ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
============================
GIANG HẢI YẾN
CÁC TỪ CHỈ VỊ TRÍ TRONG TIẾNG HÁN
SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
============================
GIANG HẢI YẾN
CÁC TỪ CHỈ VỊ TRÍ TRONG TIẾNG HÁN
SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT
NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS.
ĐINH VĂN ĐỨC
Hà Nội - 2010
MỤC LỤC
Mở đầu ……………………………………………………………....... 1
Chương I Những vấn đề lý luận về từ chỉ vị trí trong tiếng
Hán………………………………………………………... 6
1.1 Cương vị của từ chỉ vị trí trong hệ thống từ loại ……………….….. 6
1.1.1 Khái niệm của từ và từ loại ………………………………....... 6
1.1.2 Vị trí của các từ chỉ vị trí trong hệ thống từ loại tiếng Hán
hiện đại ……………………………………………………....... 7
1.2 Cách nhận diện các từ chỉ vị trí………………………………….…. 8
1.2.1 Một số quan điểm về từ chỉ vị trí……………………………... 8
1.2.2 Giải thích về định nghĩa từ chỉ vị trí………………………...... 14
1.3 Các tính chất của từ chỉ vị trí…………………………………….. 15
1.3.1 Tính chất chung của từ chỉ vị trí……………………………
15
1.3.2. Đặc trưng ngữ pháp, ngữ nghĩa của từ chỉ vị trí……………... 17
1.4 Mối quan hệ giữa từ chỉ vị trí với các nhóm từ liên quan
(ví dụ từ chỉ hướng, từ chỉ thời gian v.v...)………………………….
20
1.4.1 Khái niệm về từ chỉ hướng, từ chỉ thời gian………………….. 20
1.4.2 Mối quan hệ giữa từ chỉ vị trí với từ chỉ hướng và
từ chỉ thời gian………………………………………………....
22
Chương II Nhận xét các từ chỉ vị trí trong tiếng Hán hiện đại…….. 27
2.1 Mô tả……………………………………………………………….. 27
2.1.1 Thống kê danh sách các từ chỉ vị trí…………………………..
27
2.1.2 Đặc điểm ngữ nghĩa các từ chỉ vị trí………………………….. 31
2.1.3 Đặc điểm ngữ pháp của từ chỉ vị trí qua cách
suy nghĩ của người Trung Quốc……………………………….. 49
2.2 Bàn luận…………………………………………………………….
61
Chương III So sánh một số đặc điểm của từ chỉ vị trí
giữa tiếng Hán và tiếng Việt…………………………….
64
3.1 Mô tả……………………………………………………………….. 64
3.1.1 Những điểm gống nhau……………………………………….. 73
3.1.2 Những điểm khác nhau……………………………………….. 76
3.2. Bàn luận……………………………………………………………
79
Kết luận………………………………………………………………... 81
Tài liệu tham khảo………………………………………………………
Phụ lục 1 Bảng đối chiếu các từ chỉ vị trí trong tiếng Hán
với các từ tương đương trong tiếng Việt ……………………..
Phụ lục 2 Những thành ngữ thục ngữ thường dùng có chứa
các từ chỉ vị trí trong tiếng Hán hiện đại……………………..
Phụ lục 3 Nguồn ngữ liệu phục vụ mô tả……………………………….
MỞ
ĐẦU
0.1 Lý do chọn đề tài
Các từ chỉ vị trí trong hệ thống từ loại tiếng Hán hiện đại tuy số lượng
không nhiều nhưng chúng có vai trò rất quan trọng trong ngữ pháp và ngữ
nghĩa. Từ chỉ vị trí trong hệ thống tiếng Hán hiện đại không những có thể
biểu thị quan hệ định vị thời gian, không gian, mà còn có thể biểu thị nhiều
ý nghĩa khác, ví dụ biểu thị phạm trù, giới hạn v.v... Chẳng hạn, 三天前
(tam thiên tiền) ba ngày trước, 桌子上(trác tử thượng) trên bàn biểu thị
nghĩa định vị thời gian, không gian, còn 学生中(học sinh trung) trong số
sinh viên, 三天以内(tam thiên dĩ nội) trong vòng ba ngày thì biểu thị
phạm trù và giới hạn.
Văn hóa Trung Quốc và Việt Nam có nhiều nết tương đồng, đó cũng
dẫn đến cách diễn đạt người Hán và người Việt về cơ bản là giống nhau.
Cũng như các từ chỉ vị trí trong tiếng Hán thường cũng có thể tìm được các
từ tương đương trong tiếng Việt. Nhưng do thuộc hai loại văn hóa khác
nhau, cách suy nghĩ cũng khác nhau, cho nên các từ chỉ vị trí tuy phần lớn
là tương đồng, nhưng vẫn có một số khác biệt. Nhằm phân biệt những điểm
khác nhau về các từ chỉ vị trí giữa tiếng Hán và tiếng Việt, chúng tôi xuất
phát từ góc độ ngữ nghĩa, ngữ pháp, mô tả đặc điểm của các từ chỉ vị trí
trong tiếng Hán cũng như trong tiếng Việt, qua đó, đưa ra những điểm khác
nhau giữa tiếng Hán và tiếng Việt. Hiện nay, bất cứ ở Trung Quốc hay ở
Việt Nam đều có nhiều người đang học tiếng Việt hoặc tiếng Hán, trong
quá trình học tập, thường có nhiều cách hiểu không đúng nghĩa hoặc
chuyển dịch sai các từ chỉ vị trí, ví dụ khi từ tiếng Hán sang tiếng Việt, các
từ 学习上(học tập thượng) về học tập, 基本上(cơ bản thượng) về cơ bản,
三十左右(tam thập tả hữu) trên dưới 30 / khoảng 30 thì hay chuyển dịch
sai là trên học tập, trên cơ bản, phải trái 30. Và khi từ tiếng Việt sang tiếng
-1-
Hán những từ không biết phải trái, mặt trái thì dễ chuyển dịch sai là 不知
左右(bất tri tả hữu), 左面(tả diện). Cho nên việc tìm ra những điểm khác
biệt về ngữ nghĩa, ngữ pháp (chủ yếu về ngữ nghĩa) của các từ chỉ vị trí
giữa tiếng Hán và tiếng Việt sẽ có thể giúp ích cho việc dạy và học tiếng
Hán hoặc tiếng Việt. Đây chính là lý do chọn đề tài Các từ chỉ vị trí trong
tiếng Hán so sánh với tiếng Việt.
0.2 Mục đích của đề tài
Mục đích nghiên cứu luận văn là khảo sát đặc điểm ngữ pháp, ngữ
nghĩa của các từ chỉ vị trí trong tiếng Hán và qua mô tả những đặc điểm
của từ chỉ vị trí trong tiếng Hán và tiếng Việt, so sánh những đặc điểm
tương đồng và khác biệt giữa tiếng Hán và tiếng Việt.
Luận văn này sẽ thực hiện một số vấn đề sau:
-Tổng kết lại những đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa của các từ chỉ vị trí
trong tiếng Hán.
-Tìm hiểu một số đặc điểm của các từ chỉ vị trí tương ứng trong tiếng
Việt.
- So sánh một số đặc điểm của từ chỉ vị trí giữa tiếng Hán và tiếng
Việt, và rút ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa tiếng Hán và
tiếng Việt.
Qua mô tả và so sánh, đưa ra những điểm giống nhau và khác nhau, để
giúp ích cho việc học và dạy tiếng Hán hoặc tiếng Việt, nhất là về các điểm
khác biệt giữa hai thứ tiếng. Ở phần phụ lục luận văn, chúng tôi sẽ thống kê
lại một số thành ngữ, tục ngữ thường dùng, trong đó có gạch chân các từ
chỉ vị trí để làm tài liệu tham khảo.
0.3 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận văn này là:
- Mô tả các từ chỉ vị trí trong hệ thống từ loại tiếng Hán hiện đại và
đặc điểm của các từ chỉ vị trí trên bình diện ngữ nghĩa, ngữ pháp.
-2-
- Nhận diện các biểu hiện từ vựng, ngữ pháp tương đương trong tiếng
Việt. Mô tả đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của các biểu đạt này, qua sự mô
tả, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các từ chỉ vị trí trong
tiếng Hán và các biểu đạt tượng đương trong tiếng Việt.
0.4 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các đơn vị từ vựng chỉ vị trí
trong tiếng Hán và các từ tương đương trong tiếng Việt. Dựa trên đặc điểm
ngữ nghĩa, ngữ pháp của các từ chỉ vị trí trong tiếng Hán để nhận diện
những điểm giống nhau và khác nhau về các biểu hiện từ vựng, ngữ pháp
giữa các từ này và các từ tương đương trong tiếng Việt. Luận văn sẽ thông
qua những ngữ liệu trong tác phẩm văn học, từ đó có thể so sánh đối chiếu
các từ chỉ vị trí trong tiếng Hán và tiếng Việt bằng những ví dụ sinh động,
thực tế và mang tính thuyết phục.
0.5 Phƣơng pháp tiếp cận
Phƣơng pháp thống kê: luận văn thống kê các đơn vị từ vựng chỉ vị
chí trong tiếng Hán thông qua Từ điển Hán ngữ hiện đại. Bằng phương
pháp này, luận văn hướng tới tìm hiểu dung lượng các đơn vị từ vựng chỉ vị
trí trong tiếng Hán
Phƣơng pháp miêu tả: đây là phương pháp giúp luận luận văn đạt
được mục tiêu chính là miêu tả các đơn vị từ vựng chỉ vị chí trong tiếng
Hán. Trong quá trình miêu tả, luận văn cố gắng đi vào nhóm từ chỉ vị trí
trong tiếng Hán với những đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa.
Phƣơng pháp phân tích: luận văn áp dụng phương pháp này cùng
với phƣơng pháp đối chiếu để tìm ra sự đồng nhất và khác biệt giữa các
đơn vị từ vựng chỉ vị trí trong tiếng Hán và tiếng Việt. Trên cơ sở này, tìm
hiểu sự khác biệt về đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa của cac từ chỉ vị trí
trong tiếng Hán và tiếng Việt. Từ đó có thể áp dụng phƣơng pháp quy nạp
rút ra những điểm giống nhau và khác nhau.
-3-
Phƣơng pháp nghiên cứu dựa trên từ điển và các nguồn ngữ liệu:
Trong luận văn những từ chuyển dịch đều theo các từ điển như sau:
-Từ điển tiếng Hán hiện đại, nhà xuất bản Thương Vụ, 1990
-Từ điển Việt Hán hiện đại, Hoàng Long, Dương Vĩnh Thiện, NXB
Văn hóa thông tin, 1999
-Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 2000
-Từ điển Hán Việt, NXB Thương Vụ, 1994
Các nguồn ngữ liệu được sử dùng trong luận văn sẽ liệt trong phần
phục lục.
0.6 Tƣ liệu nghiên cứu
Nguồn tư liệu nghiên cứu của luận văn là:
- Các chuyên luận về từ chỉ vị trí trong tiếng Hán và tiếng Việt. Qua
những chuyên luận này, chúng tôi tìm hiểu các đặc điểm của từ chỉ vị trí
trong tiếng Hán và so sánh với những đặc điểm của các từ tương đương
trong tiếng Việt.
- Các tác phẩm văn học tiếng Hán và tiếng Việt phục vụ cho việc mô
tả các đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của các từ chỉ vị trí trong tiếng Hán và
các từ tương đương trong tiếng Việt。
0.7 Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo theo quy
định, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng I Những vấn đề lý luận về từ chỉ vị trí trong tiếng Hán.
Trong chương này, chủ yếu mô tả khái niệm của các từ chỉ vị trí trong
bối cảnh hệ thống từ loại tiếng Hán hiện đại, đưa ra một số quan điểm về
khái niệm từ chỉ vị trí khác nhau mà có tính tiêu biểu. Qua mô tả trong
chương này để làm nền móng cho các chương 2, 3 sau.
Chƣơng II. Nhận xét các từ chỉ vị trí trong tiếng Hán hiện đại.
Trong chương này, chủ yếu mô tả về đặc điểm ngữ nghĩa của các từ
-4-
chỉ vị trí trong tiếng Hán (gồm nghĩa cơ bản, nghĩa phái sinh), và ngữ pháp
của các từ chỉ vị trí trong tiếng Hán theo khả năng kết hợp và chức vụ cú
pháp của chúng.
Chƣơng III. So sánh một số đặc điểm của từ chỉ vị trí giữa tiếng
Hán và tiếng Việt
Trong chương này, qua phân tích những đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ
pháp của các từ tương đương trong tiếng Việt, chủ yếu so sánh đối chiếu về
một số điểm giống nhau và khác biệt giữa hai ngôn ngữ tiếng Hán và tiếng
Việt.
-5-
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỪ CHỈ VỊ TRÍ
TRONG TIẾNG HÁN
1.1 Cƣơng vị của từ chỉ vị trí trong hệ thống từ loại
1.1.1 Khái niệm của từ và từ loại
Trong Ngôn ngữ học, từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có ý nghĩa
và có thể sử dụng độc lập, ví dụ 工人(công nhân) là một từ, bởi vì
trước hết, nó có ý nghĩa, nó có thể sử dụng độc lập và cũng có thể độc
lập trả lời câu hỏi. Ví dụ:
(1) 问:他哥哥是干什么的?
答:工人。
(A: Anh trai anh ấy làm nghề gì?
B: Công nhân.)
Thứ hai, nó là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có thể sử dụng độc lập,
ví dụ nếu chúng tôi chia nhỏ hơn nữa thì từ 工人 có thể chia thành 工
và 人, không những nghĩa không hoàn toàn giống với 工人, mà khi 工
làm danh từ thì thường nó không thể sử dụng độc lập. Ví dụ, từ 的 cũng
là một từ. Nó biểu thị ý nghĩa ngữ pháp nhất định và có thể độc lập đặt
vào trong câu mà không cần kết hợp với các thành phần ngôn ngữ đặc
biệt nào đó. Ví dụ:
(2) 我的家在云南。
(Quê (của) tôi ở Vân Nam.)
Ngoài ra, nó tất nhiên cũng là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa. Mà ở đây
chúng tôi hãy xem từ 民(dân) trong từ 人民(nhân dân) thì không phải
là một từ rồi, bởi vì nó không thể độc lập đặc vào trong câu được, phải
kết hợp với các từ tố 人(nhân), 公(công), 居(cư) để hợp thành 人民
-6-
(nhân dân), 公民(công dân), 居民(cư dân-dân cư) mới có thể đặt vào
câu đươc. Ví dụ:
(3) 全国人民团结起来。
(Nhân dân cả nước đoàn kết lại.)
Trong những lời nói hàng ngày của chúng ta, từ là những vật liệu
không thể thiếu để ―xây dựng‖ câu, những lời nói của chúng ta đều do
chúng tạo ra.
Tuy từ là thành phần cấu tạo câu, nhưng không phải tất cả những từ
trong câu đều đóng vai trò như nhau. Những từ khác nhau cũng có chức
năng tạo câu khác nhau, cho nên chúng ta phải phân loại vốn từ theo chức
năng của chúng. Từ loại chính là những lớp từ có bản chất ngữ pháp
chung, được phân chia theo ý nghĩa, theo khả năng kết hợp với các từ ngữ
khác trong ngữ lưu và thực hiện những chức năng ngữ pháp nhất định ở
trong câu. Hệ thống từ loại có tính chất là cơ sở của cơ cấu ngữ pháp một
ngôn ngữ nhất định. Về vấn đề tiêu chuẩn phân loại vốn từ , các nhà ngữ
pháp thông thường xắc định tiêu chuẩn phân định theo ý nghĩa, chức năng
và hình thái của từ.
1.1.2 Vị trí của các từ chỉ vị trí trong hệ thống từ loại tiếng Hán
hiện đại
Do tiếng Hán thiếu tiêu chí hình thái, cho nên việc phân loại vốn từ
tiếng Hán theo hình thái rất khó. Nếu chỉ dựa vào ý nghĩa của từ để phân
loại cũng rất khó, nhiều từ có ý nghĩa như nhau, nhưng từ loại lại khác
nhau. Cho nên phân loại từ loại tiếng Hán chỉ có thể theo tiêu chí chức
năng ngữ pháp.
Đại thể có thể phân loại từ loại tiếng Hán hiện đại thành 12 loại. Trong
đó gồm hai loại lớn thực từ và hư từ. Thực từ có ý nghĩa thực, có vị trí tự
do trong câu, có thể từ làm đoản ngữ hoặc làm thành phần câu, cũng có thể
từ làm thành câu. Hư từ không có ý nghĩa thực, có vị trí cố định trong câu,
-7-
không làm đoản ngữ hoặc thành phần câu, vai trò cơ bản của hư từ chủ yếu
là biểu hiện quan hệ ngữ pháp. Trong danh từ lại gồm các từ chỉ thời gian,
từ phương vị (từ chỉ hướng và từ chỉ vị trí), từ chỉ địa điểm v.v...
Theo cách phân loại trên, từ loại tiếng Hán hiện đại có thể cụ thể phân
loại như sau 1:
Bảng 1: Cách phân loại của từ loại tiếng Hán
Hư từ
Thực từ
tượng
danh
động
tính
số
lượng
đại
phó
giới
liên
trợ
thán
từ
từ
từ
từ
từ
từ
từ
từ
từ
từ
từ
thanh
từ
Trong đó, về vấn đề phân định phó từ còn nhiều ý kiến khác nhau, có
một số nhà ngôn ngữ học cho rằng phó từ nên thuộc phạm trù hư từ, bởi vì
ngoài mấy từ đặc biệt như 也许(dã hứa), 可能(khả năng)…có lẽ, có thể…
có thể tự làm đoản ngữ hoặc tự làm một câu độc lập, những phó từ khác
đều không có chức năng này. Về từ loại của các từ chỉ vị trí, hiện nay cũng
vẫn đang có nhiều ý kiến khác nhau, đa số cho rằng các từ chỉ vị trí thuộc
từ loại danh từ, nhưng cũng có một số người cho rằng là giới từ. Theo quan
điểm luận văn này, các từ chỉ vị trí thuộc từ loại danh từ.
1.2 Cách nhận diện các từ chỉ vị trí
1.2.1 Một số quan điểm về từ chỉ vị trí
Trong tiếng Hán thường gọi chung từ chỉ hướng và từ chỉ vị trí là
phương vị từ. Từ chỉ hướng gồm: 东 đông, 西 tây, 南 nam, 北 bắc, từ chỉ
vị trí gồm có: 上(thượng) trên, 下(hạ) dưới, 前(tiền) trước, 后(hậu) sau,
左(tả) trái, 右(hữu) phải, 里(lí) trong, 外(ngoại) ngoài, 中(trung) trong,
内(nội) trong, 间(gian) giữa, 旁(bàng) bên cạnh. Trong tiếng Hán các từ
1
. Theo quan điểm cuốn sách Ngữ pháp tiếng Hán thực hành hiện đại do nhà xuất bản Thương Vụ Trung Quốc xuất
bản, năm 2007.
-8-
chỉ hướng cũng có thể chỉ vị trí, vai trò khác nhau được thể hiện bằng giới
từ khác nhau, cho nên thường gọi chung là phương vị từ, ví dụ: từ 南边
(nam biên) phía nam trong hai câu 他往南边走/ 他住在南边 (Anh ấy đi
về phía nam / Anh ấy ở phía nam) vừa là từ chỉ hướng vừa là từ chỉ vị trí.
Cho nên, trong tiếng Hán hiện đại không tách ra hai loại từ chỉ phương
hướng và vị trí thành hai loại từ riêng mà gọi chung là phương vị từ.
Trong tiếng Hán hiện đại có nhiều quan điểm về khái niệm phương vị
từ, nhưng trong những quan điểm khác nhau này, có một điều là như nhau,
đó chính là về khái niệm và phạm trù của các từ chỉ phương hướng, cho
nên về những quan điểm này chủ yếu khác về các từ chỉ vị trí. Ở đây chúng
tôi hãy nêu ra mấy quan điểm mang tính tiêu biểu như sau:
- Quan điểm trong cuốn sách Ngữ pháp khẩu ngữ tiếng Hán của tác
giả Triệu Nguyên Nhiệm đã giải thích phương vị từ như sau:
方位词或者是一个语素,如―上‖,或者是一个语素组合,如―上头‖,
跟它前头的从属于它的体词合起来构成一个处所词,如―桌子上‖,或
者一个时间词,如―晚上‖ 2。
(Phương vị từ có thể là một từ tố như 上(thượng) trên, có thể là một
tổ hợp từ tố như 上头(thượng đầu)trên, có thể kết hợp với thể từ đứng
trước nó mà lại phụ thuộc nó làm một từ chỉ nơi chốn, ví dụ ―桌子上‖(trác
tử thượng) trên bàn, và cũng có thể là một từ chỉ thời gian như ―晚上‖(vãn
thượng) buổi tối, ban đêm.)
Trong cuốn sách này, tác giả đã đưa ra 14 từ chỉ vị trí đơn: 上(thượng)
trên, 下(hạ) dưới, 前(tiền) trước, 先(tiên) trước, 后(hậu) sau, 内(nội)
trong, 里(lí) trong, 外(ngoại) ngoài, 左(tả) trái, 右(hữu) phải, 旁(bàng)
bên cạnh, 中(trung) trong, 间(gian) giữa, 这儿(giá nhi) đây, 那儿(ná nhi)
đó. Theo tác giả, những từ đã được nêu ra là từ chỉ vị trí đồng thời cũng là
từ chỉ nơi chốn.
2
Khái niệm của phương vị từ trong cuốn Ngữ pháp khẩu ngữ tiếng Hán, năm 1979.
-9-
- Trong Tám trăm từ tiếng Hán hiện đại, tác giả Lữ Thúc Tương đã
coi phương vị từ là một loại danh từ và mô tả phương vị từ như sau:
方位词有单音的,有双音的。双音的方位词可以加在别的词(主
要是名词)或短语后边,组成方位短语,也可以作为一个词单独用(除
少数例外)。单音的方位词主要加在名词或别的词后边,一般不单用。
Phương vị từ có hai loại đơn âm tiết và song âm tiết. Từ song âm tiết
có thể đứng sau các từ khác (chủ yếu là danh từ) và đoản ngữ, kết hợp
thành đoản ngữ phương vị, cũng có thể sử dụng độc lập như một từ (trừ
một số trường hợp ngoại lệ). Từ đơn âm tiết chủ yếu đứng sau danh từ và
các loại từ khác, thông thường không sử dụng độc lập.
Theo tác giả, các từ chỉ vị trí đơn có 上(thượng) trên, 下(hạ) dưới, 前
(tiền) trước, 后(hậu) sau, 里(lí) trong, 内(nội) trong, 中(trung) trong, 外
(ngoại) ngoài, 旁(bàng) bên cạnh, 左(tả) trái, 右(hữu) phải. Các từ chỉ vị
trí kép chủ yếu là các từ đơn kết hợp với tiền tố 之(chi), 以(dĩ) và hậu tố
边(biên), 面(diện), 头(đầu), ngoài ra, còn có trường hợp ngoại lệ 面前
(diện tiền) trước mặt, 跟前(cân tiền) bên cạnh, 头里(đầu lí) trước, 背后
(bối hậu) phía sau, 底下(để hạ) dưới, 中间(trung gian) giữa, 当中(đang
trung) giữa, 内中(nội trung) bên trong, 旁边(bàng biên) bên cạnh.
- Quan điểm trong cuốn Giáo trình ngữ pháp của tác giả Chu Đức Hy
đã định nghĩa các từ chỉ vị trí như sau:
方位词可以分成单纯方位词和合成方位词两类。单纯方位词包括
―上、下、前、后、里、外、内、中、左、右、间、旁、东、西、南、
北‖。
单纯方位词加上前缀―之‖、―以‖或―边(儿)、面(儿)、头(儿)‖
等后缀造成合成方位词。
Phương vị từ có thể chia thành hai loại phương vị từ đơn và phương
vị tự kép. Phương vị từ đơn gồm: 上 (thượng)trên, 下 (hạ)dưới, 前
(tiền)trước, 后 (hậu)sau, 里 (lí)trong, 外 (ngoại)ngoài, 内 (nội)trong, 中
- 10 -
(trung)trong, 左 (tả)trái, 右 (hữu)phải, 间 (gian)giữa, 旁 (bàng)bên cạnh,
东(đông), 西(tây), 南(nam), 北(bắc). Phương vị từ đơn kết hợp với hậu tố
hoặc tiền tố hợp thành phương vị từ kép.
Như vậy, theo tác giả thì các từ chỉ vị trí đơn là 上(thượng) trên, 下
(hạ) dưới, 前(tiền) trước, 后(hậu) sau, 里(lí) trong, 外(ngoại) ngoài, 内
(nội) trong, 中(trung) trong, 左(tả) trái, 右(hữu) phải, 间(gian) giữa.
Ba quan điểm trên chính là ba loại quan điểm có tính tiêu biểu nhất
trong tiếng Hán hiện đại. Trong ba cuốn tác phẩm tiêu biểu, ba nhà Hán
ngữ học đã thống nhất ý kiến về một số từ, cáctác giả đều nhất trí về một số
phương vị từ 上(thượng) trên, 下(hạ) dưới, 前(tiền) trước, 后(hậu) sau,
左(tả) trái, 右(hữu) phải, 里(lí) trong, 外(ngoại) ngoài, 内(nội) trong,
中(trung) trong, 旁(bàng)bên cạnh. Trong đó, tác giả Triệu Nguyên Nhiệm
và Chu Đức Hy cho rằng 间 cũng là phương vị từ, nhưng tác giả Lữ Thúc
Tương lại không nhất trí với hai tác giả trên. Ngoài ra, Triệu Nguyên
Nhiệm còn cho rằng 这儿(giá nhi), 那儿(ná nhi), 先(tiên) cũng là phương
vị từ. Chúng tôi có thể qua một bảng biểu mẫu sau thể hiện ba quan điểm
trên một cách trực quan:
Bảng 2: Phần tương đồng và khác biệt giữa ba quan điểm
Từ kép
Từ
đối
đơn
Tiền tố 以
Tiền tố 之
Hậu tố 边
Hậu tố 面
Hậu tố 头
Khác
lập
上
以上
之上
上边
上面
上头
下
以下
之下
下边
下面
下头
前
以前
之前
前边
前面
前头
Phần
后
以后
之后
后边
后面
后头
tƣơng
左
左边
左面
上下
底下
前后
đồng
左右
右
右边
右面
里
里边
里面
- 11 -
里头
里外
头里
外
以外
之外
内
以内
之内
中
外边
外面
之中
外头
当中,中间
旁
旁边
间
内里
Ông
这儿
Nhiệm
那儿
之间
背后
左上
右上
左下
当中
右下
当间
Phần
先
khác
Ông
面前
nhau
跟前
背后
内中
Tƣơng
Ông
间
之间
Hy
Sau ba quan điểm này, tác giả Lưu Ngọc Hoa trong cuốn Ngữ pháp
tiếng Hán thực hành hiện đại cho rằng phương vị từ là một loại danh từ, bà
đã mô tả phương vị từ như sau:
方位词是指表示方向和相对位置关系的名称的词。方位词按其构
成特性可分为两种:单纯方位词和合成方位词。
单纯方位词是最基本的方位词,都是单音节的。它们是:―上、下、
前、后、里、外、内、中、左、右、间、旁、东、西、南、北‖。单纯
方位词前边加上―以‖或―之‖或者后边加上―边‖―面‖―头‖就构成合成方
位词,表示方向、处所或时间。―边‖―面‖―头‖要读轻声。不同的词与―以‖,
―之‖等组合的情况不完全相同。
Phương vị từ là những từ biểu thị phương hướng và vị trí tương đối.
Theo đặc điểm cấu thành có thể chia phương vị từ thành hai loại phương vị
từ đơn và phương vị từ kép.
Phương vị từ đơn là phương vị từ cơ bản nhất, đều là đơn âm tiết.
Chúng bao gồm: 上(thượng)trên, 下(hạ)dưới, 前(tiền)trước, 后(hậu)sau,
里(lí)trong, 外 (ngoại)ngoài, 内(nội)trong, 中(trung)trong, 左 (tả)trái, 右
- 12 -
(hữu)phải, 间(gian)giữa, 旁(bàng)bên cạnh, 东(đông), 西(tây), 南(nam),
北(bắc). Phương vị từ đơn kết hợp với tiền tố ―以‖(dĩ), ―之‖(chi) hoặc hậu
tố ―边‖(biên), ―面‖(diện), ―头‖(đầu) để tạo thành phương vị từ kép, biểu
thị phương hướng, vị trí hoặc thời gian. Hậu tố
―边‖(biên), ―面‖(diện),
―头‖(đầu) phải đọc thanh nhẹ. Tình hình mà các từ khác nhau khi kết hợp
với ―以‖(dĩ), ―之‖(chi)
cũng không hoàn toàn như nhau.
Theo mô tả trên, chúng tôi có thể thấy, trong cuốn Ngữ pháp tiếng
Hán thực hành hiện đại đã tổng hợp lại ba quan điểm tiêu biểu trước,
nhưng về khái niệm phương vị từ vẫn còn tính hạn chế nhất định, vẫn định
nghĩa phương vị từ là các từ biểu thị phương hướng và vị trí. Tính hạn chế
của định nghĩa này chủ yếu thể hiện về có một số từ là danh từ biểu thị chỗ,
nơi, nhưng chúng cũng có thể biểu thị phương hướng, đó phải xác định
theo ngữ cảnh cụ thể. Ví dụ câu 他住在北京(Anh ấy sống ở Bắc Kinh),
Bắc Kinh ở đây là danh từ chỉ nơi chốn đồng thời cũng là danh từ biểu thị
phương hướng, nhưng nó không thuộc nhóm phương vị từ. Cho nên sự
định nghĩa phương vị từ là từ biểu thị phương hướng và vị trí có tính hạn
chế nhất định.
Châu Thiệu Hoa so sánh, tổng hợp lại quan điểm trong ba cuốn Ngữ
pháp khẩu ngữ tiếng Hán, Tám trăm từ tiếng Hán và Giáo trình ngữ pháp,
và dựa theo đặc điểm chức năng ngữ pháp (tức là hình thức kết cấu ngữ
pháp) đã định nghĩa phương vị từ một cách khách quan: Các từ biểu thị ý
nghĩa phương hướng và vị trí, có thể phổ biến gắn kết với các từ khác (hoặc
các đơn vị to hơn). Như vậy, đã định nghĩa phương vị từ khá khách quan và
toàn diện.
Theo quan điểm trên, chúng tôi đã hiểu khái niệm từ chỉ vị trí một
cách khách quan là các từ biểu thị ý nghĩa vị trí, có thể phổ biến gắn kết với
các từ khác. Trong đó, chúng tôi chú ý vào những từ quan trọng: phổ biến,
vị trí, gắn kết. Đó chính là các tiêu chỉ của từ chỉ vị trí.
- 13 -
1.2.2 Giải thích về định nghĩa từ chỉ vị trí
Theo định nghĩa trên, chúng tôi có thể nắm được mấy nghĩa về từ chỉ
vị trí như sau:
- Tính gắn kết với các từ khác của từ chỉ vị trí rất phổ biến. Ngoài từ
chỉ vị trí, các từ như 顶 (đỉnh) đỉnh, 根 (căn) cuống, chân cũng mang
tính gắn kết, ví dụ: 山顶 (sơn đỉnh) đỉnh núi, 墙根 (tường căn) chân
tường. Nhưng khả năng gắn kết của những từ này vẫn không bằng từ chỉ vị
trí. Chẳng hạn, chúng ta có thể nói 床上(sàng thượng) trên giường, 心里
(tâm lí) trong lòng nhưng không thể nói là 床顶(sàng đỉnh), 床根(sàng
căn) và 心顶(tâm đỉnh), 心根(tâm căn). Chình vì vậy, chúng tôi mới nói
tính gắn kết với các từ khác của từ chỉ vị trí rất phổ biến, đó cũng là một
đặc tính nổi bật của chúng.
- Các từ chỉ vị trí mang tính vị trí. 子 (tử) trong từ 椅子(ỷ tử) ghế
cũng có tính gắn kết, ví dụ: 筷子 (khoái tử) đũa, 儿子 (nhi tử) con trai,
绳子 (thằng tử) dây thừng, 鞋子(hài tử) giầy v.v... nhưng chúng không có
nghĩa vị trí, cho nên cũng không thể nói là từ chỉ vị trí. Ví dụ:
(4) 透过宽大的玻璃门可以看到候机室一样的五等舱里,人们坐在
一圈圈软排椅上聊天,打扑克。(王朔《一半是火焰,一半是海水》)
(Xuyên qua cửa kính rộng lớn có thể nhìn thấy trong khoang hạng 5
giống như phòng chờ máy bay, người ta đang ngồi trên từng hàng ghế mềm
nói chuyện, chơi bài.)
Trong câu ví dụ (4), từ chỉ vị trí 里(trong) chính nói về vị trí, nó mang
nghĩa vị trí.
- Các từ chỉ vị trí mang tính gắn kết, những từ không gắn kết được
đằng sau các từ khác thì không phải là từ chỉ vị trí, như vậy có thể bài trừ
những danh từ phổ thông như từ chỉ nơi chốn. Chúng ta có thể nói 学校(的)
上面 (học hiệu đích thượng diện)phía trên (của) nhà trường, nhưng mà
không thể nói 学校(的)北京 (Bắc Kinh đích học hiệu)Bắc Kinh (của) nhà
- 14 -
trường. Lý do chính là từ 上面 (thượng diện)phía trên là từ chỉ vị trí, mà
từ 北京 (Bắc Kinh) là từ chỉ nơi chốn, không phải từ chỉ vị trí, không thể
gắn kết đằng sau các từ khác được. Ngoài tính gắn kết đằng sau các từ khác,
từ chỉ vị trí còn có tính độc lập. Ví dụ: 房间里面有一张床/里面有一张床
(Trong phòng có một chiếc giường / Bên trong có một chiếc giường). Nói
về tính gắn kết với các từ khác của từ chỉ vị trí, chúng tôi còn không thể
không nhắc đến một điều chính là các từ chỉ vị trí có thể gắn kết với hậu
hết tất cả các từ loại khác. Ví dụ:
(5) 她嫌这儿靠近窗户有风,坐到墙角的藤沙发上面朝墙吐。(王
朔《动物凶猛》
)
(Cô ấy chê chỗ ngồi gần cửa sổ có gió, thế là ngồi lên trên ghế sô-pha
mây và quay về phía bức tường nôn)
(6) 那条船上,有我一生中最好的时光,我最年轻、最热情的日子
都在那上面度过了。
(王朔《空中小姐》)
(Trên chiếc tàu đó, với những thời khắc đẹp nhất của đời tôi, tôi đã
trải qua những ngày tháng trẻ nhất và nhiệt tình nhất.)
Trong câu ví dụ (5), từ chỉ vị trí 上面 gắn kết với danh từ 藤沙发,
mà trong câu ví dụ (6) thì 上面 gắn kết với từ chỉ thị 那. Ngoài ra, các từ
chỉ vị trí cũng có thể gắn kết với các từ loại khác như tính từ, số từ, lượng
từ v.v... Về vấn đề này chúng tôi sẽ trình bày tỉ mỉ trong phần 2.1.3.1 khả
năng kết hợp của từ chỉ vị trí.
Theo trình bày trên, chúng tôi có thể tổng kết lại là từ chỉ vị trí phải có
những điều kiện sau: tính gắn kết với các từ khác, tính phổ biến, tính vị trí.
Những từ có đủ ba tính chất này mới có thể gọi là từ chỉ vị trí.
1.3 Các tính chất của từ chỉ vị trí
1.3.1 Tính chất chung của từ chỉ vị trí
Là một loại từ độc lập (cùng với từ chỉ hướng tổ hợp thành một loại từ
- 15 -
độc lập – phương vị từ), tương đối với đặc tính hệ thống chung của các loại
từ khác trong hệ thống từ vựng tiếng Hán hiện đại, đặc điểm hệ thống của
từ chỉ vị trí là: tính khép kín tương đối và tính sáng tạo tương đối.
Về mặt nghĩa hẹp từ chỉ vị trí, hệ thống từ chỉ vị trí mang tính khép
kín mà ít sáng tạo được từ mới. Nhóm từ chỉ vị trí trong tiếng Hán hiện đại
đã xuất hiện từ thời kỳ Chữ Giáp Cốt (thời Thương, Trung Quốc), trải qua
mấy nghìn năm, đến nay cũng chỉ có những từ tổ hợp kế t hơ ̣p v ới mấy từ
như 头 (đầu), 面 (diện, phía), 边 (biên, bên, phía) v.v... Cho nên, hệ
thống nhóm từ chỉ vị trí khá ổn định. Nhưng chúng tôi cho là tính khép kín
này cũng chỉ là khép kín tương đối, bởi vì về mặt nghĩa rộng, từ chỉ vị trí
lại là một loại từ tự do và có thể sáng tạo. Một số tên gọi của bộ phận con
người, động vật và các loại sự vật khác thường dùng làm để biểu thị ví trí,
ví dụ 心(tâm), 口(khẩu), 脚(chân), 腰(eo), 头(đầu), 面(diện, phía) v.v...
Nghĩa của các từ chỉ vị trí do những từ trên tổ hợp thành luôn luôn liên
quan với nghĩa gốc của những từ này:
- 心(tâm): tương ứng với giữa, trung tâm của sự vật, ví dụ:
(7) 我来到塘边,往巴掌心吐唾沫,低头挖地。(叶蔚林《在没有
航标的河流上》)
(Tôi đến bờ ao, nhổ nước bọt vào bàn tay, cúi đầu đào đất.)
- 口(khẩu): biểu thị chổ hình như mồm mở ra, có thể cho người và
động vật ra vào. Ví dụ:
(8) 服务员亭亭伫立在餐厅两旁,宾馆总经理则站在门口…… (朱
苏进《醉太平》)
(Nhân viên phục vụ xinh đẹp đứng lặng im hai bên phòng ăn, tổng
giám đốc khách sạn thì đứng ở cửa...)
- 脚/根/跟)(chân): đáy, dưới của sự vật. Ví dụ:
(9) 追到小山脚下,远远地看见他在积雪的路上踯躅、徘徊,瞻前
顾后。(叶蔚林《少年乔乔》)
- 16 -
- Xem thêm -