Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những nét đặc sắc trong tác phẩm ăngđromac của raxin...

Tài liệu Những nét đặc sắc trong tác phẩm ăngđromac của raxin

.PDF
64
3030
82

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC LÒ THỊ NGỌC TRANG NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC TRONG TÁC PHẨM ĂNGĐROMAC CỦA J.RAXIN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC LÒ THỊ NGỌC TRANG NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC TRONG TÁC PHẨM ĂNGĐROMAC CỦA J.RAXIN Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Thúy SƠN LA, NĂM 2014 LỜI CẢM ƠN Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến: Thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc Thúy cô giáo đã tận tâm, hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành tốt khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong nhà trường, trong khoa Ngữ Văn, đặc biệt là các cô giáo trong tổ văn học nước ngoài - trường Đại học Tây Bắc đã cung cấp tài liệu, đóng góp ý kiến, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành khóa luận. Và cuối cùng em xin cảm ơn gia đình và các bạn trong tập thể lớp K51 Đại học sư phạm Ngữ Văn đã giúp đỡ em về mọi mặt trong suốt thời gian làm khóa luận. Sơn La, tháng 5 năm 2014 Sinh viên: Lò Thị Ngọc Trang MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 3 3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 5 4. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................. 6 5. Đóng góp mới của khóa luận .......................................................................... 7 6. Cấu trúc của khóa luận ................................................................................... 7 NỘI DUNG ....................................................................................................... 8 Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG .................................................................. 8 1.1. Chủ nghĩa cổ điển ........................................................................................ 8 1.1.1. Đặc trưng chủ nghĩa cổ điển ..................................................................... 8 1.1.2. Bi kịch cổ điển ........................................................................................ 11 1.2. Tác giả J.Raxin .......................................................................................... 17 1.2.1. Vài nét về tiểu sử .................................................................................... 17 1.2.2. Sự nghiệp sáng tác .................................................................................. 18 1.3. Tác phẩm Ăngđromac ................................................................................ 19 1.3.1. Hoàn cảnh sáng tác ................................................................................ 20 1.3.2. Tóm tắt tác phẩm .................................................................................... 20 Chƣơng 2. NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC TRONG TÁC PHẨM ĂNGĐROMAC CỦA J.RAXIN ................................................................................................ 23 2.1. Đề tài ......................................................................................................... 23 2.2. Kết cấu và thể loại ..................................................................................... 24 2.2.1. Kết cấu ................................................................................................... 24 2.2.2. Thể loại .................................................................................................. 29 2.3. Hành động kịch và xung đột kịch .............................................................. 30 2.3.1. Hành động kịch ...................................................................................... 30 2.3.2. Xung đột kịch ......................................................................................... 37 2.4. Nhân vật kịch ............................................................................................ 41 2.4.1. Nhân vật hiện thân cho dục vọng phi lý, ích kỉ ....................................... 42 2.4.2. Nhân vật hiện thân cho lòng chung thủy ................................................. 44 2.5. Ngôn ngữ................................................................................................... 50 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn học Pháp thế kỉ XVII phong phú và phức hợp, với nhiều khuynh hướng, nhiều sự kiện văn hóa lớn, đánh dấu sự phát triển bước ngoặt của thời đại. Văn học cổ điển phát triển rực rỡ từ năm 1600 đến 1685 dưới triều đại “vua mặt trời”, rất nhiều nhà văn đầy tài năng và biết bao tranh luận, các tổ chức văn học nghệ thuật đã ra đời từ đầu thế kỉ, phát huy chức năng của mình và xây dựng văn học của một thế kỉ được mệnh danh là “Đại thế kỉ”. Văn học cổ điển, được hiểu đơn giản như văn học hài hòa, văn học của lí trí, của trật tự kỉ cương được phong phú thêm bởi tinh thần Baroc, văn học thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo và sức sống dân tộc. Văn học cổ điển phát triển rực rỡ, đạt đến đỉnh cao của thế kỉ XVII là bởi có phần đóng góp không nhỏ của loại hình bi kịch cổ điển. Bi kịch cổ điển ra đời vào thế kỉ XVII là thời kì hưng thịnh trong lịch sử nước Pháp phong kiến. Đó là giai đoạn thống nhất quốc gia, mở rộng thương mại và xây dựng một số thể chế nhà nước theo quân chủ chuyên chế. Sự lãnh đạo của những triều vua kế vị, Lui thứ XIII và Lui thứ XIV đã xây dựng nền chuyên chính của chế độ quân chủ một cách vững chắc, ở đó có sự quân bình lực lượng giữa giai cấp đối lập, chính quyền quốc gia có tính độc lập nhất định với hai giai cấp, tư sản và phong kiến với bề ngoài tưởng như là kẻ trung gian. Dưới triều vua Lui thứ XIII, giáo chủ Risoho đã quan tâm đến việc xây dựng một nền văn học phù hợp với chế độ chuyên chế. Ông đã thành lập Viện Hàn lâm Pháp và tập hợp các văn nghệ sĩ thành một lực lượng sáng tác dưới sự chỉ đạo trực tiếp của triều đình. Các tác phẩm thời kì này thường đề cập đến những vấn đề liên quan đến vận mệnh dân tộc, vấn đề quyền lợi cá nhân và quyền lợi tổ quốc, sự khắc phục những dục vọng thấp kém vì những lý tưởng công dân cao cả. Chính vì lẽ, văn học phục vụ nền quân chủ chuyên chế nên các nhà nghiên cứu đã đề ra những quy tắc trong sáng tác. Và để có được những kiệt tác cho nhân loại, các nhà soạn kịch phải tuân thủ những quy tắc nghiêm ngặt của chủ nghĩa cổ điển, tạo nên thành công của một nền văn học đại thế kỉ. Thế giới hình tượng của văn học cổ điển Pháp ở thời kì này, đặc biệt là thể loại bi kịch cổ điển, chứa đựng những giá trị tư tưởng, nghệ thuật to lớn, nó khơi gợi sự kiếm tìm và vẻ đẹp nghệ thuật, thể hiện rõ nét lý tưởng sống của con người trong thời đại ấy, tạo nên một bức tranh chân thực, sống động về thời đại lý tưởng hóa. Đại diện tiêu biểu của bi kịch cổ điển là P.Cornay và J.Raxin. Nếu P.Cornay là người mở đầu vinh quang cho bi kịch cổ 1 điển Pháp, thì J.Raxin là người đưa bi kịch cổ điển Pháp trở thành một thể loại huy hoàng và mẫu mực của chủ nghĩa cổ điển Châu Âu. 1.2. J.Raxin là một thi sĩ yêu chuộng cổ văn và thiên chân. Ông được coi là nhà văn mẫu mực của chủ nghĩa cổ điển, ông lấy bi kịch làm phương tiện để khám phá, nghiên cứu sự nhiệt tình của con người. Khi sáng tác, J.Raxin biết chọn những tình huống hấp dẫn, lại khéo phô bày tâm lý nhân vật và diễn tả lịch sử bằng một lối văn uyển chuyển du dương nên văn phẩm của ông có một vẻ đẹp sáng lạn. J.Raxin bước đầu gặt hái thành công với vở kịch Người thành Thebes, Alexandre Đại đế bi kịch nảy sinh từ nguồn đề tài quen thuộc, văn học Cổ Hi Lạp, La Mã, với vở kịch này ông chưa thể hiện rõ phong cách riêng, còn chịu ảnh hưởng bởi bi kịch anh hùng và bi kịch phong nhã. Ông được mọi người biết đến với vở kịch Ăngđromac, lấy đề tài từ văn học cổ đại Hi Lạp, viết theo thể loại bi kịch của những đam mê, khát vọng. Dưới bộ áo của một truyền thống cổ điển, J.Raxin đã mang đến cho sân khấu tấn bi kịch về đời sống tâm lý nhân loại. Đó là bi kịch về một người phụ nữ góa chồng, bị ép phải lấy con của kẻ thù giết chồng, nhưng để đảm bảo tương lai cho đứa con bé bỏng của mình cô buộc phải chấp thuận, đồng thời còn là bi kịch về một cô gái đã hứa hôn nhưng bị khước từ nên cô đã trả thù kẻ nuốt lời hứa. Với sự sáng tạo tuyệt vời, mang đậm cá tính riêng biệt, nhưng vẫn tuân thủ các quy tắc của chủ nghĩa cổ điển, tác phẩm Ăngđromac đã thổi một làn gió mới cho nền văn học Pháp thể kỉ XVII. Bi kịch Ăngđromac, đã được J.Raxin trình diễn trước triều đình vào ngày 17 tháng 11 năm 1667, và ngay hôm sau lại công diễn rộng rãi tại điện Bourbons, các vai chính đều do các diễn viên có tên tuổi đóng. Vở kịch đã đặt J.Raxin lên bục vinh quang chói lọi của văn học Pháp cổ điển. Với sức lôi cuốn kì diệu, vở kịch không chỉ hấp dẫn khán giả lúc bấy giờ, mà nó còn làm xúc động biết bao trái tim của thế hệ bạn đọc. Chúng tôi đến với J.Raxin không chỉ vì vị trí và vai trò quan trọng của ông đối với nền văn học nước Pháp, mà còn là lòng ngưỡng mộ, cảm phục một thiên tài của lịch sử văn học nhân loại, đã đem đến cho những người yêu văn chương một sự trải nghiệm thú vị, được hiểu rõ hơn về kịch cổ điển qua cách xây dựng hình tượng nhân vật, kết cấu và xung đột kịch, từ đó thấy được các giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong tác phẩm của ông. 1.3. Kịch cổ điển, đặc biệt là những sáng tác của J.Raxin chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình văn học nước ngoài ở cao đẳng, đại học, ngày nay rất hấp dẫn đối với các thế hệ độc giả. Nhưng vì tài liệu nghiên cứu về kịch cổ điển, nhất là kịch của J.Raxin còn rất ít, chưa có sự đào sâu, tìm hiểu, nghiên 2 cứu kĩ lưỡng về những sáng tác của ông. Đó chính là động lực khiến cho người viết, tiếp bước cuộc hành trình văn học đến với vở kịch Ăngđromac qua đề tài “Những nét đặc sắc trong tác phẩm Ăngđromac của Raxin”. Đề tài này giúp tôi tìm hiểu được sự thành công của J.Raxin trong cách xây dựng nội dung và nghệ thuật bi kịch cổ điển, đồng thời giúp tôi bổ sung thêm kiến thức và sự am hiểu về sáng tác của nhà văn, qua đó góp phần nào cho việc tìm hiểu tác phẩm của J.Raxin trong chương trình cao đẳng, đại học sư phạm Ngữ Văn trường Đại học Tây Bắc. 2. Lịch sử vấn đề J.Raxin là một ngôi sao sáng của văn học Pháp thế kỉ XVII, ông được phong tặng làm viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp, một danh hiệu văn học cao quý. Không những thế, ông còn được vua Lui XIV tín nhiệm chọn làm thư ký riêng và cử làm sử quan của triều đình. Với những thành tựu to lớn trên văn đàn thế giới, J.Raxin cũng như các tác phẩm của ông đã thu hút đông đảo sự quan tâm của các nhà phê bình, nghiên cứu trong và ngoài nước. Các tác phẩm của J.Raxin đã được rất nhiều nhà thơ, nhà văn dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau như: Robert Lowell, Ted Hughes, Derek Mahon dịch sang tiếng Anh, Schiiller dịch sang tiếng Đức... có thể thấy J.Raxin chiếm một vị trí quan trọng đối với nền văn học nước Pháp cũng như các nền văn học cổ điển thế giới. J.Raxin được biết đến với tư cách là một thi sĩ mẫu mực của chủ nghĩa cổ điển, những quy tắc nghiêm ngặt của chủ nghĩa cổ điển được ông tuân thủ một cách chặt chẽ. Ông rất khéo léo trong việc kết hợp hài hòa các quy tắc cổ điển, chính điều này đã tạo nên thành công trong các tác phẩm của ông. Cuốn “Bi kịch cổ điển Pháp” của nhà xuất bản văn hóa Hà Nội 1978 đã nhận định “có thể xem Ra-xin là một nhà thi sĩ mẫu mực của chủ nghĩa cổ điển. Trong sáng tác, ông không bao giờ băn khoăn về các vấn đề thi học cơ bản của chủ nghĩa cổ điển và không bao giờ xa rời qui tắc cổ điển” [1, 100, 101], tuy tuân thủ theo những quy tắc của chủ nghĩa cổ điển, nhưng các sáng tác của ông luôn ẩn chứa sự mới mẻ, có tính riêng biệt tạo nên cá tính nghệ thuật J.Raxin. A.X.Puskin đã so sánh tài năng của J.Raxin với W.Secxpia một thiên tài của đất nước Anh, ông phát hiện ở họ đều có điểm chung là những nhà thơ, nhà soạn kịch vĩ đại của nhân loại “Can-đơ-rông, Sêc-xpia và Raxin đứng ở đỉnh cao không ai vươn tới, và những tác phẩm của họ là một đối tượng muôn thuở cho chúng ta nghiên cứu và ngưỡng mộ” [18, 331], A.X.Puskin còn nhận xét J.Raxin là “nhà thơ của những người đàn bà và những ông vua yêu đương” [1, 101], không ngẫu nhiên mà A.X.Puskin lại có nhận định về J.Raxin như vậy, điều này 3 lại chứng tỏ cho ta thấy rằng các tác phẩm của J.Raxin đều tập trung miêu tả thế giới cảm xúc. Những quan điểm, những nhận xét đánh giá về J.Raxin trong cuốn sách này đã giúp chúng ta hiểu rõ phần nào những quan điểm sáng tác của J.Raxin. Tác phẩm dẫn J.Raxin chạm đến bục vinh quang trong sự nghiệp sáng tác chính là tác phẩm Ăngđromac. Vở kịch Ăngđromac là một thành tựu lớn, đánh dấu bước ngoặt cuộc đời của J.Raxin, gây chấn động mạnh, khiến cho biết bao cuộc bút chiến sôi nổi diễn ra. Trước khi Ăngđromac nổi tiếng khắp thế giới, vở kịch đã làm mưa làm gió tại quê hương của mình, đất nước Pháp, đất nước hội tụ những tinh hoa, văn hóa đẹp. Xublinhi, tác giả vở kịch nhại Cuộc tranh luận phi lý, hay phê phán Ăngđromac đã nhận xét “từ người nấu ăn, người đánh xe ngựa, người giữ ngựa, người đầy tớ, cho đến người gánh nước, ai ai cũng cảm thấy mình phải bàn bạc về Ăng-đrô-ma-cơ” [18, 313]. Bất kể ai trên đất nước Pháp đều biết đến tác phẩm, điều đó có nghĩa vở kịch Ăngđromac có sức lan tỏa mạnh mẽ khiến cho mọi người đều phải ngưỡng mộ. Tác phẩm đã được dịch ở nhiều nước trên thế giới và bắt đầu giới thiệu ở Việt Nam từ trước cách mạng tháng Tám, những ngày đầu tiên của chiến tranh thế giới thứ hai dưới hình thức văn xuôi, rồi sau đó lại được dịch lại dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho đến nay, sau bao nhiêu thập kỉ, vở kịch vẫn có sức hút kì diệu đối với bạn đọc và đặc biệt được các nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch quan tâm đến. Ngày 14 tháng 2 năm 2011 tại nhà hát kịch Việt Nam đã đưa lên sân khấu nước ta vở kịch Ăngđromac của J.Raxin. J.Raxin rất khéo léo trong việc xây dựng cốt truyện của mỗi tác phẩm, ông lựa chọn những tình tiết truyện hấp dẫn, để người đọc dễ dàng hình dung câu chuyện đang diễn ra. Điều này được giới nghiên cứu minh chứng trong cuốn “Lịch sử sân khấu thế giới tập II” của Nhà xuất bản Văn hóa Hà Nội, “Trong vở kịch Ăng-đrô-ma-cơ, đã đặt cơ sở cho loại hình bi kịch tâm lý với cốt truyện rất đơn giản và sự giảm bớt đến mức tối thiểu hành động bên ngoài. Ra-xin xây dựng bi kịch này, mà người ta có thể gọi là bi kịch thuộc “phong cách thứ nhất” của ông, trên chất liệu thần thoại Hy Lạp, vốn hấp dẫn ông do chất thơ, tính người và âm hưởng đạo đức cao cả của nó ” [18, 311], sức sáng tạo của J.Raxin dường như là vô tận, ông luôn biết cách làm mới các tác phẩm của mình, tìm ra những điều độc đáo, mới mẻ để làm tăng thêm sức hấp dẫn của vở kịch. Bên cạnh những nghiên cứu, đánh giá của các nhà văn nước ngoài thì còn có một số nhận định của giới nghiên cứu Việt Nam về J.Raxin như ở cuốn “Văn học phƣơng Tây” đã nhận xét J.Raxin, “có nhiều cách nhìn nhận khác 4 nhau đối với bi kịch của Raxin, mặc dù tất cả đều không chối cãi thiên tài Raxin. Hiện tượng ấy dẫn đến sự chuyển dịch vị trí của Raxin qua các giai đoạn lịch sử, nhà nghệ sĩ có lúc được tôn thờ hết mức, có lúc bị xem như thứ đồ cổ trong các bảo tàng. Nghệ thuật của Raxin luôn luôn là chỗ dựa của nhiều trường phái nghệ thuật mới, nhất là các trường phái hiện đại của Phương Tây. Raxin do đó, rất cổ điển mà cũng rất hiện đại ” [4, 271]. Từ nhận xét trên chúng ta càng thấy vai trò, vị trí, ảnh hưởng, tầm quan trọng của J.Raxin như thế nào trong nền văn học nước Pháp. J.Raxin không chỉ thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu thế giới, mà còn có tầm ảnh hưởng lớn tới các nhà văn Việt Nam. Đặc biệt là đối với Nguyễn Huy Tưởng, ông đã viết trong nhật ký của mình “Tôi không hiểu làm sao, tôi cứ đến với Racine như đến với một người bạn thiết. Giữa tôi và nhà thi sĩ ấy đã có một cái dây liên lạc vô hình, nhưng mạnh mẽ hơn keo sơn. Nội trong các thi nhân trên thế giới, Racine đã chiếm hẳn linh hồn tôi. Và mỗi khi tôi giở một quyển Văn học sử của Pháp, là tôi bắt đầu xem về Racine đã. Tôi đã làm quen với Racine từ lâu, tôi đã từng hưng khởi vì vở kịch Athalie của ông. Tôi yêu cái êm đềm của ông, nhưng tôi phục cái tài tả tâm lý và dục vọng của ông. Những vở kịch của ông nó thâm trầm, diễm lệ, lời văn chải chuốt, tôi coi như những hạt ngọc trong văn đàn. Shakespeare thì tao động quá. Corneille thì khô khan (và viết theo lối ông này dễ hơn viết theo cách Racine). Tôi chỉ riêng yêu Racine và những thi sĩ Hi Lạp như Sophocle và Eschyle. Racine cũng thuộc về loại này. Cái giản dị trong sự kết cấu của ông, sự phức tạp về tính tình mà ông tả, văn chương bi đát lâm ly của ông đã khiến cho tôi coi ông như là mẫu mực để bắt chước. Ôi! những vở kịch hoàn toàn! Ôi! những áng văn chương kiệt tác! Ta có mong soạn được những vở bất hủ như thế không? Quan niệm về văn chương của tôi đã giống Racine, tính tình của tôi cũng gần giống ông nữa: cho nên sự tôi yêu mến tác giả vở Athalie không lấy gì làm lạ.” [24]. Chính những sáng tác của J.Raxin đã đặt nền móng cho biết bao tác phẩm bi kịch của Việt Nam và thế giới ra đời, góp phần tạo dựng thành công của thể loại kịch ngày nay. Như vậy, từ trước tới nay đã có một số công trình nghiên cứu về J.Raxin, nhưng mức độ, phạm vi còn hạn chế, chưa được tập trung nghiên cứu một cách cụ thể. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu trên sẽ là cơ sở, gợi ý quý báu để chúng tôi bước vào nghiên cứu vấn đề “Những nét đặc sắc trong tác phẩm Ăngđromac của Raxin ”. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Để giải quyết các vấn đề đặt ra trong khóa luận, chúng tôi sử dụng tổng 5 hợp những phương pháp sau: - Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại. Được sử dụng nhằm khảo sát và xử lý tư liệu một cách có hiệu quả, sắp xếp các chi tiết, hình ảnh, các nhận định đánh giá có liên quan đến nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, nhằm đảm bảo tính khoa học và logic cho khóa luận. - Phương pháp hệ thống: Đặt tác phẩm trong hệ thống các tác phẩm cổ điển và kịch cổ điển. - Phương pháp phân tích, chứng minh: Đây là phương pháp chủ yếu để phân tích, chứng minh được những nét đặc sắc trong tác phẩm Ăngđromac của J.Raxin. với phương pháp này chúng tôi nhận thấy giá trị của tác phẩm đóng vai trò, vị trí quan trọng góp phần tạo nên thành công của tác phẩm, và qua đó khẳng định tính đúng đắn của khóa luận. - Phương pháp so sánh đối chiếu: Để làm nổi bật những đặc điểm về nội dung và giá trị nghệ thuật của vở kịch Ăngđromac chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu với vở kịch Lơxit của P.Cornay, sử thi I-li-at của Hômerơ và nhiều tác phẩm khác cùng thời đại. - Phương pháp tổng hợp: Nhằm khái quát những vấn đề lí luận, khái quát tổng hợp thành những nhận định, kết luận tổng quát những nét đặc sắc trong tác phẩm Ăngđromac của J.Raxin. 4. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Ăngđromac của J.Raxin. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Khảo sát tác phẩm Ăngđromac trong Hợp tuyển văn học Châu Âu tập II, văn học Pháp thế kỉ XVII do Lê Nguyên Cẩn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội. 4.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận có nhiệm vụ làm sáng tỏ những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Ăngđromac của J.Raxin trên hai phương diện lớn sau: Khái 6 quát chung và những nét đặc sắc trong tác phẩm Ăngđromac của J.Raxin. 5. Đóng góp mới của khóa luận Trên cơ sở tiếp thu những tài liệu, các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước và qua khảo sát đánh giá của bản thân, khóa luận sẽ đi tìm hiểu, khám phá những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Ăngđromac của J.Raxin ở năm phương diện: Đề tài, kết cấu và thể loại, hành động kịch và xung đột, nhân vật, ngôn ngữ. Từ đó, khóa luật bước đầu khám phá được những nét độc đáo trong tư tưởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn. 6. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm hai chương: Chƣơng 1. Khái quát chung Chƣơng 2. Những nét đặc sắc trong tác phẩm Ăngđromac của Raxin 7 NỘI DUNG Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG 1.1. Chủ nghĩa cổ điển 1.1.1. Đặc trƣng chủ nghĩa cổ điển Chủ nghĩa cổ điển là khuynh hướng nghệ thuật được phát triển đến đỉnh cao ở châu Âu vào thế kỷ XVII với một phong cách nghệ thuật và lý thuyết mỹ học tuyệt vời, đã để lại dấu ấn vinh quang cho văn học Pháp. Chủ nghĩa cổ điển có một lịch sử rất lâu dài, trải qua suốt bốn thế kỷ, từ thế kỷ XVI đến những năm ba mươi của thế kỷ XIX. Trong suốt thời gian này nó đã có những chuyển biến đáng kể, trải qua một số giai đoạn phát triển, nó vừa bảo lưu những nguyên tắc cơ bản, vừa có những kiểu loại và những dạng thức mang tính dân tộc. Nhưng nhìn chung, chủ nghĩa cổ điển mang những đặc tính cơ bản, ổn định như: tinh thần duy lý, tính chất quy phạm hoá của sáng tác, xu hướng đạt tới những hình thức hài hoà toàn diện, tính hoành tráng, trong sáng, thanh nhã của phong cách, xu hướng đạt tới tính cân bằng của bố cục, đồng thời chủ nghĩa cổ điển cũng có những yếu tố sơ lược hoá, lý tưởng hoá trừu tượng. Chủ nghĩa cổ điển được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp: Chủ nghĩa cổ điển có nghĩa rộng: là những mẫu mực, đỉnh cao đã được thử thách qua thời gian. Còn nghĩa hẹp: Khái niệm chủ nghĩa cổ điển được ra đời vào thế kỷ XVIII, dùng để chỉ trào lưu văn hóa có uy tín nhất của văn học Pháp thế kỷ XVII. Khi đó nhà trường Pháp vì tinh thần dân tộc, muốn đưa vào chương trình giáo dục trong nhà trường những tác giả Pháp, dùng làm mẫu mực cho mọi người học tập, thay thế những tác giả của văn học cổ đại Hi Lạp, La Mã. Những nhà tư tưởng của phong trào ánh sáng đã nhận thấy các tác giả lớn của thế kỉ XVII có thể là khuôn mẫu trong nhà trường. Chính vì vậy văn học thế kỷ XVII được gọi là văn học cổ điển. Chủ nghĩa cổ điển được xác lập ở tất cả các loại hình nghệ thuật. Chủ đề căn bản của chủ nghĩa cổ điển là tương quan giữa cái chung và cái riêng vừa nổi bật ở cấp độ nội dung, nguyên tắc tạo hình thức, vừa là yêu cầu thẩm mĩ chủ đạo. Tính tất yếu của việc lệ thuộc vào cái chung được quan niệm là sự bộc lộ cái riêng thông qua mối quan hệ với cái chung. Trọng tâm chú ý là vấn đề tương tác giữa con người và xã hội. Quan điểm mĩ học chủ nghĩa cổ điển dựa vào triết 8 học chủ nghĩa duy lí của Đecac, với lí tưởng về tính sáng rõ và trật tự, sự sùng bái lí trí, không tin những cái bề ngoài, với việc đề cao nhiệm vụ nắm chắc phương pháp diễn dịch, ý niệm coi thế giới như một hệ thống. Tuy có nhiều chiều phức tạp nhưng là chỉnh thể toàn vẹn, được luận chứng bởi một nguyên tắc duy nhất. Nguyên tắc mĩ học căn bản của chủ nghĩa cổ điển là sự trung thành với tự nhiên, cái tự nhiên được lí trí tổ chức lại về mặt logic, cái tự nhiên có phẩm giá về mặt sáng tạo nhờ lí trí. Theo các lí thuyết gia của chủ nghĩa cổ điển, cái đẹp, sự cân xứng, các tỉ lệ, mức độ, sự hài hoà là một thuộc tính khách quan của thế giới cần phải được tái tạo trong nghệ thuật một cách hoàn thiện, theo mẫu mực thời cổ đại Hi Lạp và La Mã, đồng thời điều này cũng tiêu biểu cho thời đại mà cách nhìn còn mang tính siêu hình và cơ giới. Xu hướng quy phạm hoá của hệ thống nghệ thuật, chủ nghĩa cổ điển phản ánh khá rõ kinh nghiệm nghệ thuật của thời đại, giúp cho các nghệ sĩ nắm vững tay nghề, nhưng do muốn thể chế hoá sáng tạo, nên sự sáng tạo của các nghệ sĩ phải bó hẹp trong một khuôn khổ, chính điều này làm hạn chế cá tính của nghệ sĩ, ngăn cản sự phát triển của nghệ thuật. Chủ nghĩa cổ điển đề ra những nguyên tắc sau: 1.1.1.1. Tôn sùng lí trí Nguyên tắc tôn sùng lí trí chịu ảnh hưởng rõ rệt của triết học Đecac. Lí trí được các nhà văn cổ điển nâng niu, đề cao. Họ cho rằng lí trí quyết định mọi giá trị bởi duy nhất nó tạo ra mọi giá trị. Lí trí ở đây chính là lí trí tư sản, là lương tri thời đại. Nó phù hợp với yêu cầu của một dân tộc ở một thời kì đang chuyển mình, thoát dần ra khỏi những ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, cũng như sự kiểm soát gắt gao của nhà thờ Thiên chúa giáo. Nhờ có lí trí con người không bị thiên lệch, không bị những dục vọng, nhất là những dục vọng đen tối dẫn dắt. Tôn sùng lí trí cũng là đề cao đạo đức, đề cao vai trò của giáo dục của văn chương nghệ thuật, đề cao trách nhiệm của công dân của người nghệ sĩ. Nguyên tắc tôn sùng lí trí tạo điều kiện cho thể loại kịch phát triển mạnh mẽ, tới mức nói tới văn học cổ điển thể kỉ XXII là người ta nghĩ ngay đến những nhà viết kịch và những tác phẩm kịch. Kịch trường là nơi quy tụ những con người tài năng, những con người hào hoa, phong nhã. Nó là hình thức biểu cảm tốt nhất có giá trị thuyết phục phục vụ lợi ích chung của dân tộc, thời đại. Bi kịch đạt đến đỉnh cao với tên tuổi của P.Cornay và J. Raxin, còn hài kịch gắn liền với tên tuổi của Molie. Nguyên tắc tôn sùng lí trí dẫn đến việc xây dựng kiểu nhân vật lí trí trong văn học. Đây là những nhân vật tích cực thể hiện quan niệm của nhà văn về con người: tính cách khoan dung ôn hoà, thường xuất hiện như những trọng tài của 9 xã hội đóng vai trò cầm cân nảy mực, giải quyết những mâu thuẫn của những vấn đề xã hội. Nhân vật kiểu này thường đối lập với những nhân vật bị dục vọng lôi kéo. 1.1.1.2. Mô phỏng tự nhiên Bắt chước cái đẹp của tự nhiên trở thành mục tiêu duy nhất của văn chương nghệ thuật lúc bấy giờ. Văn học tập trung sự chú ý vào những vấn đề con người, nhất là khai thác mặt nội tâm. Tự nhiên không được hiểu là thiên nhiên, càng không phải là cái quy luật khách quan, mà đó là cái tự nhiên đã được nhận thức bởi lí tính sáng suốt, tâm lí sáng suốt, cái tự nhiên tâm lí, tâm hồn. Hơn thế nữa, tự nhiên ở đây lại khuôn vào cung đình, thành thị. Người ta quy định rất chặt chẽ đối tượng phản ánh, thể hiện của từng thể loại văn học: bi kịch chỉ nói đến những ông chúa, bà hoàng, hài kịch chỉ nói đến cuộc sống của người tư sản thành thị. Nguyên tắc mô phỏng tự nhiên khuyến khích nhà văn nghiên cứu vẻ đẹp trong đời sống tâm hồn, xây dựng những tính cách. Khi miêu tả tự nhiên này, các tác giả phải tuân theo tự nhiên trong những biểu hiện có tính chất chung nhất, phải mô tả con người trong những hoàn cảnh cụ thể, cá thể duy nhất của một khoảnh khắc hoặc một biến cố nhất định. Khi khai thác tâm lí, phản ánh nội tâm của con người, chủ nghĩa cổ điển xác định tính chất, đặc điểm, tâm lý ổn định các nhân vật như: hà tiện, học đòi... các tính chất này mang tính vĩnh cửu, muôn thuở thời đại nào cũng có. Cho nên người ta thường nói: nhân vật trong văn học cổ điển như là sự nhân hoá những khái niệm trừu tượng và như thế nó lại càng phù hợp với thể loại kịch bởi thể loại này tính ước lệ là cao nhất so với các thể loại khác. 1.1.1.3. Học tập cổ đại Cổ đại ở đây chính là những thành tựu văn hoá Hi La cổ đại. Cổ đại, cổ nhân thường gắn liền với tính vĩnh cửu, sự trường tồn tính mẫu mực. Chủ nghĩa cổ điển đề ra việc sử dụng tài liệu như là tư liệu cho sáng tác nghệ thuật và trước hết cho tư liệu của bi kịch, số phận của những con người vĩ đại thời cổ đại được các nhà viết sử và nhà thơ cổ điển vĩnh viễn hóa như là sự biểu hiện cho những dục vọng, cảm giác, tính cách toàn nhân loại, sự hiện thân cho những quy luật của lí trí. Đặc biệt vận dụng quy tắc “Tam duy nhất” của Aristôt Nó xuất hiện trong nghệ thuật thi ca của Aristôt, có hình thức quy phạm của hệ thống nghệ thuật sân khấu. Quy tắc đó cụ thể như sau: “tại một địa điểm, trong một ngày, một sự kiện duy nhất diễn ra”. Thứ nhất, duy nhất về hành động đòi hỏi chủ đề phải đơn giản, không được chứa đựng một tình tiết thừa nào, vì những tình tiết thừa sẽ làm cho người xem 10 đãng trí, quên mất biến cố chính của kịch. Vì thế tác giả cổ điển phải khai thác nhân vật kịch ở thời điểm xung đột, căng thẳng nhất đã phân tuyến đối lập được thua mất còn. Khi đó tính chất con người bộc lộ ở mức cao nhất. Thứ hai, duy nhất về thời gian: yêu cầu hành động phải diễn ra trong một thời gian ước lệ là hai mươi tư giờ. Do đó, phải bố cục vở kịch hợp lý trong khoảng thời gian biểu diễn ngắn ngủi, tất cả sự kiện làm nên hành động được gói gọn trong hai mươi tư tiếng như vậy mới tạo ra cảm tưởng như thật. Và cuối cùng, duy nhất về địa điểm: sự việc kịch từ khi xảy ra đến khi kết thúc chỉ diễn ra ở một nơi, ở một điểm duy nhất, không gian phải có tính công cộng, vì lí trí không thể thừa nhận trong vòng vài giờ, mà địa điểm có thể chuyển từ thành phố này sang thành phố khác, hay đất nước này sang đất nước khác. 1.1.1.4. Phân chia loại hình thành cao cấp và hạ đẳng Chủ nghĩa cổ điển thiết lập một hệ thứ bậc khắt khe cho các thể loại, gồm thể loại “thượng đẳng”, và các thể loại “hạ đẳng”. Thượng đẳng gồm bi kịch, sử thi, tụng ca, đối tượng miêu tả của chúng là bậc quân vương tướng lĩnh, các nhân vật thần thoại, các nhà tu hành. “hạ đẳng” là tiếng nói hóm hỉnh bao gồm: hài kịch, trào phúng, thơ ngụ ngôn, lĩnh vực miêu tả của chúng là đời sống thường nhật riêng tư của những con người ở giai tầng trung lưu và dân thường. Mỗi thể loại có những giới hạn nghiêm ngặt và những dấu hiệu hình thức rạch ròi, không được phép lẫn lộn cái cao cả với cái thấp hèn, cái bi với cái hài, cái anh hùng với cái thường nhật, bi hài kịch bị loại bỏ. 1.1.1.5. Đề ra phép lịch sự và yêu cầu thực hiện khiếu thẩm mĩ đứng đắn Chủ nghĩa cổ điển đề ra phép lịch sự và yêu cầu thực hiện khiếu thẩm mĩ đứng đắn. Nhân vật phải cư xử hấp dẫn, cao thượng, mẫu mực. Trên sân khấu không có những hành vi gây sốc cho khán giả, gây tác động xấu đến mĩ cảm của người xem. Các quy tắc được soạn thảo trở thành chính thống, hầu như mang tính chất pháp lệnh của nhà nước. Việc quy tắc hóa nghệ thuật đã gây trở ngại cho sự bay bổng sáng tạo của người nghệ sĩ, mang lại cho nó một kỉ luật bổ ích. Tuy nhiên nó góp phần định hướng nền văn học. Những quy tắc trên mang đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỉ XVII đã đánh dấu bước ngoặt cho sự phát triển của nền văn học nhân loại, tạo nên thành công rực rỡ của văn học Pháp một thế kỉ được coi là “Đại thế kỉ”. 1.1.2. Bi kịch cổ điển Bi kịch là một thể loại kịch thường được coi như là độc lập với hài kịch. 11 Trong thể loại bi kịch, mỗi xung đột không thể điều hòa được giữa cái thiện và cái thấp hèn... diễn ra trong tình huống cực kì căng thẳng mà nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi ánh sáng bằng cái chết bi thảm gây nên. Bi kịch có nội dung bi thương, thường kết thúc bằng sự thất bại, hoặc sự hy sinh của nhân vật chính diện. Nội dung phản ánh là sự xung đột giữa cái mới và cái cũ, giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cái thiệt và cái được trong xã hội, số phận của nhân vật chính diện đều kết thúc bi thảm, thường là bằng cái chết tạo nên cảm xúc ấn tượng, xót thương của khán giả. Cùng với sự phát triển của xã hội, tính chất của bi kịch cũng có nhiều biến đổi. Từ những bi kịch có tính chất là bi kịch gia đình, huyết thống, đã mở rộng phạm vi tới những vấn đề có ý nghĩa xã hội, đề cập đến số phận của con người trong bi kịch chung của đất nước, dân tộc và nhân loại. Ở Việt Nam, các tác phẩm bi kịch nổi tiếng của thế giới được giới thiệu và dàn dựng trên sân khấu như các vở kịch: Ôtenlô, Romeo và Juliet , Ăngđromac, Hamlet, Âm mưu và tình yêu... Rồi trong sân khấu tuồng, chèo, cải lương truyền thống cũng có các tác phẩm mang tính chất bi kịch như các tác phẩm: Quan âm thị kính, Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt... Bi kịch thường viết bằng thể thơ, đề tài thường được vay mượn từ thần thoại, truyền thuyết hoặc xoay quanh cuộc sống cung đình thành thị, điều này cho ta thấy thể loại bi kịch rất phong phú về đề tài khi xây dựng tác phẩm. Chủ nghĩa cổ điển nước Pháp vào thế kỉ XVII được hình thành và phát triển với sự góp mặt của nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, kịch cổ điển... Trong đó, thể loại đóng vai trò chủ đạo cho nền văn học thời kì này chính là bi kịch cổ điển. Bi kịch cổ điển phát triển mạnh và gặt hái được rất nhiều thành công, bằng chứng là sự xuất hiện dày đặc các tác phẩm bi kịch của những tác giả như P.Cornay, J.Raxin... Trong giai đoạn này, cũng có một số nhà soạn kịch quan tâm đến thể loại hài kịch nhưng việc thể hiện nó không thực sự thành công. Vượt qua biết bao khó khăn để tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc của chủ nghĩa cổ điển thì duy nhất chỉ có thể loại bi kịch cổ điển giành được vòng nguyệt quế để trở thành thể loại sáng tác chính của chủ nghĩa cổ điển. Bi kịch cổ điển ở giai đoạn này, không nhằm khám phá chân lý thực sự của cuộc sống mà mục đích chủ yếu của nó là mô tả những ý niệm của hình tượng bên ngoài thời gian và không gian. Bi kịch cổ điển có một khuynh hướng tâm lý rõ rệt, nó tập trung nghiên cứu những vấn đề của xã hội, về đạo đức, tư cách con người, đấu tranh giữa cao quý và thấp hèn, giữa lý trí và dục vọng, nguyên tắc quốc gia và quyền lợi cá nhân. Hành động và biến cố kịch xuất hiện rất ít, những biến cố kịch chỉ được nghe kể lại, chứ không được trình bày. Nếu như trong loại hình kịch ngày nay nhân vật kịch xuất hiện rất đông đảo để tạo thêm sức hấp dẫn 12 cho vở kịch. Thì trong bi kịch cổ điển, nhân vật lại xuất hiện rất ít, bởi lẽ kịch cổ điển bị giới hạn về thời gian chỉ trong vòng hai mươi tư giờ. Sân khấu bi kịch cổ điển, không trình bày những vai của quần chúng nhân dân, hay mô tả những xung đột của các lực lượng xã hội, mà thay vào đó là sự thắng lợi tinh thần của các bậc anh hùng, thắng lợi của lý trí trừu tượng, lý tưởng đối với dục vọng có tính cách bản năng và bẩm sinh. Đặc biệt là bi kịch cổ điển phải tuân thủ theo quy tắc ba luật duy nhất, được Boalô viết ngắn gọn, rõ ràng “tại một địa điểm, trong một ngày, một sự kiện duy nhất”. Từ xa xưa, vào những năm trước công nguyên, Aristôt qua thực tiễn kịch Hy Lạp cổ đại, đã có những tư tưởng đầu tiên về tính thống nhất của hành động kịch, đến tính thống nhất của thời gian xảy ra hành động, rồi sau đó cho ra đời quy tắc “Tam duy nhất” hay nói một cách cụ thể hơn đó là kịch phải diễn ra “ tại một địa điểm, trong một ngày, một sự kiện duy nhất diễn ra”. Đã có rất nhiều ý kiến nhận định về quy tắc “tam duy nhất” này. Saplen đã trình bày nguyên tắc hai mươi tư tiếng đồng hồ, thời gian xảy ra hành động kịch. Saplen đòi hỏi ở kịch phải có cốt truyện xây dựng trên một hành động, còn tất cả những tuyến khác thì đều phải gắn bó chặt chẽ với nhau và với hành động duy nhất. Cũng như Saplen, Đôbinhắc đặc biệt coi trọng tính chân thật, như cách bây giờ ta nói, mà lúc đó các lý luận gia gọi là sự tương tự sự thật. Sự tương tự sự thật buộc các sự kiện kịch, tóm lại là hành động kịch xảy ra ở một nơi chốn. Điều đáng nói là Đôbinhắc đã cụ thể hoá cái nơi chốn ấy. Ông cho rằng, nơi chốn có thể là một căn phòng, là một đường phố, là một quảng trường không lớn lắm hoặc là một nơi nào đó có kích thước vừa đủ để các nhân vật dễ nhận ra nhau. Về sự thống nhất hành động, hành động kịch có thể có một số sự kiện. Còn về sự thống nhất thời gian thì Đôbinhắc đòi hỏi thời gian của hành động kịch phải ăn khớp một cách tối đa với thời gian diễn kịch, giới hạn lớn nhất có thể cho phép là sự phát triển của hành động kịch diễn ra trong thời gian một ngày, nghĩa là ngót mười hai tiếng đồng hồ. Tiếp đó, người hoàn thiện những quy tắc của chủ nghĩa cổ điển không ai khác chính là Boalô, nhà lý luận trụ cột về học thuyết của chủ nghĩa cổ điển về kịch. Nghệ thuật thi ca của Boalô là tác phẩm tổng kết những nguyên lý, lý luận đã trở thành học thuyết của chủ nghĩa cổ điển, trải qua quá trình phát triển từ thế kỷ XVI. Nó là đỉnh điểm trong lịch sử phát triển của tư tưởng lý luận của chủ nghĩa cổ điển. Trước hết, Boalô đề cao nguyên tắc thống nhất hành động. Ông cho rằng, mọi sự kiện, mọi chi tiết kịch đều phải tuân theo sự thống nhất ấy. Về những 13 nguyên lý của sự thống nhất thời gian, nơi chốn xảy ra hành động kịch, tức là về luật tam nhất thì Boalô cũng có chung ý kiến với Saplen, Đôbinhắc. Nhưng ở Boalô còn có một sự thống nhất nữa mà người ta gọi là sự thống nhất thứ tư. Đó là sự thống nhất giọng điệu, mà ngày nay chúng ta thường gọi là sự thống nhất phong cách, thống nhất thể loại. Sự pha trộn thể loại bi kịch và hài kịch là điều mà chủ nghĩa cổ điển phản bác. “Sự lẫn lộn tiếng cười và nước mắt là kẻ thù muôn thuở mà bi kịch chẳng đội trời chung” (Baolô nghệ thuật thi ca). Và, cũng như Saplen và Đôbinhắc, sở dĩ Boalô đứng về luật tam nhất không phải là vì bản thân ba sự thống nhất ấy, mà vì một yêu cầu cao hơn của thi ca: tính chân thật mà lúc đó các ông lý giải là tương tự như sự thật. Luật tam nhất đương nhiên có vai trò và ý nghĩa lịch sử của nó. Song cũng thấy ngay sự hạn chế nếu như nguyên tắc thống nhất hành động là niêm luật hợp lý của kịch mà cho đến tận các thế kỷ sau, kịch nhân loại vẫn tuân thủ, thì hai nguyên tắc thống nhất thời gian, và thống nhất địa điểm đã bị nhiều người cho là giả tạo. Nhưng trên thực tiễn kịch, nó đã bị phá vỡ, với những tác giả kịch lớn, mà ta đã nêu trên. Tuy nhiên, phải nói rằng, luật tam nhất được được thể hiện trong các tác phẩm kịch của nhà viết kịch chủ nghĩa cổ điển thế kỷ XVII như P.Cornay, J.Raxin, Môlie là những niêm luật tạo nên tài năng, kỹ thuật, và cả tính kỷ luật cho các vĩ nhân để họ trau chuốt, mài sắc ngòi bút vào tính tập chung đến đông đặc của các hành động xung đột kịch, dục vọng nhân vật và của ngôn ngữ kịch. Trong những nguyên tắc về kịch của chủ nghĩa cổ điển còn một nguyên tắc nữa rất quan trọng là nguyên tắc cấu trúc. Nguyên tắc này cũng bắt nguồn từ yêu cầu về tính thống nhất, tập trung và hợp lý nội tại của hành động kịch. Theo Aristôt thì kịch phải cấu trúc sao cho có đầu có giữa và có cuối. Đầu là sự thắt nút, cuối là sự mở nút còn giữa là sự biến. Đó là cơ sở đầu tiên về tư tưởng cấu trúc kịch. Ngay từ thời cổ đại, đặc biệt là ở La Mã, người ta đã phát triển tư tưởng của Aristôt và các lý luận gia khác như Terensi, Gôrasi về cấu trúc kịch và cụ thể hoá nó ra là cấu trúc theo hồi. Đến thế kỷ XVI, các nhà lý luận của chủ nghĩa nhân đạo Ý đã tổng kết tư tưởng đó thành cấu trúc kịch năm hồi đó là: Hồi I: Giao đãi Hồi II: Thắt nút Hồi III: Cao trào Hồi IV: Tạm thời hoà hoãn Hồi V: Phinal (mở nút). 14 Tư tưởng về cấu trúc kịch năm hồi lại được các lý luận gia của chủ nghĩa cổ điển Pháp nêu lên với những kiến giải mới. Saplen trong ba ý kiến về kịch đã tán thành cấu trúc kịch năm hồi theo cung cách các tác gia La Mã thường làm. Ông còn chia hồi ra lớp và cụ thể hoá: mỗi hồi có bốn lớp thì ngắn mà bảy lớp thì dài. Hồi I: những yếu tố chính của cốt truyện phải được trình bày cho rõ ràng. Hồi II: bắt đầu rắc rối hoá cốt truyện. Hồi III: là hồi thắt nút hành động kịch cho chặt. Hồi IV: là sự trình bày tình thế đến chỗ tưởng như không có lối thoát. Hồi V: (Phinal) mở nút. Tiếp theo Saplen, Đôbinhắc tuyệt đối ủng hộ cấu trúc kịch năm hồi và còn nói thêm rằng, số lượng các sự kiện trong từng hồi nên tương đương nhau, duy ở hồi cuối nên dồn các sự kiện vào cho gấp rút. Đôbinhắc đặc biệt chú ý đến yếu tố thắt nút và mở nút trong kịch, nơi xảy ra những đột biến. Đến Boalô thì vấn đề cấu trúc luôn được nhấn mạnh ở yêu cầu cấu trúc theo tính thống nhất của hành động, nhưng bước quan trọng nhất là thắt nút và mở nút. Ông cũng lưu ý các tình tiết kịch phải cấu trúc sao cho có sự vận động gấp gáp từ đầu đến cao trào trước khi mở nút. Trước khi mở nút cần có sự chuẩn bị và theo chúng tôi thì bước chuẩn bị đó chính là rơi vào hồi IV là hồi mà nhiều nhà kịch học cho là sự tạm thời hoà hoãn để dẫn tới kết thúc tức mở nút. Boalô cũng đặc biệt nhấn mạnh sự mở nút bất ngờ. “Khán giả sẽ vô cùng thích thú Khi bất ngờ nút kịch bỗng mở tung Bao bí ẩn âm mưu, bao vướng mắc sai lầm Bao sự kiện bỗng đổi thay kinh ngạc.” (Baolô nghệ thuật thi ca) Những nguyên lý, lý luận về luật tam nhất, về cấu trúc kịch theo tinh thần của chủ nghĩa cổ điển ấy cũng được các nhà viết kịch lớn của thế kỷ XVII ở Pháp như P.Cornay, J.Raxin ủng hộ và thể hiện trong sáng tác của mình. P.Cornay đã dành ý kiến thứ ba để bàn về luật tam nhất. Ông cho rằng, phải tuân thủ sự thống nhất hành động một cách vô điều kiện. Ông còn cụ thể thêm rằng, ở hài kịch thì sự thống nhất hành động thể hiện ở sự thống nhất của tình tiết, của các trở ngại, mà nhân vật chính gặp phải. Còn ở bi kịch thì sự thống nhất hành 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan