiếp cận vấn đề phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn lý thuyết phê bình nữ quyền có ý nghĩa vô cùng quan trọng: Thứ nhất, tiếp cận dưới góc nhìn lý thuyết phê bình nữ quyền vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn, mặt khác nó giúp cho người nghiên cứu tiếp cận vấn đề phụ nữ với hướng tiếp cận mới so với cách tiếp cận khác, từ lý thuyết phê bình nữ quyền. 5 Thứ hai, tiếp cận vấn đề nữ giới trong văn học dưới góc nhìn lý thuyết phê bình nữ quyền giúp người nghiên cứu cũng như người đọc thấy được tính đặc thù của ý thức nữ quyền trong văn học. Tiếp cận lý thuyết nữ quyền phần lớn chủ yếu khảo sát mảng văn học đương đại, những giai đoạn văn học trước đây rất ít công trình nghiên cứu. Việc tiếp cận ý thức nữ quyền trong văn học dưới góc nhìn lý thuyết phê bình nữ quyền cho thấy đây là ý thức, tư tưởng mang tính chất dòng chảy, liền mạch, xuyên suốt, tiếp nối từ giai đoạn trước đến giai đoạn sau. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn văn học ra đời trong bối cảnh lịch sử văn hóa khác nhau, vì vậy mà tư tưởng nữ quyền, tiếng nói đấu tranh bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ ở mỗi chặng đường văn học được thể hiện khác nhau. Ngoài ra, tiếp cận vấn đề nữ giới từ lý thuyết phê bình nữ quyền còn góp phần thấy được tư tưởng nữ quyền là vấn đề mang tính chất nội sinh. Nó có nguồn gốc từ trong ý thức, tâm thức cộng đồng người Việt, phát sinh từ chính nôi văn hóa dân tộc, xuất phát trong bối cảnh lịch sử - văn hóa - xã hội Việt Nam. Vấn đề Tư tưởng nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hương chưa được nghiên cứu như một công trình riêng biệt. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài này nghiên cứu để thấy được ý nghĩa của việc tiếp cận vấn đề phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn lý thuyết phê bình nữ quyền, đồng thời góp phần khẳng định tài năng của nữ sĩ. Hồ Xuân Hương là tác giả văn học được đưa vào giảng dạy từ bậc Trung học cơ sở, Trung học phổ thông đến bậc Cao đẳng, Đại học. Lựa chọn và thực hiện đề tài này góp phần giúp cho người viết làm quen với các thao tác tư duy trong nghiên cứu văn học. Mặt khác, đề tài còn gắn với ý nghĩa thực tiễn giảng dạy. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Hồ Xuân Hương là một hiện tượng lạ của thơ ca dân tộc. Bà được coi là nhà thơ nữ tiêu biểu bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của bà vẫn còn là ẩn số cần tìm hiểu và lý giải. Dù số lượng tác phẩm để lại không nhiều, trong đó có những tác phẩm vẫn chưa xác định được chính xác ai là tác giả, nhưng qua nhiều thời đại, tên tuổi của bà dần được khẳng định và có chỗ đứng vững chắc trên thi đàn dân tộc cũng như trong lòng độc giả yêu thơ. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nữ sĩ nhận được sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu với nhiều luồng đánh giá, nhận định khác nhau. Thậm chí có cả những tranh luận, ý kiến trái chiều gay gắt. Bàn về thơ Hồ Xuân Hương đã có nhiều công trình nghiên cứu với nhiều hướng tiếp cận khác nhau như phê bình văn học, tiếp nhận văn học, nhiều khuynh hướng như phân tâm học, văn bản học, xã hội học, văn hóa học... Có thể kể đến: Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu, đầu những năm hai mươi của thế kỉ XX, phê bình: “Thơ Hồ Xuân Hương thật tinh quái, những câu thơ hay đọc lên đến ghê người” [3, tr.2]. Lê Hoài Nam viết về Hồ Xuân Hương trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, thời kì I (GS. Lê Chí Viễn chủ biên) nhấn mạnh rằng thơ Hồ Xuân Hương thể hiện một khía cạnh đầy cá tính, đó là ý thức về giá trị của mình. Ông cho rằng muốn nhận định về nội dung một tác phẩm nghệ thuật “trước hết phải căn cứ vào thái độ, mục đích của tác giả khi sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật, phải tìm bắt cho được cái nỗi niềm kín, cái rung động sâu xa mà người nghệ sĩ muốn thổ lộ với người đời” [19, tr.3-4]. Tìm hiểu về thơ Hồ Xuân Hương, tiêu biểu phải kể đến công trình nghiên cứu của Nguyễn Lộc: “Đối với phụ nữ, Xuân Hương không chỉ có cảm thương và bênh vực. Đặc biệt hơn nữa là nhà thơ còn hết sức đề cao và ca ngợi họ. Xuân Hương tìm thấy vẻ đẹp chân chính ở họ” [13, tr.176]. Hay trong bài Lời giới thiệu in trong tập Thơ Hồ Xuân Hương (1982), Nữ sĩ họ Hồ hiện lên trong bài viết như là hình tượng đại diện cho toàn thể người phụ nữ bị áp bức trong xã hội phong kiến Việt Nam. Vì vậy, đối với ông, những nội dung trữ tình trong thơ Hồ Xuân Hương cũng phản ánh nội dung tình cảm của những người phụ nữ bị áp bức. Trong bài phê bình Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Đỗ Đức Hiểu nhận định: “Thơ Nôm Hồ Xuân Hương rất thơ. Nó mang nhiều chất nổ của thời đại, thời đại kinh kỳ, phố Hiến, của trào lưu văn học nghệ thuật đòi giải phóng con người, ngợi ca tài năng, cái đẹp, nhất là của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương góp tiếng thơ đầy nhạc, biểu đạt sức sống và cái đẹp của cơ thể, của tấm thân và trái tim rất trẻ của người phụ nữ, trong định mệnh đầy cay đắng” [7]. Nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân đưa ra ý kiến của mình trong bài viết Tinh thần Phục Hưng trong thơ Hồ Xuân Hương như sau: “Trong số những tác gia lớn của văn học Việt Nam đương thời, Hồ Xuân Hương dân chủ nhất.” [1]. Ông cho rằng Hồ Xuân Hương khác với những nhà thơ cùng thời, bà có hướng đi riêng, điều đó tạo nên nét độc đáo trong sáng tác của bà. Tác phẩm Sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương (2008) của Lê Thu Yến đã đem đến cho người tiếp nhận văn học những khám phá mới mẻ về nội dung nghệ thuật của thơ Nôm Hồ Xuân Hương từ góc nhìn trần thế của con người. Có thể nói rằng, các công trình nghiên cứu khoa học trên ít nhiều đã đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra những lí giải khá sâu sắc, thú vị về một phương diện cụ thể trong thơ Hồ Xuân Hương. Xét về góc độ tìm hiểu tư tưởng nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hương, các bài viết trên mới chỉ đề cập đến hình tượng người phụ nữ đơn thuần, hay xem xét thơ Hồ Xuân Hương ở góc nhìn tính dục mà chưa có bài viết nào đi sâu tìm hiểu và phân tích cụ thể tư tưởng nữ quyền trong thơ bà. Để hiểu về tư tưởng nữ quyền trong thơ bà cần có cái nhìn đa chiều, toàn diện hơn về cả mặt nội dung và hình thức. Trên cơ sở đó, chúng tôi lựa chọn đề tài này, nhằm mục đích góp một cách nhìn, cách hiểu cụ thể về tư tưởng nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hương. Qua đó phần nào lý giải sức hấp dẫn đặc biệt của thơ Hồ Xuân Hương. 3. Mục đích nghiên cứu - Nắm vững kiến thức về lý thuyết phê bình nữ quyền. - Vận dụng lý thuyết phê bình nữ quyền vào tìm hiểu thơ Hồ Xuân Hương nhằm làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật các tác phẩm của bà. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm ra những phương diện thể hiện tư tưởng nữ quyền trong sáng tác của Hồ Xuân Hương. 5. Phương pháp nghiên cứu Về mặt phương pháp luận, trong quá trình thực hiện khóa luận này, chúng tôi vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống - Phương pháp so sánh - Phương pháp thống kê phân loại - Phương pháp thống kê mô tả Những phương pháp và thao tác trên sẽ được chúng tôi vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình nghiên cứu. 6. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 6.1. Đối tượng nghiên cứu Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung nghiên cứu tư tưởng nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hương. 6.2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận này có tên gọi Tư tưởng nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hương, chúng tôi chọn mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương để khảo sát. Chúng ta đều biết, cho đến nay sáng tác được coi là của Hồ Xuân Hương gồm hai bộ phận: thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán. Ở đây người viết chỉ tiếp cận những tác phẩm thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. 7. Đóng góp của khóa luận Trên cơ sở những khái niệm được xác lập, khóa luận đi sâu tìm hiểu sự biểu hiện tư tưởng nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hương, từ đó chỉ ra giá trị của tư tưởng nữ quyền trong việc biểu đạt quan niệm thẩm mỹ của nhà thơ. Với khóa luận này, chúng tôi hy vọng góp phần làm rõ những nét độc đáo trong tư tưởng nữ quyền của Hồ Xuân Hương nói riêng, đồng thời khẳng định sức mạnh và ưu thế của dòng văn học nữ Việt Nam nói chung. 8. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được cấu trúc theo 3 chương: - Chương 1: Khái quát về chủ nghĩa nữ quyền và phê bình nữ quyền - Chương 2: Những dấu hiệu biểu hiện tư tưởng nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hương - Chương 3: Phương thức thể hiện tư tưởng nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hương PHẦN NỘI DUNG Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN VÀ PHÊ BÌNH NỮ QUYỀN 1.1. Chủ nghĩa nữ quyền - nguồn gốc phát sinh và quá trình phát triển Lịch sử phát triển của loài người mở đầu bằng chế độ mẫu hệ. Sau khi tồn tại được một thời gian ngắn, chế độ mẫu hệ dần được thay thế bằng chế độ phụ hệ. Người đàn ông trở thành trụ cột của gia đình, có tiếng nói và có quyền quyết định tất cả mọi việc. Việc người đàn ông nắm mọi quyền hành trong tay đã đem đến nhiều lợi ích quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội nhưng đồng thời cũng đem đến sự thống trị hà khắc đối với cuộc sống người phụ nữ. Sự bất bình đẳng về giới ngày càng trở nên gay gắt vì nữ giới chịu áp bức về mọi mặt, về chính trị bị đè nén, về xã hội bị chèn ép nhấn chìm, về kinh tế thì cam chịu nghèo khổ, về văn hóa bị nam giới tước đoạt, đàn bà con gái ít được đi học, tư tưởng tình cảm rơi vào trạng thái mất tự chủ, ngay cả trong vấn đề hôn nhân - gia đình phụ nữ cũng không có quyền định đoạt. Trong xã hội cũ phụ nữ chỉ sống với bản năng của một người đàn bà là sinh con và chăm lo cho gia đình. Bản năng đó gắn liền với người phụ nữ một cách bất di bất dịch. Sự áp bức ngày càng nặng nề đã dẫn đến hàng loạt cuộc đấu tranh đòi bình đẳng giới giữa nam và nữ, nó diễn ra trong nhiều thời kì, ở nhiều quốc gia và cho đến nay những cuộc đấu tranh như vậy vẫn chưa kết thúc. Cuộc cách mạng tư sản Pháp thời cận đại, phong trào đấu tranh đòi quyền lợi của người phụ nữ phát triển rầm rộ với tên gọi là Chủ nghĩa nữ quyền (Feminies). Đến nay, nhu cầu đấu tranh và khẳng định vị trí của người phụ nữ diễn ra trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Người phụ nữ ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò của mình. Hiểu theo nghĩa từ nguyên “nữ quyền” là quyền lợi của người phụ nữ. Tư tưởng nữ quyền là tư tưởng về quyền lợi của người phụ nữ. Nói một cách khái quát, khái niệm nữ quyền chỉ quyền lợi về chính trị và xã hội của người phụ nữ, là các quyền lợi bình đẳng giới được khẳng định là dành cho phụ nữ và trẻ em gái trong nhiều xã hội trên thế giới. Tại một số nơi, những quyền này được định chế hóa hoặc hỗ trợ bởi luật pháp, phong tục và tập quán địa phương. Thông qua những hoạt động đấu tranh chính trị và xã hội, giới nữ đòi lại những lợi ích chính đáng của mình để đạt đến sự bình đẳng với nam giới. Ở phương Tây, nơi khai sinh ra phong trào nữ quyền, phụ nữ đặt mình trong thế đối lập với nam giới để đấu tranh giành quyền bình đẳng và dấy lên những hoạt động chính trị - xã hội mang tính nữ quyền thuần túy. Trong khi đó, ở phương Đông, đặc biệt là ở Trung Quốc và Việt Nam, phong trào nữ quyền gắn liền với phong trào cứu quốc và nữ giới sát cánh cùng nam giới có tư tưởng tiến bộ để vừa đấu tranh giải phóng dân tộc, vừa cởi trói cho giới của mình khỏi những ràng buộc cũ của xã hội. Chính vì vậy, trào lưu nữ quyền ở phương Đông không diễn ra một cách mạnh mẽ, độc lập và có tính đối kháng với nam giới quyết liệt như ở phương Tây. Đây không phải là cuộc đấu tranh của một giới phản kháng lại một giới mà là cuộc đấu tranh chung của một cộng đồng xã hội có tư tưởng cấp tiến về giới chống lại những hệ tư tưởng cổ hủ áp bức người phụ nữ. Đây là một khái niệm khá quen thuộc với con người thời hiện đại, có mức độ phổ biến rộng trong phạm vi xã hội. Tuy nhiên, với nội hàm và ngoại diện của nó, khái niệm này lại gây nên những phản ứng khác nhau. Do đặc thù lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội… vấn đề nữ quyền ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc lại khác nhau. Chủ nghĩa nữ quyền là một hiện tượng hết sức phức tạp, mang tính lịch sử, dân tộc. Nó bao gồm nhiều xu hướng và giai đoạn đấu tranh khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu chủ nghĩa nữ quyền thì quá trình phát triển của chủ nghĩa nữ quyền có thể được khái quát thành ba xu hướng tương ứng với ba làn sóng nữ quyền, đó là: Làn sóng nữ quyền thứ nhất (The First Wave of feminism) diễn ra vào cuối thế kỉ XIX. Ở giai đoạn này, phụ nữ đấu tranh chủ yếu đòi các quyền lợi như: đòi trả lương ngang bằng với nam giới, đòi tăng lương và giảm giờ làm, quyền được bầu cử, quyền được mở rộng ngành nghề đối với phụ nữ... Giai đoạn "tiên phong và nữ quyền nguyên sơ” với minh chứng về quyền của phụ nữ (1792) của Mary Wollstonecraft "tổ mẫu" của chủ nghĩa nữ quyền. Bà phản đối thẩm quyền xác lập nữ tính của các tác giả nam. Bà coi nhà văn nữ là người có lý trí đạo đức nhân hậu phản đề của thói ủy mị giả tạo. Luận điểm của Wollstonecraft là về bản chất của giới tính được kiến tạo như một lợi thế: viết và nghĩ không thể vượt khỏi thân xác và không thể loại phụ nữ ra khỏi vị trí xã hội. Tác phẩm "Một căn phòng cho riêng mình" (1929) của Virginia Woolf được coi như "sách vỡ lòng" của phê bình nữ quyền. Nhờ Woolf mà các tác giả nữ ngày nay có những khái niệm gợi mở về cách suy nghĩ lùi thông qua người mẹ về ý kiến của đàn bà và về tinh thần song giới (dung hoà cả hai giới tính) Làn sóng nữ quyền thứ hai (The Second Wave of feminism) diễn ra từ năm 1918 đến 1968 với tác giả tiêu biểu là Marie olympe de Gouge (1748 1793) người Pháp là tác giả của bản tuyên ngôn nhân quyền về giới nữ. Bà là người đầu tiên trên thế giới đòi quyền qiải phóng người da đen. Tác giả tiếp theo là Simone de Beauvoir (1908 -1986) với tác phẩm "Deuxièmesexe" (Giới nữ) (1949) được đáh giá là "bản tuyên ngôn nữ quyền". Cuốn sách là một công trình lý luận triết học về phụ nữ xuất phát từ quan điểm nam nữ bình quyền. Cuốn sách xoay quanh vấn đề: Phụ nữ bị kẹt trong tình trạng bị áp bức lâu dài qua sự loại bỏ mình nên trở thành giới ít quan trọng hơn (giới thứ hai) trong mối quan hệ với nam giới. Đây là công trình đặt nền móng cho việc nghiên cứu phụ nữ từ góc nhìn giới (gender). Nó đưa đến một phong trào đấu tranh chống lại những áp chế phi lý của nền văn hóa phụ quyền bấy lâu đối với phụ nữ. Theo Simone de Beauvoir, sự bất bình đẳng này không xuất phát từ nét khác biệt sinh học giữa cơ thể nam và nữ mà chính là do những nguyên tắc văn hóa, xã hội nam quyền buộc người phụ nữ rơi vào tình thế "tòng thuộc". Làn sóng nữ quyền thứ ba (The Third Wave of feminism) diễn ra từ thập niên 1990 đến nay. Đây là giai đoạn quan trọng hình thành và phát triển những vấn đề chủ yếu của chủ nghĩa nữ quyền. Tác giả tiêu biểu là Doris Lessing. Công trình có thể coi là vĩ đại nhất trong sự nghiệp văn học của bà là The Golden Notebook (Cuốn sổ tay vàng) xuất bản năm 1962. Tác phẩm được coi như tuyên ngôn của chủ nghĩa nữ quyền. 1.2. Phê bình nữ quyền Tư tưởng nữ quyền hay chủ nghĩa nữ quyền biểu hiện ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau, ở các mặt: chính trị, văn hóa, tư tưởng… Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, ý thức nữ quyền được biểu hiện trước hết ở phương diện phê bình văn học. Phê bình nữ quyền đã sớm được hình thành và phát triển thành một trào lưu có sức ảnh hưởng rộng rãi. Điều này làm cho thực tiễn lịch sử văn học buộc phải công nhận nó như một trường phái phê bình chính thống, có lý luận riêng, phương pháp riêng. Phê bình nữ quyền luận bắt đầu thịnh hành từ cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, một mặt, như một nỗ lực lý thuyết hoá các phong trào tranh đấu cho nữ quyền rầm rộ trong xã hội Tây phương lúc bấy giờ; mặt khác, như một bước phát triển mới những phát hiện táo bạo của hai nhà văn nữ nổi tiếng khá lâu trước đó: Virginia Woolf và Simone de Beauvoir. Trong cuốn Le deuxièmesexe, xuất bản lần đầu năm 1949, Beauvoir phê phán gay gắt nền văn hoá phụ hệ đã đẩy phụ nữ ra vị trí ngoài lề của xã hội cũng như của văn học nghệ thuật. Trong văn hoá ấy, nam giới đồng nghĩa với nhân loại, đồng nhất với lịch sử, còn phụ nữ thì bị nhìn như một “cái khác” (Other), lúc nào cũng ở vị thế phụ thuộc, phải dựa vào nam giới mới có thể tự định nghĩa được chính mình. Các nhà nữ quyền luận sau này xuất phát từ rất nhiều góc độ khác nhau, với những phương pháp luận có khi khác hẳn nhau, đều cùng chia sẻ một số niềm tin chung. Một, tất cả những cái gọi là chủ thể tính, bản ngã và bản sắc, bao gồm cả bản sắc của nữ giới - thường được gọi là nữ tính - không phải là những gì tất định và bất biến, hay nói như Beauvoir, “người ta không sinh ra là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ”. Hai, cơ chế tiêu biểu nhất trong việc đàn áp phụ nữ chính là nền văn hoá phụ quyền, hay thỉnh thoảng, với một số nhà nữ quyền, còn được gọi là nền văn hoá duy dương vật (phallocentric culture). Và ba, nhiệm vụ của các cây bút nữ không phải chỉ là chống lại mọi hình thức áp chế của nam giới mà còn phải cố gắng xác định một thứ mỹ học riêng của nữ giới, từ đó, thiết lập nên những điển phạm riêng, và cuối cùng, xây dựng những tiêu chí riêng trong việc cảm thụ và đánh giá các hiện tượng văn học. Nói đến những khác biệt giữa giới tính nam và nữ, người ta thường căn cứ trên năm yếu tố chính: sinh lý, kinh nghiệm, vô thức, các điều kiện kinh tế, xã hội và diễn ngôn. Ngày xưa (và hiện nay vẫn còn, ở một số nơi nào đó trên thế giới), người ta căn cứ chủ yếu vào yếu tố sinh lý để chứng minh phụ nữ là những “người đàn ông bất toàn” (imperfect men), là những kẻ không có gì cả, trừ... tử cung (tota mulier in utero / woman is nothing but a womb); sau, dưới ảnh hưởng của Freud, người ta xem phụ nữ là những kẻ không có cu và không lúc nào không bị day dứt bởi mặc cảm bị thiến (castration complex). Một số nhà nữ quyền luận muốn chứng minh ngược lại: chính nhờ một số đặc điểm riêng biệt về sinh lý, như việc có kinh, có thai, có sữa và sinh đẻ, người phụ nữ có quan hệ gần gũi và mật thiết với thế giới vật lý và với hiện thực nói chung hơn hẳn đàn ông. Những phân tích này dẫn một số nhà nữ quyền luận đến với phân tâm học: trong khi nam giới, khi chớm có ý thức, đã phải tách ra khỏi mẹ của mình để nhập vào thế giới phụ quyền của bố, phụ nữ, ngược lại, ở mãi với mẹ, xây dựng bản sắc của mình bên cạnh mẹ. Những chọn lựa ban đầu này hằn trong vô thức của hai giới những dấu ấn không dễ gì phai nhạt: nam giới hay nghĩ đến quyền, nữ giới hay nghĩ đến trách nhiệm; nam giới thích những sự thay đổi, nữ giới thích sự ổn định; nam giới thích thứ trật tự phân cấp (hierarchical orders), nữ giới thích sự hài hoà. Các nhà Mác-xít tìm cách giải thích những khác biệt và nhất là cách biệt giữa nam và nữ ở các điều kiện kinh tế và xã hội, từ hệ thống giáo dục đến cách phân công lao động và cách tổ chức gia đình, vốn có truyền thống nằm trong tay nam giới và ưu tiên dành hẳn cho nam giới. Năm 1968, trong cuốn Sex and Gender: On the Development of Masculinity and Femininity (Giống và giới tính: Về sự phát triển của nam tính và nữ tính), Robert Stoller phân biệt hai khái niệm giống (sex) và giới tính (gender): trong khi giống gắn liền với đặc điểm sinh lý, giới tính là yếu tố do văn hoá quy định, gồm toàn bộ những phản hồi được điều kiện hoá đối với cách nhìn của xã hội về tính cách của nam và nữ. Ðây là một trong những nền tảng tư tưởng của các nhà nữ quyền luận thuộc thế hệ thứ hai: trong khi những khác biệt về sinh lý là những điều không thể tránh khỏi, họ tập trung vào những sự bất bình đẳng xuất phát từ văn hoá, gắn liền với những phạm trù giới tính như “nam tính” (masculinity) và “nữ tính” (femininity). Từ cuối thập niên 1980, dưới ảnh hưởng của hậu cấu trúc luận và chủ nghĩa hậu hiện đại, các nhà nữ quyền thuộc thế hệ thứ ba cho vấn đề giới tính thực chất là vấn đề thể hiện (representation), một hệ thống biểu trưng hay hệ thống ý nghĩa nối liền các giống với những nội dung văn hoá tương ứng với những giá trị và đẳng cấp xã hội tương ứng. Theo Barbara Johnson, vấn đề giới tính thực chất là vấn đề ngôn ngữ; theo Dale Spender, cái ngôn ngữ chúng ta đang sử dụng hiện nay vốn là ngôn ngữ do nam giới tạo ra: bà gọi đó là “man-made language”; theo Judith Butler, cả giống lẫn giới tính đều có tính chất trình diễn (performance), sản phẩm của một ma trận tính dục dị giới (heterosexual matrix); và theo Hélène Cixous, khái niệm “Từ tâm luận” (logocentrism), vốn được xem là nền tảng của văn minh Tây phương, gắn liền chặt chẽ với chủ nghĩa duy dương vật (phallocentrism), ở đó, nam giới luôn luôn đóng vai trò thống trị. Trong lĩnh vực văn học, Annis Pratt cho phê bình nữ quyền luận nhắm đến bốn mục tiêu chính: một, cố gắng phát hiện và tái phát hiện các tác phẩm văn học của phụ nữ; hai, phân tích và đánh giá các khía cạnh hình thức văn bản của các tác phẩm ấy; ba, tìm hiểu xem những tác phẩm ấy đã phản ánh quan hệ nam nữ ra sao; và bốn, mô tả những sự phát triển của các yếu tố liên quan đến huyền thoại và tâm lý liên quan đến người phụ nữ trong văn học. Tuy nhiên, không phải ai cũng đồng ý với những mục tiêu này. Lillian S. Robinson lý luận là bốn mục tiêu ấy xác lập trên cơ sở bốn cách tiếp cận quen thuộc dựa trên: thư mục, văn bản, chu cảnh (hay xã hội học) và phê bình theo khuynh hướng cổ mẫu (archetypal criticism), và cả bốn đều là sản phẩm của nam giới. Bởi vậy, nhiệm vụ của các nhà phê bình nữ quyền luận là phải xa lánh thay vì đi theo các cách tiếp cận ấy. Elaine Showalter cổ xuý cho sự ra đời của cái bà gọi là “nữ phê bình gia” (gynocritics), bên cạnh loại phê bình nữ quyền (feminist critique) đã có, ở đó, phụ nữ chỉ tham dự với tư cách người đọc. “Nữ phê bình gia” có nhiệm vụ xác lập cái khung lý thuyết và mỹ học riêng để phân tích các tác phẩm văn học của phụ nữ, để phát triển những mô hình phê bình dựa trên kinh nghiệm riêng của phụ nữ hơn là chỉ tiếp nhận những mô hình và lý thuyết do nam giới dựng nên. Trên thực tế, tham vọng thoát ra ngoài các lý thuyết được xem là mang dấu ấn phụ quyền đã có không phải là điều dễ. Bản thân cách tiếp cận dựa trên văn bản của Showalter cũng chỉ là một sự thừa kế muộn màng của Phê bình mới vốn thịnh hành mấy thập niên trước đó mà thôi. Hầu hết các nhà phê bình nữ quyền luận khác đều nằm trong những cái khung quen thuộc khác: hoặc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan