Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng đạo đức của n. machiavelli trong tác phẩm quân vương...

Tài liệu Tư tưởng đạo đức của n. machiavelli trong tác phẩm quân vương

.PDF
65
151
58

Mô tả:

Niccolò Machiavelli (1469 - 1527) cũng được xem như một người “khổng lồ” của thời kì này. N.Machiavelli là một nhà tư tưởng lỗi lạc của Italia thời kì Phục hưng, một người được coi là “ông tổ” của chính trị học hiện đại. N.Machiavelli sống trong một thời kì có nhiều biến động, một thời kì mà mọi mặt trong đời sống từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng,… đều có sự thay đổi to lớn. Thời kì Trung cổ đang trên đà sụp đổ để nhường chỗ cho thời kì Phục hưng, chủ nghĩa tư bản xuất hiện và ngày càng lớn mạnh cùng với đó là chế độ phong kiến đang trên đà tiêu vong, các phát kiến địa lí, những phát minh khoa học,…Trong các tác phẩm của ông thì tác phẩm "Quân vương" là tác phẩm nổi tiếng nhất và đây cũng chính là tác phẩm gây nhiều tranh cãi nhất. Tuy nhiên đây cũng là cuốn cẩm nang quan trọng của nhiều nhà chính trị nổi tiếng. Tác phẩm "Quân vương" không phải là một tác phẩm thuần chính trị, mà trong đó cũng có những tư tưởng triết học về con người, về các phẩm chất đạo đức được Machiavelli thể hiện qua nhân cách người cầm quyền.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- LÊ THỊ DIỆU NGỌC TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA N.MACHIAVELLI TRONG TÁC PHẨM QUÂN VƢƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH 2016 – X HÀ NỘI – 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- LÊ THỊ DIỆU NGỌC TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA N.MACHIAVELLI TRONG TÁC PHẨM QUÂN VƢƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH 2016 - X NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận này là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Những kết quả từ những tác giả trƣớc mà tôi sử dụng đều đƣợc trích dẫn rõ ràng, cụ thể. Không có bất kì sự không trung thực nào trong các kết quả nghiên cứu. Nếu có gì sai trái, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2020 Sinh viên Lê Thị Diệu Ngọc MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 NỘI DUNG ....................................................................................................... 9 CHƢƠNG 1. CUỘC ĐỜI CỦA N.MACHIAVELLI VÀ NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÁC PHẨM QUÂN VƢƠNG ................................................. 9 1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị, xã hội thời kì Phục hƣng ....................... 9 1.2. Tiền đề lý luận cho sự ra đời tƣ tƣởng của Machiavelli .................... 13 1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Nicolo Machiaveli .................................. 21 1.4. Nội dụng chính của tác phẩm “Quân vƣơng” .................................... 25 CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC N. MACHIAVELLI TRONG TÁC PHẨM “QUÂN VƢƠNG”................. 30 2.1. Mối quan hệ chính trị và đạo đức ...................................................... 30 2.2. Cái nhìn của N.Machiavelli về bản tính con ngƣời ........................... 40 2.3. Bản tính ngƣời thể hiện trong phẩm chất quân vƣơng ...................... 44 2.4. Thời cơ và vận mệnh.......................................................................... 53 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: ....................................................... 60 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử là một dòng chảy không ngừng từ quá khứ đến tƣơng lai. Trong dòng chảy đó thời kì Phục hƣng có vị trí vô cùng độc đáo, đặt nền móng cho một nền văn minh phát triển rực rỡ sau này. Thời kì Trung cổ con ngƣời bị kìm kẹp, thân phận con ngƣời đã quá nhỏ bé, con ngƣời phải đeo gông cùm của thần quyền và thế quyền, một xã hội luôn nhuốm màu u ám. Chủ nghĩa nhân văn thời kì Phục hƣng nhƣ những tia sáng đầu tiên trong màn đêm u tối ấy, đƣa con ngƣời dần thoát khỏi sự kìm kẹp hàng ngàn năm, mở ra một thời kì phát triển rực rỡ về mọi mặt. Ăngghen đã nhận xét thời kì Phục hƣng: “Đó là một cuộc đảo lộn tiến bộ nhất mà từ xƣa tới nay, nhân loại đã trải qua, đó là một thời đại cần có những con ngƣời khủng lồ và đã sinh ra những con ngƣời khủng lồ: khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình tính cách, khổng lồ về mặt có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng” [9; tr.459- 460]. Niccolò Machiavelli (1469 - 1527) cũng đƣợc xem nhƣ một ngƣời “khổng lồ” của thời kì này. N.Machiavelli là một nhà tƣ tƣởng lỗi lạc của Italia thời kì Phục hƣng, một ngƣời đƣợc coi là “ông tổ” của chính trị học hiện đại. N.Machiavelli sống trong một thời kì có nhiều biến động, một thời kì mà mọi mặt trong đời sống từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tƣ tƣởng,… đều có sự thay đổi to lớn. Thời kì Trung cổ đang trên đà sụp đổ để nhƣờng chỗ cho thời kì Phục hƣng, chủ nghĩa tƣ bản xuất hiện và ngày càng lớn mạnh cùng với đó là chế độ phong kiến đang trên đà tiêu vong, các phát kiến địa lí, những phát minh khoa học,… Ngƣời ta biết rất ít về tuổi trẻ của Machiavelli, nhƣng song có một điều chắc chắn là ông đƣợc nắm rất rõ về thời kì Hy Lạp - La Mã. Ông tham gia vào con đƣờng chính trị từ rất sớm, chính điều đó đã đem lại cho ông nhƣng kinh nghiệm thực tiễn quý báu, ảnh hƣởng rất lớn đến tƣ tƣởng của ông sau này. Tuy 1 nhiên, những biến động ở Florence đã khiến ông phải chấm dứt sự nghiệp chính trị của mình. Cũng vì lẽ đó, Machiavelli dành thời gian để suy ngẫm, đƣa ra những lý luận của riêng mình. Trong các tác phẩm của ông thì tác phẩm Quân vƣơng là tác phẩm nổi tiếng nhất và đây cũng chính là tác phẩm gây nhiều tranh cãi nhất. Tuy nhiên đây cũng là cuốn cẩm nang quan trọng của nhiều nhà chính trị nổi tiếng. Tác phẩm Quân vƣơng không phải là một tác phẩm thuần chính trị, mà trong đó cũng có những tƣ tƣởng triết học về con ngƣời, về các phẩm chất đạo đức đƣợc Machiavelli thể hiện qua nhân cách ngƣời cầm quyền. Trong tác phẩm Quân vƣơng N.Machiavelli giành một phần để đề cập đến nhân cách của ngƣời cầm quyền, đây cũng đƣợc xem nhƣ là tƣ tƣởng đạo đức mà ông muốn thể hiện. Trong tƣ tƣởng của mình, N.Machiavelli lấy con ngƣời làm trung tâm, làm bộ phận quan trọng nhất của thế giới. Ông đƣa ra quan niệm lấy cá nhân làm chủ thể và là mục đích của mọi cải tạo lịch sử. Thông qua lăng kính “cá nhân” N.Machiavelli đã xem xét mọi vấn đề, bắt đầu từ vấn đề đạo đức xã hội và kết thúc ở vấn đề tôn giáo. Ông đƣa con ngƣời từ cuộc sống ở thiên đƣờng về với cuộc sống hiện thực ở trần thế. Trong cuộc sống hiện thực, đạo đức của con ngƣời bị nhiều thứ tác động nhƣ lợi ích vật chất, địa vị, tác động của mọi ngƣời xung quanh,… Những thứ này ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển đạo đức của mỗi ngƣời. Và con ngƣời thể hiện rõ nhất bản tính của mình trong lĩnh vực chính trị. Nhãn quan chính trị Machiavelli đã lột tả đƣợc bản chất của con ngƣời là ích kỉ, tham lam. Ngày nay, đất nƣớc ta đang trong quá trình hội nhập với thế giới trên mọi lĩnh vực, trong đó có cả văn hóa, chính trị, đạo đức. Vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu tử tƣởng đạo đức của N.Machiavelli trong tác phẩm Quân vƣơng là hoàn toàn cần thiết. Qua việc nghiên cứu tác phẩm chúng ta có thể nâng cao năng lực tƣ duy chính trị, nhận diện các sự kiện chính trị, hiểu rõ hơn về bối cảnh xã hội châu Âu những năm đầu thời kì Phục hƣng, điều đó có ích trong quá trình hội nhập của nƣớc ta. Trong qua trình hội nhập với thế giới, chúng ta cũng phải đối 2 mặt với không ít nguy cơ, nhƣ hiện tƣợng một số ngƣời đánh mất bản thân, chạy theo các giá trị vật chất, bội tín, ích kỉ, hay sự xuống cấp của các giá trị đạo đức truyền thống. Để khắc phục tình trạng này chúng ta cần nghiên cứu và khảo sát các tƣ tƣởng triết học về đạo đức, về con ngƣời đặc biệt là tƣ tƣởng đạo đức của N.Machiavelli để tìm ra nguyên nhân của sự tha hóa và các giải pháp khắc phục. Machiavelli còn cho chúng ta thấy rõ con ngƣời không chỉ tha hóa trong lĩnh vực kinh tế mà còn tha hóa trong lĩnh vực chính trị - lĩnh vực thể hiện rõ bản chất của con ngƣời. Một đóng góp quan trọng khác của N.Machiavelli trong quan niệm về con ngƣời là sự định hƣớng vào chủ thể chính trị. Theo đó, an nguy của quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất của quân vƣơng, của thủ lĩnh chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà Quân vƣơng đƣợc liệt vào hàng một trong những cuốn sách kinh điển hay về chính trị. Cho đến tận ngày nay tác phẩm vẫn duy trì đƣợc tính thực tế và khả năng dự báo về những gì cần có để trở thành một quân vƣơng, một ngƣời lãnh đạo. Trong quan niệm của Machiavelli, đã là một quân vƣơng thì không thể bị cản trở bởi những luân lí, những giá trị đạo đức. Rousseau đã nói về Machiavelli: “Dƣờng nhƣ đây là các bài học dành cho các vị vua chúa, nhƣng thực ra ông đang dạy những bài học vĩ đại cho nhân dân”. Xuất phát từ những lý do trên em chọn Tƣ tƣởng dạo đức của Niccolò Machiavelli trong tác phẩm “Quân vƣơng làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân ngành triết học của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Niccolò Machiavelli là một trong những nhà tƣ tƣởng có cái nhìn độc đáo nhất thời kì Phục hƣng. Điều đó đƣợc ông thể hiện một phần trong tác phẩm Quân vƣơng . Tác phẩm hoàn thành năm 1513 nhƣng đến năm 1532 tác phẩm Quân vƣơng (Il Principe) của Machiavelli mới đƣợc xuất bản tại Italia. Mãi đến 3 năm 1540 tác phẩm mới đƣợc dịch sang tiếng Anh, và đƣợc tái bản nhiều lần sau đó. Nhƣng trƣớc đó gần 4 thế kỷ năm 1559, tác phẩm Quân vƣơng cùng toàn bộ các tác phẩm khác của Machiavelli đã bị đƣa vào danh mục sách bị giáo hội cấm lƣu hành và tàng trữ. Những “ngƣời theo Thiên Chúa giáo và theo đạo tin lành đều đua nhau lên tiếng chống đối ông” [8; tr. 5]. Tuy nhiên sách của ông đã đƣợc lƣu truyền từ trƣớc đó, vì vậy tuy bị cấm lƣu hành nhƣng tác phẩm không mấy bị ảnh hƣởng vì nó đã đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng, tác phẩm đã sớm lan tỏa khắp châu Âu. Đặc biệt nhiều nhà độc tài và vua chúa trong mọi thời kì đã tìm đƣợc các lời khuyên hữu ích trong tác phẩm Quân vƣơng của Machiavelli: “Bằng danh sách những độc giả say mê cuốn sách gồm những nhân vật rất quan trọng: Hoàng đế Charles đệ ngũ, và bà Catherine de Medicis đã tán thƣởng tác phẩm. Oliver Cromwell đã kiếm đƣợc một bản Ông Hoàng (tức Quân vƣơng) chép tay và đã áp dụng những nguyên tắc của cuốn sách đó trong Chính phủ Cộng hòa Anh quốc. Hai ông vua Pháp Henry đệ ngũ Là Henry đệ tứ lúc bị ám sát còn cầm cuốn Ông hoàng trong tay. Cũng một cuốn sách đó đã giúp cho Fréderick Đại đế tạo ra chính sách của nƣớc Phổ thời ấy. Vua Louis thứ 14 đã coi Ông hoàng là cuốn sách gối đầu gƣờng đƣợc ƣa thích hơn hết. Ngƣời ta đã tìm thấy một cuốn Ông hoàng có ghi những chú thích trong xe ngựa của Hoàng đế Napoléon ở Waterlo. Những ý kiến về cách cai trị của Napoléon đệ tam đã chính thức bắt nguồn cũng từ cuốn Ông hoàng, và Bismark cũng đã là một đệ tử trung thành của N.Machiavelli. Gần đây hơn nữa, cứ theo nhƣ chính lời của Hitler thì Ông hoàng là nguồn cảm hứng thƣờng xuyên của ông ta lúc nghỉ ngơi. Về phần Benito Mussolini, ông đã từng tuyên bố: Tôi tin rằng cuốn Ông hoàng của N.Machiavelli phải là sách chỉ nam tuyệt tác của nhà chính khách. Học thuyết của tác giả ngày nay vẫn hợp thời vì trong vòng bốn trăm năm vẫn không có những gì thay đổi sâu xa trong trí não ngƣời ta hay là trong những hoạt động của các quốc gia” [ 2; tr. 23]. 4 Có thời gian tiếng tăm của Machiavelli bị gắn với sự độc ác, xấu xa, là một chính khách đầy mƣu mô, thủ đoạn, giả đạo đức,… đến thế kỉ XIX tiếng tăm của Machiavelli mới đƣợc bênh vực và biện minh phần nào. Ngày nay Machiavelli đƣợc xem nhƣ là “ông tổ” của chính trị học hiện đại, một nhà bình luận xuất sắc về tâm lí học và nghệ thuật của ngƣời lãnh đạo và tác phẩm “Quân vƣơng” chính là tác phẩm đặt nền móng. Ở Việt Nam thân thế, sự nghiệp của Niccolò Machiavelli cũng đƣợc nhiều ngƣời quan tâm, xuất hiện những công trình nghiên cứu về Machiavelli tuy còn nhiều hạn chế. Một số tác phẩm của Machiavelli cũng đƣợc dịch sang tiếng Việt với nhiều bản dịch khác nhau. Đặc biệt là tác phẩm Quân vƣơng đã đƣợc nhiều ngƣời dịch và tái bản nhiều lần. Các bản dịch của Vũ Mạnh Hồng, Nguyễn Hiền Chi hay bản dịch của Đặng Thƣ đã cho ta thấy đƣợc khái quát nhất về Machiavelli và toàn bộ nội dung của tác phẩm Quân vƣơng. Trong tác phẩm Quân vƣơng Machiavelli đƣa ra những tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, tƣ tƣởng về con ngƣời hết sức độc đáo, khác biệt với những tƣ tƣởng trƣớc đó. Cuốn Những luận thuyết nổi tiếng thế giới (Nxb văn hóa thông tin. Tp Hồ Chí Minh 1999) của Vũ Đình Phòng và Lê Huy Hòa đã bƣớc đầu giới thiệu khái quát về thân thế, sự nghiệp và tác phẩm Quân vƣơng của Machiavelli. Ngoài ra tác phẩm còn nói đến một số biến cố của Italia giai đoạn này. Cuốn Đại cƣơng lịch sử triết học phƣơng Tây của Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn (Nxb Văn hóa thông tin. Tp Hồ Chí Minh 2006), và cuốn Lịch sử triết học phƣơng tây tập 1 của Đỗ Minh Hợp (Nxb Chính trị quốc gia 2014) đã nói đến tƣ tƣởng của N.Machiavelli trên cơ sở xâu chuỗi các vấn đề để chỉ ra đặc điểm tƣ duy của Machiavelli; chủ nghĩa hiện thực về chính trị, cái nhìn bi quan về con ngƣời, các quan điểm mới về đức hạnh của quốc vƣơng; các “nguyên tắc” nhƣ là điều kiện phục hồi và đổi mới đời sống chính trị. Nhóm tác giả đã khái quát ba quan điểm cơ bản khi nói đến mối quan hệ chính trị và đạo đức là: tính chất đạo đức của chính trị đƣợc quy định bởi mục đích của nó; 5 phƣơng tiện sử dụng có ảnh hƣởng hàng đầu đến ý nghĩa đạo đức của nó; cả mục đích lẫn phƣơng tiện đều quan trọng nhƣ nhau đối với việc đem lại cho chính trị tính chất nhân đạo, mục đích lẫn phƣơng tiện cần phải tƣơng dung với nhau và với bối cảnh cụ thể. Trong ba quan điểm trên thì Machiavelli là ngƣời ủng hộ quan điểm thứ nhất, tuy nhiên sẽ là sai lầm khi coi ông là ngƣời thanh minh cho sự tách rời hoàn toàn chính trị khỏi đạo đức. Cuốn 106 nhà thông thái do P.S.Taranốp biên soạn (Đỗ Minh Hợp dịch, Nxb chính trị quốc gia 2000) đã lấy mốc từ vua Sôlômông cho đến Actua Sơpenhaoơ, chọn ra 106 gƣơng mặt tiêu biểu, trong đó đã đề cập đến Machiavelli. Tác phẩm đã trình bày khái quát, cô đọng lại những nét chính từ cuộc đời, các sự kiện làm nên số phận, tạo nên tính cách, cũng nhƣ tƣ tƣởng của Machiavelli. Theo Robert B.Downs trong cuốn Những tác phẩm biến đổi thế giới (Hoài Châu và Từ Huệ dịch, Nxb Lao động hà nội 2003), “Quân vƣơng là một trong những tác phẩm từng gây đƣợc những ảnh hƣởng sâu đậm và lâu dài ở phƣơng Tây và phƣơng Đông, có tác động lớn lao đến đời sống nhân loại, xứng đáng đƣợc gọi là „Books That Changed World‟ – những tác phẩm biến đổi thế giới” [2; tr. 5]. Cuốn sách nhắc đến tác phẩm Ông hoàng của Machiavelli ngay từ những trang đầu tiên, và nhận định tác phẩm chứa đựng những bài học cho muôn đời. Tác phẩm đã chỉ ra và phân tích khái quát nhất những tƣ tƣởng đạo đức, chính trị,… mà Machiavelli nhắc đến trong tác phẩm Quân vƣơng. Nhìn chung những nghiên cứu về N.Machiavelli không nhiều, nhƣng các nghiên cứu đều có đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu tử tƣởng của Machiavelli trong đó có cả tử tƣởng về đạo đức của ông. Tuy nhiên chƣa có cuốn sách nào lấy Machiavelli cũng nhƣ những tƣ tƣởng và tác phẩm của ông làm nghiên cứu chủ đạo. Trƣớc tình hình đó, khóa luận mong muốn đem đến cái nhìn sáng tỏ tƣ tƣởng đạo đức của Machiavelli trong tác phẩm Quân vƣơng. 6 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Phân tích, làm rõ tƣ tƣởng đạo đức của Machiavelli trong tác phẩm Quân vƣơng. Nhiệm vụ: - Phân tích điều kiện kinh tế, xã hội và tiền đề tƣ tƣởng – lý luận cho sự ra đời của tƣ tƣởng đạo đức của Niccolò Machiavelli và sự ra đời của tác phẩm Quân vƣơng. - Trình bày khái quát những nội dung cơ bản của tác phẩm Quân vƣơng - Phân tích, làm rõ những tƣ tƣởng đạo đức mà Machiavelli thể hiện trong tác phẩm Quân vƣơng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu: Tƣ tƣởng đạo đức của Niccolò Machiavelli Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu nghiên cứu tƣ tƣởng đạo đức của N.Machiavelli thông qua tác phẩm “Quân vƣơng”. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Dựa trên các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết đạo đức Mác - Lênin. Phƣơng pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phƣơng pháp phân tích tổng hợp, so sánh, thống nhất lịch sử logíc, khái quát hóa, trừu tƣợng hóa,… 6. Ý nghĩa của khóa luận 7 Ý nghĩa lý luận: Khóa luận đóng góp vào việc hiểu đúng và sâu hơn về một lĩnh vực quan trọng của triết học phƣơng Tây thời kì Phục hƣng nói chung, đạo đức học của Machiavelli nói riêng. Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai ham thú tìm hiểu về tƣ tƣởng đạo đức của Machiavelli. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chƣơng, 8 tiết. 8 NỘI DUNG CHƢƠNG 1. CUỘC ĐỜI CỦA N.MACHIAVELLI VÀ NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÁC PHẨM QUÂN VƢƠNG 1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị, xã hội thời kì Phục hƣng Sau khi Hy Lạp - La Mã cổ đại sụp đổ, Tây Âu bƣớc vào thời kì Trung cổ với sự thống trị của nhà thờ. Bƣớc vào thời kì này các công trình, thành tựu thời kì Hy - La xây dựng đã dần bị lãng quên, bị vùi lấp một phần không nhỏ. Thời kì này cả Châu Âu trở nên u ám. Thời kì Trung Cổ ở châu Âu kéo dài hàng nghìn năm với sự thống trị của nhà thờ, nền kinh tế tự cung tự cấp làm cho sự giao thƣơng rất hạn chế. Tới thế kỉ XIV theo sự phát triển của kinh tế ở các thành thị, phƣơng thức sản xuất mới hình thành trong lòng phƣơng thức sản xuất phong kiến, mầm mống của quan hệ sản xuất tƣ bản dần dần đƣợc hình thành. Sự phân công lao động giữa các ngành nghề, các vùng sản xuất đã hình thành nên nền kinh tế hàng hóa, giai cấp tƣ sản bắt đầu xuất hiện. Quan hệ sản xuất tƣ bản phát triển nhanh chóng và trở nên lớn mạnh hơn, các nhà tƣ sản, các nhà tƣ tƣởng không còn chịu sự áp đặt, các giáo lí lỗi thời của nhà thờ, họ tìm cách thoát khỏi sự kìm kẹp của giáo hội và nhà thờ. Tuy nhiên do lực lƣợng còn mỏng, giai cấp tƣ sản chƣa thể lật đổ đƣợc nhà thờ, vì vậy họ tìm đến một cách khác, đó là làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hóa, tƣ tƣởng. Các nhà tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản vận động khôi phục lại sự huy hoàng của văn hóa Tây Âu thời cổ đại. Họ nhìn thấy ở trong nền văn hóa thời cổ đại có nhiều yếu tố phù hợp với tình hình hiện nay, có thể giúp ích đƣợc họ, có thể chống lại giáo hội và nhà thờ và hơn hết có thể làm cho giáo hội và nhà thời không có lí do để buộc tội họ. Phong trào văn hóa Phục hƣng xuất hiện đầu tiên ở Italia. Ngƣời Italia gọi phong trào này là “Renascita”. Italia là trung tâm của đế quốc Roma thời cổ đại vì vậy ở đây còn giữa lại nhiều di tích của nền văn hóa Hy Lạp – Roma. Từ 9 Italia phong trào nhanh chóng lan ra khắp các nƣớc ở Tây Âu nhƣ Anh, Pháp, Tây Ban Nha và lan khắp cả Châu Âu. Các nhà văn hóa phục hƣng mong muốn khôi phục lại nền văn hóa rực rỡ từ thời cổ đại Hy lạp – La Mã, với một lí do chính đáng là khôi phục lại những điều mà Chúa cho phép, điều này làm cho giáo hội và nhà thờ không thể phản đối phong trào Phục hƣng. Qua việc khôi phục nền văn hóa cổ đại các nhà văn hóa thời kì này còn muốn nhà thờ thay đổi cách nhìn về thế giới và con ngƣời. Các nhà văn hóa Phục hƣng chú ý nhiều vào việc khôi phục lại truyền thống đề cao con ngƣời của thời Hy Lạp cổ đại vốn từ thời Protago đã coi “Con ngƣời là thƣớc đo của muôn loài”. Và khôi phục sự tự do của con ngƣời so với sự chuyên chế độc tài của phong kiến và giáo hội. Trong bức tranh “Mars và Venus” của danh họa Veronese, chàng kị sĩ rời khỏi yên ngựa, rũ bỏ thanh gƣơm, cởi bỏ chiếc áo khoác, ngả đầu vào vị nữ thần sắc đẹp và tình yêu. Hai tiểu thần Amua bay tới, một tiểu thần buộc chân họ vào nhau bằng sợi dây gắn bó, tiểu thần còn lại đem thanh gƣơm trả lại ngựa xám, chú ngựa xám buồn thiu. Chiếc áo của nữ thần phủ lên một bức tƣờng đen tối tƣợng trƣng cho thời kì trung cổ đang đổ vỡ và hiện ra sau bức tƣờng là một kiến trúc nổi tiếng của thời Hy Lạp cổ đại. Hay trong bức tranh “Hằng nga tái sinh” toàn bộ bức tranh nhƣ là một lời tuyên ngôn rằng thời kì Trung Cổ đang trên đà sụp đổ và nhƣờng chỗ cho một thời kì mới. Xét về bản chất kinh tế thời kì Phục hƣng là thời kì chuyển từ phƣơng thức sản xuất phong kiến sang phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa. “Đây là thời kì tích lũy tƣ bản đƣợc mở rộng, trong nông nghiệp phƣơng thức canh tác đƣợc cải tiến nhƣ luân canh, sử dụng phân bón, đầm lầy đƣợc tát cạn, rừng rậm đƣợc khai phá nên diện tích canh tác đƣợc mở rộng, sản lƣợng tăng” [7; tr. 24]. Ngƣời nông dân bị cƣớp mất ruộng đất, ngƣời lao động bị tách khỏi tƣ liệu sản xuất. Các đồng cỏ nuôi bò, nuôi cừu đƣợc mở rộng. Các chủ xƣởng thủ công nghiệp dần áp dụng phƣơng thức quản lí mới theo lối tƣ bản chủ nghĩa, họ ngày 10 càng có vai trò quan trọng trong xã hội mới và nắm giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, họ trở thành một giai cấp mới trong xã hội - gia cấp tƣ sản. Ngƣời nông dân bị cƣớp đoạt ruộng đất, để có thể nuôi sống chính mình họ buộc phải rời xa quê hƣơng đến các công trƣờng thủ công nghiệp, các thành phố lớn để làm thuê. Họ chính là tiền thân của giai cấp vô sản sau này. Chế độ phong kiến ngày càng lụi tàn, phƣơng thức sản xuất nhỏ lẻ của chế độ phong kiến đã không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại. Những đạo luật hà khắc, sự bóc lột tàn ác của ngƣời địa chủ phong kiến đối với nông dân đã làm mâu thuẫn giữa ngƣời địa chủ với ngƣời nông dân trở nên gay gắt, những cuộc nổi dậy của nông dân nhằm chống lại địa chủ phong kiến diễn ra khắp Châu Âu và giai cấp tƣ sản trở thành đồng minh của họ. “Ngƣời ta không chỉ đòi xóa bỏ đặc quyền đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chƣớng ngại trên con đƣờng phát triển theo xu hƣớng tƣ bản chủ nghĩa và còn chĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã, thành lũy tinh thần của chế độ phong kiến” [4; tr. 236]. Giai đoạn này cũng xuất hiện nhiều trƣờng đại học nhƣ đại học Tuludo, Oxford, Cambridge, Palecmo,… chúng trở thành những nơi học tập, nghiên cứu, trung tâm văn hóa, khoa học, dần thay thế cho các trƣờng học của giáo hội, làm giảm ảnh hƣởng của giáo hội đối với nhân dân. Các trƣờng học có xu thế hoạt động độc lập nhằm thoát khỏi sự kìm kẹp của giáo hội. Ở Tây Âu giai đoạn này ngƣời nông dân rời bỏ quê hƣơng đến các thành thị làm thuê rất đông đảo, vì thế hình thành rất nhiều các thành thị. Có ba loại thành thị: “Thành thị mới: thành thị của những ngƣời thủ công thoát ly khỏi nông thôn lập nên. Thành thị cổ: thành thị có từ thời cổ đại đƣợc phục hồi lại. Thành thị do lãnh chúa quý tộc phong kiến xây dựng cho thị dân thuê” [13; tr.94]. Thế kỉ XV đánh đánh dấu sự chuyển biến to lớn của xã hội châu Âu. Do kinh tế tƣ bản không những phát triển, sự đòi hỏi của thực tiễn sản xuất vật chất, 11 các ngành khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển. Các thành tựu to lớn của khoa học kĩ thuật trên mọi lĩnh vực nhƣ sử dụng năng lƣợng nƣớc, các ngành dệt, luyện kim, chế tạo vũ khí,… có sự phát triển vƣợt bậc. Sự phân công lao động đƣợc đẩy mạnh, các công xƣởng thủ công không ngừng đƣợc mở rộng. Quan hệ sản xuất tƣ bản đƣợc hình thành và phát trển không ngừng. Giai cấp tƣ sản không ngừng lớn mạnh và khẳng định vai trò, sức mạnh của mình trong xã hội phong kiến. Nhƣng trong giai đoạn này, quan hệ sản xuất phong kiến vẫn còn tồn tại, quan hệ sản xuất tƣ bản chƣa đƣợc củng cố vững chắc. Vì vậy giai cấp lãnh chúa phong kiến vẫn tiếp tục bóc lột nông dân, nông dân mất hết ruộng đất buộc phải trở thành những ngƣời làm thuê. Mâu thuẫn giữa nông dân và các địa chủ phong kiến ngày càng trở lên gay gắt hơn. Lợi dụng mâu thuẫn đó giai cấp tƣ sản một mặt thì cùng với nông dân chống lại các lãnh chúa phong kiến, mặt khác do giai cấp tƣ sản cần một thị trƣờng thống nhất, tiền tệ thống nhất, vì vậy giai cấp tƣ sản đã bắt tay với nhà vua chống lại các lãnh chúa để xây dựng một nhà nƣớc trung ƣơng tập quyền. Tuy nhiên nhà nƣớc này không phải là biểu hiện sự hùng mạnh của chế độ phong kiến phƣơng Tây mà chỉ là sự cố gắng cuối cùng của chế độ phong kiến hòng giữ lại địa vị thống tị của mình. Nhà nƣớc phong kiến trong thời kì này nhƣ là một liên minh giữa một nhà nƣớc đang trên đà sụp đổ với sự phát triển của giai cấp tƣ sản. Các phát kiến địa lí, những hành tựu của khoa học tự nhiên, sự ra đời của nhiều loại máy móc đã làm thay đổi cả châu Âu. Với sự xuất hiện của máy móc, sự xuất hiện các nguồn năng lƣợng mới nhƣ năng lƣợng gió đã làm tăng năng suất lao động, của cái đƣợc làm ra nhiều hơn. Hiệu quả kinh tế đƣợc đặt lên hàng đầu. Những mong muốn của con ngƣời có thể đáp ứng ngay tại hiện thực mà không phải trong Kinh thánh hay ở thế giới bên kia. Mọi mặt xung quanh cuộc sống con ngƣời dần dần thay đổi, vì vậy tƣ duy con ngƣời cũng dần thay đổi. Con ngƣời thay vì bị kìm kẹp bởi những giáo điều hà khắc của Thiên chúa giáo thì giờ đây bắt đầu có cơ hội sáng tạo hơn, đƣợc tự 12 do phát triển, giảm bớt những cấm đoán hơn so với lúc giáo hội còn đang thịnh trị. So với thời kì Thiên chúa giáo đang thống trị hoàn toàn mọi mặt của xã hội thì con ngƣời làm việc thiện là làm theo lời Chúa, làm điều ác là trái ý của Chúa, mọi việc con ngƣời làm đều quy về với Chúa, thì giờ đây đã xuất hiện tầng lớp tri thức phi tôn giáo, họ truyền bá những tƣ tƣởng tiến bộ, những tƣ tƣởng nằm ngoài nhà thờ, con ngƣời không còn chịu sự an bài tuyệt đối của Thiên Chúa. Các tƣ tƣởng tiến bộ không ngừng đƣợc truyền bá quyền uy, sự phổ biến của giáo hội không còn tuyệt đối nhƣ trƣớc. Ngoài những phát minh về khoa học kĩ thuật làm thay đổi phƣơng thức sản xuất còn có các khám phá khoa học làm đảo lộn mọi nhận thức trƣớc đó của con ngƣời, lung lay nền chuyên chính của nhà thờ. Các vấn đề khoa học nhƣ Galileo khẳng định trái đất hình tròn. Ông nói trái đất cũng nhƣ mọi hành tinh khác mà thôi, nó không phải là trung tâm của cả vũ trụ này, nó chỉ là trung tâm của các lực lƣợng mà nó chi phối. Các quan điểm của các nhà triết học nhƣ của Leonardo da Vinci, Bruno, Nicolo Machiavelli, Dante… đã đƣa ra những quan điểm khác biệt so với các quan điểm trƣớc đó. Những quan điểm mới này đã đánh một đòn mạnh vào sự chuyên chính tinh thần của nhà thờ Trung cổ. Phục hƣng có thể xem là thời kì con ngƣời tìm lại chính mình, con ngƣời không bị lệ thuộc vào Chúa, con ngƣời trở về chính mình, trở về với chính thế giới thực tại. 1.2. Tiền đề lý luận cho sự ra đời tƣ tƣởng của Machiavelli Thời kì Phục hƣng chịu ảnh hƣởng sâu sắc của nền văn hóa Hy Lạp cổ đạị. “Từ thế kỷ XIII trở đi, nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật, sự phát triển của phƣơng tiện giao thông, sự trao đổi về sách cũ, sách mới bên cạnh nền học thuật chính thức, bên cạnh kinh viện học, ngƣời ta đã thấy nảy nở một nguồn tƣ tƣởng lành mạnh, bạo dạn. Kho tàng tƣ tƣởng Hy Lạp, khoa học Ả Rập kích thích tinh thần học hỏi với ngƣời xƣa, với ngoại quốc. Đi đôi với những cuộc thám hiểm, những đạo quân viễn chinh, với sự phát triển công nghệ và thƣơng mại, là những cuộc phát kiến về văn hóa, về khoa học, về phong tục của xã hội Đông 13 Âu và Tiểu Á” [8; tr.20 – 21]. Con ngƣời thời Phục hƣng có cơ hội tiếp xúc lại với nền văn minh cổ đại dƣới mọi hình thức nhƣ triết học, nghệ thuật, văn chƣơng,… những điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đời sống tinh thần con ngƣời của giai đoạn Phục hƣng. Vì vậy, ngay từ thời còn trẻ N.Machiavelli đã dành nhiều quan tâm đến các tác phẩm và tác giả thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Và cũng chính tƣ tƣởng của thời kì Hy - La cổ đại đã trở thành nguồn tƣ tƣởng để Machiavelli sử dụng trong các tác phẩm sau này, đặc biệt là trong tác phẩm Quân vƣơng. Machiavelli tiếp thu nhiều tƣ tƣởng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nhƣ Socrates, Platon, Arixtotle,… 1.2.1. Socrates Socrates (469 - 399 TCN), nhà triết học nổi tiếng thời Hy Lạp cổ đại. Ông cho rằng luật pháp chính là nền tảng của nhà nƣớc. Ông chủ trƣơng giao quyền điều hành nhà nƣớc vào tay những ngƣời có năng lực, có tri thức. Socrates phê phán những quan niệm sai lầm về cái thiện “Ở thời ông, một khi bàn về vấn đề giá trị, thì phải thông qua các khái niệm cái thiện, kĩ năng, cái đức hạnh và cái hạnh phúc. Các khái niệm này có thể diễn tả theo ba khuynh hƣớng. Có thể quan niệm cái thiện theo cách hiểu của chủ nghĩa vị lợi (Utilitarismus) nhƣ cái gì đó có mục đích, hữu ích, cần thiết. Hay theo cách hiểu của chủ nghĩa khoái lạc, cái thiện là cái dễ chịu, khao khát, ham muốn tƣơng ứng. Chủ nghĩa tự nhiên lại coi cái thiện là sự vƣợt trội và là sức mạnh của kẻ thống trị. Ở đây chủ nghĩa vi lợi và chủ nghĩa tự nhiên không phải là đáp số cuối cùng, vì cái hữu dụng và cái mạnh chỉ phục vụ cho một mục đích đƣợc xếp đặt nào đó” [5; tr.75 -76]. Điều này thƣờng thấy trong thời đại của Socrates. Trong tƣ tƣởng đạo đức của Socrates thì học thuyết đức hạnh là bộ phận cơ bản nhất. Ông thừa nhận ba đức hạnh cơ bản là tính kiềm chế, lòng dũng cảm và sự công bằng. Ba đức hạnh này hợp lại thành sự thông thái. “Sự thông thái là 14 đức hạnh nói chung và thể hiện khả năng phân biệt cái tốt và cái xấu, cái hữu ích và cái bất dụng, trong đó tính tự chủ là cơ sở cho mọi đức hạnh khác. Thiếu nó thì ngƣời ta không thể sống và làm việc. Lòng dũng cảm là sự biết cách cần khắc phục những mối nguy hiểm một cách khéo léo và mạnh bạo nhƣ thế nào. Việc tuân thủ luật pháp thành văn – cơ sở cho sự thịnh vƣợng của nhà nƣớc – và sự công bằng là tri thức giúp con ngƣời biết tuân thủ luật pháp đó” [14; tr.50]. Socrates coi điều tốt (phúc lợi) là thỏa mãn, hài lòng, coi cái ác là đau khổ. Tất cả mọi ngƣời đều hƣớng đến điều tốt, đến hạnh phúc, tránh cái xấu. Tuy nhiên con ngƣời lại mắc sai lầm khi tìm đến hạnh phúc, và con ngƣời không biết rõ thế nào là hài lòng thực sự. Vì thế con ngƣời cần đến tri thức, cần tri thức dẫn đƣờng đến hạnh phúc. Socrates đặc biệt đề cao tri thức và coi tri thức là nền tảng của đức hạnh. Khi con ngƣời có tri thức thì họ sẽ biết hƣớng đến cái thiện và tránh điều ác. Mọi cái ác, hành vi vô đạo đức đều là do sự kém hiểu biết, do sự dốt nát. Vì vậy con đƣờng đi đến tri thức cũng là con đƣờng hoàn thiện nhân cách đạo đức của con ngƣời. Tuy nhiên con ngƣời tự tìm kiếm tri thức của riêng mình vì vậy họ có đủ sức chống lại những ý kiến của ngƣời khác. Socrates kiên quyết bảo vệ tính độc lập của mỗi cá nhân trƣớc những đánh giá của xã hội. Socrates ủng hộ ngƣời cầm quyền là những ngƣời có tri thức chứ không phải là quý tộc hay những kẻ giàu có. Ông cho rằng nhà nƣớc và luật pháp đứng trên nhất vì vậy mọi ngƣời đều phải tuân thủ luật pháp mà mỗi quốc gia đã ban hành. 1.2.2. Platon Platon (427 - 347 TCN) xuất thân từ tầng lớp quý tộc ở Athen. Ông cho rằng nhà nƣớc phát sinh từ những nhu cầu của con ngƣời. “Trong cuộc sống, con ngƣời luôn tồn tại các nhu cầu cơ bản là lƣơng thực, quần áo và chỗ ở. Không một cá nhân nào có thể tự một mình thỏa mãn đƣợc tất cả những nhu cầu 15 ấy, vì vậy nhà nƣớc đầu tiên sẽ gồm nhiều cá nhân kết hợp với nhau để giúp nhau đáp ứng các nhu cầu này. Nhƣ vậy, Platon là một trong những nhà triết học đầu tiên đƣa ra quan điểm về nguồn gốc tự nhiên của nhà nƣớc. Platon phê phán gay gắt nền dân chủ Athens, và thể hiện rõ ra tƣ tƣởng duy lý hóa nhà nƣớc, cho rằng nền dân chủ Athens nó không dẹp bỏ đƣợc tình trạng vô trật tự, bởi quyền lực nhà nƣớc không dựa trên lý trí mà trên số đông ngu đần, thất học, dẫn đến tình trạng phân tán quyền lực và xé nhỏ luật pháp” [7 ;tr.33 -34]. Platon chủ trƣơng xây dựng một nhà nƣớc lý tƣởng với sự tối thƣợng của luật pháp, mọi công dân phải tuân thủ luật pháp mà nhà nƣớc lý tƣởng đã đề ra. Platon cho rằng sự thay đổi chính quyền này bằng chính quyền khác có hai nguyên nhân. “Thứ nhất là từ tình trạng chiến tranh bắt nguồn từ lòng tham của con ngƣời. Thứ hai là sự tự đào thải của chính các quốc gia khi nó trở nên bất chính” [7; tr.34]. Platon luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức, tri thức của ngƣời cai trị. Ông loại bỏ những kẻ bất tài, bịp bợm ra khỏi chính quyền và lựa chọn những ngƣời tài năng, đức độ để lãnh đạo nhà nƣớc. Platon phân chia xã hội ra làm ba đẳng cấp. Đẳng cấp thứ nhất thuộc về các nhà triết học, các nhà chính trị họ sẽ giải quyết mọi vấn đề quốc gia, họ sở hữu “nghệ thuật làm vua”, đức hạnh phù hợp với họ là sự thông thái. Đẳng cấp thứ hai là những chiến binh chịu trách nhiệm bảo vệ đất nƣớc, đức hạnh phù hợp với họ là lòng dũng cảm. Đẳng cấp thứ ba là nông dân và thợ thủ công họ chịu trách nhiệm tạo ra của cải cho xã hội và phục tùng tầng lớp trên, vì vậy họ cần đến đức hạnh ôn hòa hay kiềm chế. Đức hạnh chung giữa ba tầng lớp này là chính nghĩa. Chính nghĩa đòi hỏi họ phải sống đúng khôn khổ ngành nghề của mình và phục tùng dức hạnh phù hợp. Platon cho rằng thiện hay ác đã có sẵn trong ý niệm của con ngƣời rồi. Chỉ thông qua ý niệm về cái thiện, mọi vật mới là bản thân chúng. Thế giới ý niệm là một hệ thống có cấu trúc phân cấp, trong đó ý niệm bậc thấp hơn phục tùng ý niệm bậc cao hơn. Platon tƣớc đi sở hữu và gia đình của mỗi công dân vì 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan