Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu thuyết di dân việt nam của các nhà văn nữ ở hoa kỳ nhìn từ lý thuyết hậu th...

Tài liệu Tiểu thuyết di dân việt nam của các nhà văn nữ ở hoa kỳ nhìn từ lý thuyết hậu thuộc địa

.PDF
193
170
120

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Kim Trang TIỂU THUYẾT DI DÂN VIỆT NAM CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ Ở HOA KỲ NHÌN TỪ LÝ THUYẾT HẬU THUỘC ĐỊA LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Kim Trang TIỂU THUYẾT DI DÂN VIỆT NAM CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ Ở HOA KỲ NHÌN TỪ LÝ THUYẾT HẬU THUỘC ĐỊA Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VÕ VĂN NHƠN Thành phố Hồ Chí Minh - 2012 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là những thầy cô đã tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập tại trường. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Võ Văn Nhơn, người đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Thầy Đào Trung Đạo, người đã cung cấp rất nhiều tài liệu quý báu để tôi thực hiện đề tài này. Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và phòng Sau Đại học cùng quý thầy cô trong Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo rất nhiều điều kiện để tôi học tập và hoàn thành tốt khóa học. Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn. TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2012 Học viên Trần Thị Kim Trang LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Trần Thị Kim Trang MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục DẪN NHẬP ............................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................... 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................... 8 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8 5. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 9 6. Kết cấu luận văn ............................................................................................. 10 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT HẬU THUỘC ĐỊA ................. 12 1.1. Giới thiệu chung về lý thuyết hậu thuộc địa ........................................... 12 1.2. Các lý thuyết gia tiêu biểu ....................................................................... 23 1.2.1. Edward Wadie Said (1935 – 2003) .................................................. 23 1.2.2. Gayatri Chakravorty Spivak (1942) ................................................. 26 1.2.3. Homi K. Bhabha (1949) ................................................................... 28 1.2.4. Trịnh Thị Minh Hà (1952) ................................................................ 29 1.3. Một số khái niệm chính ........................................................................... 32 1.3.1. Cái khác (Otherness) ........................................................................ 33 1.3.2. Sự bắt chước (Mimicry) ................................................................... 40 1.3.3. Tính lai ghép (Hybridity) ................................................................. 43 Chương 2: VIỆT NAM – HẬU THUỘC ĐỊA VÀ VĂN HỌC DI DÂN ........ 52 2.1. Việt Nam - hậu thuộc địa ........................................................................ 52 2.1.1. Bối cảnh chung thời hậu thuộc ......................................................... 52 2.1.2. Tình hình giới thiệu thuyết hậu thuộc địa ở nước ta ........................ 56 2.2. Văn học di dân Việt Nam ........................................................................ 58 2.2.1. Diện mạo .......................................................................................... 59 2.2.2. Đặc điểm........................................................................................... 65 2.2.3. Những nữ nhà văn di dân gốc Việt thế hệ 1,5 tại Hoa Kỳ ............... 69 Chương 3: TÍNH CHẤT HẬU THUỘC ĐỊA TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT DI DÂN VIỆT NAM CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ Ở HOA KỲ....... 84 3.1. Gia đình và những mối quan hệ bất thường ............................................... 84 3.2. Quá khứ, hiện tại và những kẻ cô đơn ........................................................ 92 3.3. Giải thoát .................................................................................................. 107 3.4. Hành trình tìm lại chính mình .................................................................. 116 3.5. Diễn ngôn của kẻ mạnh ............................................................................ 122 Chương 4: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT ...................................... 134 4.1. Vấn đề thể loại .......................................................................................... 134 4.2. Kiểu nhân vật cô đơn ................................................................................ 138 4.3. Kết cấu theo chiều ngang .......................................................................... 141 4.4. Hình ảnh mang tính biểu tượng ................................................................ 146 4.5. Tiếng Anh – Hồn Việt .............................................................................. 152 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 157 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 161 PHỤ LỤC .................................................................................................................. 1 1 DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Có thể nói, thế kỷ XX đã mở ra một trang mới trong lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học. Vào thời gian này, chúng ta được chứng kiến sự bùng nổ của các trường phái và trào lưu văn học hiện đại với những hiệu quả và thành tựu đáng kể. Các lý thuyết và trào lưu văn học lần lượt nối tiếp nhau ra đời như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa đa đa, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, cấu trúc luận, hậu cấu trúc luận, hậu hiện đại,… đã tạo nên một bức tranh sinh động, muôn màu muôn vẻ chưa từng có trong lịch sử nghiên cứu văn học từ trước đến nay. Đây được xem là những công cụ hỗ trợ đắc lực để khai thác những vấn đề mới mẻ trong văn chương. Con đường tiến tới văn chương không còn là con đường một hướng mà tỏa ra thành nhiều ngã rẽ khác nhau. Từ đây, mảnh đất văn chương được khám phá dưới nhiều góc độ và nhờ đó tạo nên tính đa dạng trong việc tiếp nhận. Điều này đã tác động không nhỏ đến nền lý luận của Việt Nam. Và thực tế, trong nhiều thập niên cuối thế kỉ XX và gần một thập niên đầu thế kỷ XXI, nền lý luận văn học nước ta được khoác lên mình “một chiếc áo mới” – các thành tựu của các trường phái, khuynh hướng và các lý thuyết văn học nước ngoài lần lượt được chuyển dịch, nghiên cứu và vận dụng khá thành công ở nước ta. Đứng trên bình diện lịch sử, Việt Nam là một nước cựu thuộc địa theo đúng nghĩa. Trong khi thuyết hậu thuộc địa ra đời từ khá lâu và đã được nhiều thành tựu đáng kể được cả thế giới biết đến và công nhận, thì thuyết này vẫn là một “ẩn số” đối với giới nghiên cứu ở nước ta. Phần lớn những bài nghiên cứu về vấn đề hậu thuộc địa ở Việt Nam còn rất tản mạn, sơ sài, có nhiều thiếu sót, chưa đem đến cho người đọc một cái nhìn toàn diện về lý thuyết này. Vì vậy, đây là mảnh đất màu mỡ và đầy mới mẻ để chúng tôi khám phá. Thứ hai, trong những năm gần đây, sự xuất hiện của một dòng văn học mới đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả – Những sáng tác của các nhà văn hải 2 ngoại. Ở nước ta, các tác phẩm của các tác giả di dân được viết bằng tiếng mẹ đẻ đã được xuất bản như: Đi hết đường mưa (Phạm Hải Anh), China Town (Thuận), Và khi tro bụi (Đoàn Minh Phượng), Oxford thương yêu (Dương Thụy), Phù phiếm truyện (Phan Việt),… xa hơn một chút có Sông Côn mùa lũ và Mùa biển động (Nguyễn Mộng Giác),… Bên cạnh đó, còn có những tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ thứ hai (chưa được dịch và giới thiệu nhiều ở Việt Nam) chẳng hạn: The Boat (Con thuyền) (đã có ấn bản tiếng Việt) của Nam Lê, Vu khống và Chơi với lửa (đã có ấn bản tiếng Việt) của Linda Lê, The Book of Salt (Sách muối) và Bitter in the Mouth (Đắng miệng) của Monique Truong, The Gangster We Are All Looking For (Tên du đãng mà tất cả chúng tôi đang tìm kiếm) của le thi diem thuy (tên cô luôn được viết thường và không dấu, điều này sẽ được lý giải ở phần sau), Grass Roof, Tin Roof (Mái tranh, mái tôn) của Dao Strom, Stealing Buddha’s Dinner (Ăn trộm đồ cúng của Phật) và Short Girls (Những cô gái thấp) của Bich Minh Nguyen,… xa hơn một chút có Cô bé lai da trắng (đã có ấn bản tiếng Việt) của Kim Lefèvre,… Trong đó, người viết nhận thấy rằng, các tác phẩm của các nhà văn nữ di dân ở Hoa Kỳ chiếm một số lượng lớn và nội dung phong phú hơn cả. Đây cũng chính là đối tượng mà chúng tôi muốn hướng đến trong luận văn này. Thứ ba, trong không khí sôi sục của thời đại, các nước cùng chung tay xây dựng thế giới hòa bình. Thế giới kêu gọi toàn cầu hóa, đa phương hóa, xuyên quốc gia… Trong quá trình hội nhập ấy, Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung. Việt Nam trên đường ra biển lớn với mục tiêu “hòa nhập mà không hòa tan”, nghĩa là hội nhập nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của dân tộc. Bản sắc và hội nhập là vấn đề mà các lý thuyết gia hậu thuộc địa quan tâm. Điều này mở ra một hướng đi thú vị và khá mới mẻ trong nghiên cứu văn hóa nói chung và văn học Việt Nam nói riêng. Từ những lý do trên, chúng tôi đi đến quyết định sử dụng lý thuyết hậu thuộc địa như là chìa khóa để mở cánh cửa bí ẩn của nền văn học Việt Nam, cụ thể là dòng văn học di dân và điều đó được kết tinh thành đề tài “Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ ở Hoa Kỳ nhìn từ lý thuyết hậu thuộc địa”. 3 2. Lịch sử nghiên cứu Như trên đã nói, lý thuyết hậu thuộc địa vẫn còn là một “ẩn số” đối với nước ta. Những bài nghiên cứu về các vấn đề của thuyết này đa phần chỉ mang tính chủ quan, khá rời rạc và chưa thành hệ thống nên chưa giúp chúng ta có được cái nhìn toàn diện và bao quát. Bên cạnh đó, văn học di dân là một dòng văn học khá mới mẻ và mới “nổi” ở nước ta trong những năm gần đây, hơn nữa, nó vẫn đang ở bước đầu xác lập vị trí của mình trên văn đàn dân tộc nên chưa được sự quan tâm của độc giả trong nước. Bốn tác phẩm chúng tôi khảo sát trong luận văn này đều được viết bằng tiếng Anh và chưa được phát hành ở Việt Nam, đây cũng là khó khăn và cũng là thách thức của chúng tôi khi bắt tay vào thực hiện đề tài này. Chúng tôi đã thu thập được một số các bài viết và các công trình nghiên cứu có liên quan như sau: Về lý thuyết hậu thuộc địa Ngoài nước: Trong cuốn Postcolonialism: A Very Short Introduction (Lý thuyết hậu thuộc địa: Giới thiệu rất ngắn gọn), do Đại học Oxford ấn hành, 2003, Robert J. C. Young đã nêu ra 7 vấn đề chính liên quan đến thuyết hậu thuộc địa sau đây: Tri thức của tầng lớp dưới, Lịch sử và quyền lực, Không gian và đất đai, Tính chất lai, Nữ quyền hậu thuộc địa, Toàn cầu hóa nhìn từ quan điểm hậu thuộc địa, Dịch thuật. Robert Young đã khai thác những di sản của chủ nghĩa thực dân trên các phương diện chính trị, văn hóa, xã hội ở các nước hậu thuộc, các cuộc đấu tranh chống thực dân và văn hóa thống trị phương Tây,… Ngoài ra, ông còn phân tích những vấn đề của thuyết hậu thuộc địa thông qua các ví dụ cụ thể về văn hóa, lịch sử, chẳng hạn như thực trạng của những người dân bản địa, quá trình du nhập văn hóa, nữ quyền phương Tây,… Bên cạnh đó, các tác phẩm của các lý thuyết gia hậu thuộc địa nổi tiếng như Edward Said, Homi Bhabha, Frantz Fanon, Gayatri Spivak,… cũng được ông đưa ra phân tích và đánh giá. Tuy nhiên các khái niệm cũng như các vấn đề của thuyết hậu thuộc địa chưa được ông đi sâu phân tích 4 nhưng tác phẩm này đã đem đến cho chúng tôi nền tảng căn bản khi bước đầu thực hiện đề tài. Cuốn Woman, Native, Other (Phụ nữ, Bản địa, Cái khác) (NXB University Press, 1989) của Trịnh Thị Minh Hà đã giúp chúng tôi hiểu thêm về một bộ phận của thuyết hậu thuộc địa – Nữ quyền hậu thuộc địa. Trong tác phẩm này, trên cơ sở chỉ ra những khiếm khuyết tồn tại trong nữ quyền phương Tây, bà đã cho chúng ta thấy được những mất mát, thiếu hụt của người phụ nữ thế giới thứ ba so với phụ nữ da trắng. Ngoài ra, bà còn đặt người phụ nữ trong tương quan với người đàn ông ở nền văn hóa họ đang sống và đàn ông thực dân, bà phản đối kịch liệt việc định nghĩa bản sắc của người phụ nữ dựa trên bản sắc của đàn ông. Từ đó, bà kêu gọi trao trả lại vị trí vốn có cho người phụ nữ. Bên cạnh đó, nguồn tài liệu hỗ trợ đắc lực cho nghiên cứu của chúng tôi còn là những trang web nước ngoài đáng tin cậy. Có thể nói, nhờ những trang web này mà chúng tôi có thêm thông tin, mặc dù rất ít ỏi nhưng đó là tài liệu quý báu giúp chúng tôi hoàn thành luận văn này. Chẳng hạn như: + http://en.wikipedia.org/wiki/Postcolonialism: Giới thiệu một cách khái quát và ngắn gọn về khái niệm, mục tiêu, đối tượng, các lý thuyết gia tiêu biểu, các công trình nghiên cứu quan trọng về lý thuyết hậu thuộc địa. + http://faculty.pittstate.edu của Đại học Pittsburg State: Nêu ra những thuật ngữ, khái niệm, định nghĩa xoay quanh lý thuyết hậu thuộc địa, hơn nữa, còn đưa ra những cách tiếp cận, các bài tiểu luận, nghiên cứu của các lý thuyết gia nổi tiếng về thuyết này như Edward Said, Homi Bhabha, Gayatri Spivak, Frantz Fanon,… Ngoài ra còn có nhiều trang web riêng của các tác giả, các lý thuyết gia và nhiều trang web khác có liên quan. Trong nước: Các bài viết đáng lưu ý như: Trong cuốn Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX của Phương Lựu, trong chương 22 với tựa đề Phê bình xã hội – chính trị, tác giả đã đề cập tới 5 “Phê bình Hậu thực dân”. Trong bài viết này, tác giả đã đem đến cho chúng ta cái nhìn ban đầu khái quát về thuyết hậu thuộc địa, chẳng hạn như hoàn cảnh ra đời của thuyết này, phân tích những công trình tiêu biểu của các tác gia hậu thuộc địa đi trước, vạch trần những thủ đoạn mới về văn hóa của chủ nghĩa thực dân... Tuy nhiên, bài viết chỉ mới dừng lại ở việc giới thiệu sơ lược. Bài viết “Nghiên cứu hậu thực dân ở Việt Nam” của Đoàn Ánh Dương đi theo trình tự như sau: Giải thích thuật ngữ “Hậu thực dân” (theo cách dịch của tác giả), đưa ra những nguyên nhân dẫn đến việc “vắng bóng” các nghiên cứu hậu thuộc địa ở Việt Nam, giới thiệu sơ lược về tình hình giới thiệu và thực hành nghiên cứu hậu thuộc địa ở nước ta, sau đó đi đến kết luận: “Nghiên cứu hậu thực dân ở Việt Nam dù có chuyển động nhưng vẫn thưa thớt, chậm chạp, chưa tương xứng với tiềm năng của lý thuyết” [23], cuối cùng, tác giả đưa ra những khả tính trong việc nghiên cứu hậu thuộc địa ở nước ta. Nguyễn Hưng Quốc có các bài nghiên cứu về vấn đề này như “Chủ nghĩa hậu thực dân”, “Tính chất lai ghép trong văn học Việt Nam”, “Tính chất thuộc địa và hậu thuộc địa trong văn học Việt Nam”. + Trong “Chủ nghĩa hậu thực dân”, Nguyễn Hưng Quốc trình bày nguyên nhân hình thành lý thuyết hậu thuộc địa, tính chất thiếu thống nhất của thuyết này ở tên gọi cũng như không gian và thời gian. Ngoài ra, tác giả còn nêu ra (nhưng không phân tích) hai khái niệm quan trọng của thuyết hậu thuộc địa là Cái khác và Tính chất đề kháng. + Trong “Tính chất lai ghép trong văn học Việt Nam”, tác giả đi sâu phân tích một khái niệm quan trọng của thuyết hậu thuộc địa – Tính lai ghép. Trong bài viết này, Nguyễn Hưng Quốc đã nêu khái niệm, lịch sử hình thành khái niệm, các lĩnh vực mà tính lai ghép được vận dụng (như ngôn ngữ, văn học, văn hóa,…), các lý thuyết gia tiêu biểu, nêu ra các quan điểm của hai lý thuyết gia nổi tiếng về vấn đề này như Homi Bhabha, García Canclini. Sau đó, tác giả làm rõ tính lai ghép trong văn học Việt Nam từ trước đến nay và kết luận “Sự lai ghép ở đầu kỷ XX 6 nhanh chóng trở thành truyền thống của dân tộc” [43], đồng thời đưa ra ba lý do để giải thích: sách báo, sự phát triển của thương mại, vai trò của giao thông (và sau đó là sự chuyển động dân số). Cuối cùng, ông đề cập đến vai trò của lai ghép đối với văn học trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay và đưa ra dẫn chứng (và phân tích) là cộng đồng lưu vong. + Trong “Tính chất thuộc địa và hậu thuộc địa trong văn học Việt Nam”: Mở đầu, tác giả nêu ra bản chất của chủ nghĩa thực dân, sau đó tái hiện lại chủ nghĩa thực dân ở nước ta qua các thời kỳ và đi đến khẳng định “Không đâu tính chất hậu thuộc địa lại được thể hiện rõ rệt cho bằng văn học trung đại Việt Nam” [45]. Lê Thị Vân Anh với “Tính chất nước đôi của chủ thể hậu thuộc địa trong Vu khống của Linda Lê” và “Tính chất nước đôi và mầm mống phá hủy nhãn quan về Việt Nam tính trong bộ phim Đông Dương”. Ở hai bài viết này, dựa trên một thuộc tính của thuyết hậu thuộc địa – tính chất nước đôi, Vân Anh đã đi sâu phân tích biểu hiện của thuộc tính này trong tác phẩm Vu khống của Linda Lê và trong bộ phim Đông Dương. Các bài viết trên đã giúp chúng tôi phần nào nắm bắt được những vấn đề cơ bản của thuyết hậu thuộc địa như nguyên nhân, lịch sử hình thành, các tác gia tiêu biểu cũng như các khái niệm quan trọng của thuyết này,… Về văn học di dân Việt Nam Trong “Văn chương di dân viết về quê hương từ bên ngoài”, Đào Trung Đạo đưa ra ba câu hỏi và lần lượt giải trình chúng: Thứ nhất, đối tượng của nhà văn di dân? Thứ hai, từ một khoảng cách xa ngoài quê hương, thực tại mô tả trong những tác phẩm di dân có tính trung thực so với sự mô tả thực tại đó của những người viết đang sinh sống ở quê nhà hay không? Thứ ba, là di dân dĩ nhiên ẩn chứa tính lai ghép về văn hóa, vậy các nhà văn di dân đứng ở vị trí nào để viết? Từ đó, tác giả xác định đối tượng của văn học di dân là không giới hạn (kể cả trong và ngoài nước), nội dung của những tác phẩm này chủ yếu viết về quá khứ bằng 7 những kinh nghiệm thực mà tác giả đã trải qua và khẳng định các nhà văn di dân không viết dưới áp lực nguy hiểm trong khí hậu chính trị áp đảo, hoặc thị trường, sau đó nêu ra các ưu điểm của dòng văn học này và đi đến kết luận “Nhà văn di dân là người có nhiều hy vọng nhất sẽ có thể đem lại cho người đọc mình cái nhìn lạc thú tinh thần của văn chương, vốn là thứ thật hiếm hoi trong thế giới hôm nay” [27]. Phần tiếp theo, tác giả lấy tác phẩm “Đợi chờ” (Waiting) của Hà Tân (một nhà văn di dân người Mỹ gốc Trung) để làm rõ hơn cho quan điểm của mình. Trong “Văn chương vô xứ”, Linda Lê (Đào Trung Đạo dịch và giới thiệu) đã giải thích một cách cặn kẽ khái niệm “Văn chương vô xứ” dựa trên hai luận điểm: Thứ nhất, đó là một thứ văn chương cưu mang trong mình một “hình hài” thứ hai của chính mình; thứ hai, “Văn chương vô xứ” không tìm được sở cứ, một chỗ, một nơi chốn cho mình. Vấn đề mà Linda Lê đề cập nhiều nhất trong bài viết này là sức ám ảnh về ngôn ngữ (đối với những tác phẩm viết bằng ngôn ngữ thứ hai), từ đó đi sâu phân tích đặc điểm này. “Nhà/Quê nhà trong văn chương vô xứ Việt Nam”, Đào Trung Đạo đã giải thích khái niệm “Văn chương vô xứ”, so sánh sự khác biệt giữa “Văn chương vô xứ” và “Văn chương lưu đày”, sau đó đi tìm hiểu vấn đề chính – khái niệm “Nhà/Quê nhà” và nội dung khái niệm này trong các tác phẩm viết bằng tiếng Việt, bằng Pháp văn và bằng Anh văn. Ngoài ra, còn có các bài giới thiệu khái quát về các tác phẩm mà chúng tôi khảo sát trong luận văn này của các tác giả như Đào Trung Đạo trên trang web gioo.com với bài viết “Ăn trộm đồ cúng Phật của Bich Minh Nguyen”, “Đọc The Gangster We Are All Looking For của lê thị diễm thúy”, “Đọc The Book of Salt của Monique Trương”; Trần Hữu Dũng trên trang viet-studies.com với “Đọc Book of Salt của Monique Trương”, “Đọc lê thị diễm thúy – The gangster we are all looking for”,… Có thể nói, các bài viết trên giúp người viết có được cái nhìn tổng quan về khái niệm, diện mạo, đặc điểm của văn học di dân nói chung và văn học di dân 8 Việt Nam nói riêng từ trước đến nay, cũng như hiểu thêm về giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm cần phân tích. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Lý thuyết hậu thuộc địa và tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ ở Hoa Kỳ là hai đối tượng trọng tâm mà luận văn muốn hướng đến. Cần nói thêm, vì giới hạn về mặt thời gian, nên phạm vi nghiên cứu của chúng tôi chỉ giới hạn ở một thể loại – đó là tiểu thuyết, vì theo quan điểm của chúng tôi, thể loại này đã đạt được một số thành tựu nhất định và khá phổ biến trong dòng văn học di dân hơn so với các sáng tác ở các thể loại khác cùng thời (như truyện ngắn, thơ, tiểu luận,…). Một số tiểu thuyết di dân nổi bật của các nhà văn nữ người Mỹ gốc Việt tiêu biểu ở Hoa Kỳ được khảo sát trong luận văn này là: - The Book of Salt (Sách muối) của Monique Truong, Houghton Mifflin Company, 2003. - The Gangster We Are All Looking For (Tên du đãng mà tất cả chúng tôi đang tìm kiếm) của le thi diem thuy, Alfred A. Knof, 2003. - Grass Roof, Tin Roof (Mái tranh, mái tôn) của Dao Strom, Houghton Mifflin Company, 2003. - Stealing Buddha’s Dinner (Ăn trộm đồ cúng của Phật) của Bich Minh Nguyen, Viking Penguin, 2007. Các nhà văn có tác phẩm khảo sát trong luận văn này đều là những nhà văn di dân thuộc thế hệ 1,5, là thế hệ sinh ra ở Việt Nam, sau đó rời khỏi quê hương sau ngày 30/4/1975 để tới định cư ở Hoa Kỳ và trưởng thành tại đây. Tác phẩm của họ có được một vị trí nhất định trên văn đàn và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả cả trong và ngoài nước. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 9 + Phương pháp lịch sử - xã hội: đặt đối tượng cần nghiên cứu trong bối cảnh lịch sử - xã hội cụ thể (trước và sau chủ nghĩa thực dân) để tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự hình thành đặc trưng của đối tượng, đặc biệt nhấn mạnh đến di sản hậu thuộc địa. + Phương pháp phân tích – tổng hợp: Trước hết, chúng tôi dùng phương pháp phân tích để đi sâu vào tìm hiểu từng tác phẩm của các tác giả trên cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật. Sau đó, sắp xếp, tổng hợp lại một cách có hệ thống để có cái nhìn toàn diện và logic hơn. + Phương pháp so sánh: đặt đối tượng nghiên cứu trong tương quan so sánh với các đối tượng khác để làm bật lên những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng. Chẳng hạn, cùng nghiên cứu về đối tượng là phụ nữ, nhưng nữ quyền hậu thuộc địa lại có nhiều ưu điểm hơn so với nữ quyền phương Tây, hoặc so sánh diễn ngôn hậu thuộc địa với diễn ngôn thực dân… + Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Không chỉ xem xét đối tượng trong phạm vi văn học, mà còn khám phá nó dưới nhiều góc độ khác nhau như: lịch sử, văn hóa, dân tộc học, tâm lý học,… để thấy được tính chất bao quát của đối tượng. + Phương pháp nghiên cứu từ góc nhìn lý thuyết hậu thuộc địa: Dùng lý thuyết hậu thuộc địa làm công cụ hỗ trợ đắc lực để khám phá các tác phẩm văn học di dân về nội dung cũng như về nghệ thuật. 5. Đóng góp của luận văn Khi bắt tay vào thực hiện luận văn này, những vấn đề xoay quanh đề tài thực sự mới mẻ đối với chúng tôi, nhưng với tinh thần cầu tiến, chúng tôi đã vượt qua những khó khăn tạm thời để hoàn thành nó. Vì vậy, qua đề tài này, chúng tôi có những mong muốn như sau: Trước hết, từ việc thu thập những bài viết tản mạn của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đã tổng hợp và đem đến một cái nhìn có hệ thống và khái quát hơn về lý thuyết hậu thuộc địa – một lý thuyết khá mới mẻ ở nước ta - thông qua những 10 vấn đề cơ bản nhất như lịch sử hình thành, các lý thuyết gia tiêu biểu và một số khái niệm chính. Thứ hai, chúng tôi mong muốn đem đến một tri thức mới về văn học di dân một dòng văn học mới mẻ ở nước ta và đang xác lập vị trí trên văn đàn dân tộc thông qua việc nêu ra diện mạo, đặc điểm cũng như những tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong dòng văn học này. Ngoài ra, chúng tôi còn mong muốn mọi người sẽ gạt bỏ những thiên kiến chủ quan trước đây để đón nhận những tác phẩm này một cách nồng nhiệt trên tinh thần thâu nhận những vấn đề mới mẻ về văn chương. Thứ ba, bốn tác phẩm di dân của những nhà văn có tên tuổi hiện nay Monique Truong, le thi diem thuy, Dao Strom, Bich Minh Nguyen chưa được phát hành ở Việt Nam, vì vậy, trong luận văn, chúng tôi cố gắng giới thiệu cô đọng về nội dung cũng như nghệ thuật của các tác phẩm trên. Cuối cùng, bằng việc phân tích tác phẩm từ góc nhìn của lý thuyết hậu thuộc địa, chúng tôi mong muốn đem đến một hướng đi mới mẻ trong việc tiếp cận văn chương. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi không tránh khỏi chủ quan và thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được sự đóng góp của những người có cùng mối quan tâm. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn của chúng tôi được chia thành 4 chương chính: Chương 1: Giới thiệu chung về lý thuyết hậu thuộc địa: Giới thiệu sơ lược về lý thuyết hậu thuộc địa như lịch sử hình thành, mục tiêu của lý thuyết, những thành tựu mà lý thuyết này đã đạt được, cùng với việc giới thiệu những lý thuyết gia tiêu biểu (Edward Wadie Said, Gayatri Chakravorty Spivak, Homi K. Bhabha, Trịnh Thị Minh Hà) và ba khái niệm chính (Cái khác, Sự bắt chước, Tính lai ghép). 11 Đây là phần giới thiệu hết sức giản lược nhưng có thể xem là kết quả của những nỗ lực của chúng tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài này. Chương 2: Việt Nam – hậu thuộc địa và Văn học di dân: Mô tả sơ lược về Việt Nam thời kỳ hậu thuộc và tình hình giới thiệu lý thuyết hậu thuộc địa ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, chúng tôi còn tập trung khảo sát diện mạo và đặc điểm của văn học di dân, đồng thời điểm tên những tác giả và tác phẩm trong dòng văn học hải ngoại Việt Nam viết bằng ngôn ngữ thứ hai, với mục đích đặt đối tượng vào phạm vi không – thời gian mà luận văn đang đề cập đến. Đồng thời, xem xét Việt Nam và những tác phẩm di dân của các nhà văn nữ gốc Việt thế hệ 1,5 ở Hoa Kỳ như là những chủ thể của thời kỳ hậu thuộc. Chương 3: Tính chất hậu thuộc địa trong tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ ở Hoa Kỳ: Tập trung phân tích các tác phẩm vừa nêu trên dưới cái nhìn của lý thuyết hậu thuộc địa với năm nội dung chính: Gia đình và mối quan hệ bất thường, Quá khứ, hiện tại và những kẻ cô đơn, Giải thoát, Hành trình tìm lại chính mình và Diễn ngôn của kẻ mạnh. Chương 4: Một số vấn đề về nghệ thuật trong bốn tác phẩm trên như Vấn đề thể loại, Kiểu nhân vật cô đơn, Kết cấu theo chiều ngang, Hình ảnh mang tính biểu tượng và Tiếng Anh – Hồn Việt. 12 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT HẬU THUỘC ĐỊA 1.1. Giới thiệu chung về lý thuyết hậu thuộc địa Trong suốt thời gian cai trị của chế độ thực dân, các nước thuộc địa đã đấu tranh chống lại sự thống trị của chúng bằng nhiều hình thức kể cả chủ động và bị động. Vào thế kỉ XIX, ở cả ba châu lục như châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh, các cuộc phản kháng mới phát triển thành phong trào chính trị chặt chẽ, nhằm đánh đuổi những kẻ thống trị châu Âu đã định cư trên đất nước của họ trong một thời gian dài ra khỏi bờ cõi dân tộc. Trải qua các cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, cuối cùng, họ đã giành thắng lợi vẻ vang trên khắp các mặt trận quân sự vào thế kỷ XX. Khi chủ quyền cuối cùng đã đạt được, các quốc gia này chuyển từ tình trạng thuộc địa sang tự trị hậu thuộc địa. Như mọi người thường quan niệm, sự độc lập về chính trị sẽ kéo theo độc lập về văn hóa, vì hai phạm trù này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và không thể tách rời. Tuy nhiên, sau khi giành được độc lập về chính trị, các nước thuộc địa phải đương đầu với hàng loạt các khó khăn. Một trong những khó khăn mà họ vấp phải chính là nền văn hóa dân tộc chịu ảnh hưởng khá sâu đậm từ nền văn hóa thống trị của thực dân trong một thời gian dài, những giá trị văn hóa truyền thống một thời đã bị phai mờ dưới chế độ cai trị của thực dân. Điều này cản trở rất lớn việc tạo dựng nền văn hóa độc lập, bình đẳng của các quốc gia hậu thuộc. Từ thực trạng trên, song song với việc củng cố lại các lĩnh vực khác như chính trị, xã hội, kinh tế,… các nước thuộc địa bắt tay ngay vào hành trình “tự định nghĩa về văn hóa”. Từ đó, nghiên cứu bản sắc của các nước cựu thuộc địa trở thành đề tài nóng bỏng nhất mọi thời đại. Nhưng để xác định được hướng đi đúng đắn, cần có một “kim chỉ nam” phù hợp. Một thực tế đáng lưu tâm bấy giờ đó là các lý thuyết phương Tây trước đó chiếm vị trí độc tôn trong công tác nghiên cứu thì giờ đây nó lại không thể giúp họ khai thác hết các tính chất phức tạp cũng như những tiềm năng ẩn giấu bên trong nền văn hóa của các nước cựu thuộc địa. Thực tế đó 13 thôi thúc các nhà nghiên cứu phải tìm ra một dạng thức mới phù hợp với hoàn cảnh hiện tại hơn. Đứng trước yêu cầu cấp thiết đó, các lý thuyết gia không thể “ngoảnh mặt làm ngơ”, họ bắt đầu “xông trận”. Mặc dù đến từ khắp các quốc gia trên thế giới nhưng Edward Said (Palestine), Gayatri Chakravorty Spivak và Homi K. Bhabha (Ấn Độ), Frantz Fanon (Martinique – trước đây là thuộc địa của Pháp và bây giờ đã được sát nhập vào nước Pháp), Trịnh Thị Minh Hà (Việt Nam), Ian Adam (Canada), Helen Tiffin (Úc),… đã gặp nhau ở một lý tưởng chung: xây dựng nên chủ nghĩa hậu thuộc địa. Một điều đáng lưu ý là các lý thuyết gia này hầu hết đến từ các nước thuộc địa và thuộc địa định cư trước đó. Có thể nói, điều này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc tháo gỡ những khúc mắc của việc nghiên cứu văn hóa hậu thuộc địa nói chung và sự tồn vong của bản sắc dân tộc nói riêng. Những người đặt nền móng đầu tiên cho lý thuyết hậu thuộc địa có thể kể đến như Aimé Césaire với Discourse on Colonialism (Diễn ngôn về chủ nghĩa thực dân) (1950), Frantz Fanon với hai tác phẩm Black Skin, White Masks (Da đen, mặt nạ trắng) (1952) và The wretched of the Earth (Những khốn khổ trên trái đất) (1961), Albert Memmi với The Colonizer and the Colonized (Thực dân và thuộc địa) (1965)… Từ những nền tảng vững chắc đó, lý thuyết hậu thuộc địa tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trong lịch sử nhân loại. Nhắc đến lý thuyết hậu thuộc địa không thể không nhắc tới Edward Said (1935 – 2003). Tác phẩm làm nên tên tuổi của ông là cuốn Orientialism (Đông phương học) (được xuất bản vào năm 1978). Trong tác phẩm này, Said đã giải mã quyền lực giữa phương Đông và phương Tây thông qua các hình thức diễn ngôn, từ đó, vạch trần bản chất thâm độc của chủ nghĩa thực dân. Ngoài ra, ông còn dùng Đông phương học để bác bỏ Đông phương học của các chính trị gia phương Tây trước đó (điều này sẽ được làm rõ hơn ở phần sau). Đây có thể được xem là một bước đột phá quan trọng của lý thuyết hậu thuộc địa từ trước đến nay. Nhờ vậy, ông được giới học thuật xem là ông tổ của thuyết hậu thuộc địa và công trình vĩ đại của 14 ông đã tạo ra nhiều cảm hứng sáng tác cho các học giả suốt hơn hai thập kỷ sau đó: Gayatri Chakravorty Spivak với The Postcolonial Critic (Phê bình hậu thuộc địa) (1990), Homi K. Bhabha với The Location of Culture (Vị trí của nền văn hóa) (1994), Iain Chambers, Lidia Curti với The Post-colonial Question (Câu hỏi về hậu thuộc địa) (1996), Leela Gandhi với Postcolonial Theory: A Critical Introduction (Lý thuyết hậu thuộc địa: Một sự giới thiệu mang tính chất phê bình) (1998), Robert J. C. Young với Postcolonialism: A very short introduction (Thuyết hậu thuộc địa: Giới thiệu ngắn gọn) (2001), La Paperson với The Postcolonial Ghetto (Người da đen hậu thuộc địa) (2010),… Trước khi thuật ngữ “hậu thuộc địa” ra đời, người ta dùng “Khối thịnh vượng chung” (Commonwealth) và “Thế giới thứ ba” (Third World) để chỉ chung cho các nước cựu thuộc địa đương thời. Sau này, nhờ sự củng cố lại của ba tác giả Bill Ashcroft, Gareth Griffiths và Helen Tiffin (trong cuốn The Empire Writes Back: Theory and Practice in Post-Colonial Literatures (Đế chế viết lại: Lý thuyết và thực tiễn trong văn học hậu thuộc địa) (1989), thuật ngữ “hậu thuộc địa” được sử dụng một cách rộng rãi hơn và dần thay thế cho cả hai thuật ngữ trước đó. Từ những năm 1980, hậu thuộc địa đã đưa ra một văn bản nhằm thay đổi những cách hiểu thống trị về mối quan hệ giữa phương Tây (Western) và phi phương Tây (non – Western). Trước đây, thế giới phương Đông chỉ được nhìn nhận qua lăng kính chủ quan của phương Tây. Do đó, thế giới phương Đông chỉ là những hình ảnh bị bóp méo, xuyên tạc, sai sự thật. Khi người phương Tây nhìn vào thế giới phi phương Tây thì những gì họ thấy thường là một hình ảnh phản chiếu của bản thân và các giả định của riêng họ hay cái cách mà họ cảm nhận và nhận thức về mình luôn có một vị trí cao hơn so với những gì có trên thực tế. Chính vì vậy, điều này được hậu thuộc địa đưa ra xem xét và đánh giá lại. Việc làm ấy mang lại một ý nghĩa nhất định, đó là sẽ làm đảo ngược trật tự thế giới. Trong cuốn Postcolonialism: A Very Short Introduction (Thuyết hậu thuộc địa: Giới thiệu ngắn gọn), Robert J. C. Young đã viết : “Nếu bạn là một người
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan