Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thượng kinh ký sự (lê hữu trác) dưới góc nhìn thể loại...

Tài liệu Thượng kinh ký sự (lê hữu trác) dưới góc nhìn thể loại

.PDF
71
228
81

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ------------------------ LÊ THỊ MAI HIÊN “THƯỢNG KINH KÝ SỰ” (LÊ HỮU TRÁC) DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận Văn học HÀ NỘI, 2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ------------------------ LÊ THỊ MAI HIÊN “THƯỢNG KINH KÝ SỰ” (LÊ HỮU TRÁC) DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC LỜI CẢM ƠN Chuyên ngành: Lí luận Văn học Trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp: Thượng kinh ký sự Người hướng dẫn khoa học: (Lê Hữu Trác) dưới góc nhìn thể loại, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô TS. MAI THỊ HỒNG TUYẾT giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy suốt thời gian học tập, nghiên cứu và rèn luyện ở khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2. HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp: “Thượng kinh ký sự” (Lê Hữu Trác) dưới góc nhìn thể loại, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy suốt thời gian học tập và rèn luyện ở khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Tôi xin đặc biệt tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Mai Thị Hồng Tuyết, người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết để giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này. Cuối cùng, tôi xin được cảm ơn gia đình, bạn bè những người luôn động viên, khích lệ tôi trong thời gian học tập và hoàn thành khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 9 tháng 5 năm 2016 Người viết Lê Thị Mai Hiên LỜI CAM ĐOAN Dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình của TS. Mai Thị Hồng Tuyết, sau một thời gian cố gắng tôi đã hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp: Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác) dưới góc nhìn thể loại. Tôi xin cam đoan các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực, không trùng lặp với các đề tài khác. Trong khóa luận có sử dụng những nhận xét, đánh giá cũng như các số liệu của các tác giả khác đều có những thông tin trích dẫn và được ghi nguồn trích rõ ràng. Hà Nội, Ngày 9 tháng 5 năm 2016 Người viết Lê Thị Mai Hiên MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 6 6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 6 7. Bố cục của khóa luận ................................................................................. 6 NỘI DUNG ....................................................................................................... 7 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỂ LOẠI KÝ VÀ KÝ SỰ .......... 7 1.1 Khái quát chung về thể ký ....................................................................... 7 1.1.1. Sự xuất hiện và phát triển của thể ký ở Việt Nam ............................ 7 1.1.2. Một số đặc điểm của thể ký ............................................................ 14 1.1.2.1 Ký ghi chép sự thật khách quan và tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả. .................................................................................. 14 1.1.2.2 Những vấn đề mới đặt ra xung quanh vấn đề sự thực trong ký 17 1.1.2.3 Hình thức đa dạng của các thể ký văn học ................................ 21 1.2 Khái quát chung về thể loại ký sự .......................................................... 22 1.2.1. Sự hình thành và phát triển của ký sự trong văn học Việt Nam ..... 22 1.2.2. Một số đặc điểm của thể loại ký sự ................................................ 23 CHƯƠNG 2: THƯỢNG KINH KÝ SỰ DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI........ 27 2.1. Vấn đề sự kiện trong Thượng kinh ký sự .............................................. 27 2.1.1. Sự kiện “thượng kinh” .................................................................... 27 2.1.1.1. Hình tượng bức tranh thế giới qua sự kiện “thượng kinh” ....... 31 2.1.1.2. Sự thật và huyền thoại trong Thượng kinh kí sự....................... 41 2.2. Hình tượng tác giả trong Thượng kinh kí sự ......................................... 46 2.2.2. Một số đặc điểm của hình tượng tác giả qua Thượng kinh ký sự ... 52 2.2.2.1 Nhân cách cao cả của Hải Thượng Lãn Ông ............................. 52 2.2.2.2 Vấn đề “tính tự mê” ở cái “tôi” tác giả...................................... 57 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ký văn học là loại thể có một vị trí quan trọng trong nền văn xuôi Việt Nam. Với những đặc điểm và khả năng nổi trội của mình, nó đã lôi cuốn, khơi gợi được lòng tin nơi độc giả bằng việc phản ánh chân thật hiện thực đời sống. Ký đã khám phá sâu sắc về đối tượng được miêu tả, đề xuất được những tư tưởng, quan niệm có ý nghĩa đối với đời sống hiện thực vừa chạm đến chiều sâu cảm xúc của con người… Ký là nơi gặp gỡ của nhiều nhân tố: trí tuệ và cảm xúc, sự thật cuộc sống và giá trị nghệ thuật đích thực… Ký sự là một thể loại của ký, thường ghi chép về những sự kiện, những câu chuyện. Ký sự ra đời từ rất sớm, nó không chỉ là những ghi chép thông thường mà còn phản ánh những vấn đề mang tầm vóc rộng lớn. Với ký sự người viết có thể bộc lộ một cách trực diện, rõ ràng về bản thân, cũng như ghi lại các sự kiện diễn ra trong thực tế. Tiếp cận ký sự dưới góc nhìn thể loại có thể nói là một hướng đi phù hợp với nghiên cứu văn học hiện nay. Một mặt nó giúp ta tìm hiểu đặc trưng của thể ký dưới một góc nhìn mới; mặt khác dựa trên lí thuyết của đặc trưng thể loại ta có thể lí giải những hiện tượng văn học ký tưởng chừng đã quá quen thuộc với độc giả từ lâu. Với ý nghĩa ấy, có thể nói hướng tiếp cận này hứa hẹn sẽ mang lại nhiều khám phá mới trong nghiên cứu thể loại ký. Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác là một tác phẩm văn học đặc sắc. Tác phẩm được đánh giá là đỉnh cao của thể ký trung đại Việt Nam và đánh dấu bước phát triển mới trong văn xuôi tự sự trung đại. Thượng kinh ký sự được coi là “Tác phẩm ký nghệ thuật đích thực, đầu tiên của Việt Nam” [32; tr.435]. Tác phẩm mang một tầm vóc lớn, không chỉ ở góc độ giá trị văn học, lịch sử, bảo lưu văn hóa dân tộc mà còn có giá trị giáo dục to lớn vì vậy mà nó được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Việc nghiên cứu tác phẩm dưới 1 góc nhìn thể loại sẽ giúp độc giả có cái nhìn mới về những nét độc đáo trong Thượng kinh ký sự; sẽ góp phần khẳng định giá trị của tác phẩm cũng như vị trí của Lê Hữu Trác – một danh y lỗi lạc, một nhà thơ, nhà văn tài hoa trong nền văn học trung đại Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề Thượng kinh ký sự - Lê Hữu Trác được nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na đánh giá là “Một thiên tùy bút hiếm có, một đỉnh cao của thể ký trung đại, là tác phẩm ký nghệ thuật đích thực, đầu tiên của Việt Nam” [32;tr.435]. Ra đời vào cuối thế kỉ XVIII, Thượng kinh ký sự là một bức tranh sinh động về xã hội phong kiến đương thời. Tác phẩm không chỉ ghi chép về sự kiện “thượng kinh” mà còn thể hiện được cái nhìn thế sự, cảm xúc của chính tác giả Lê Hữu Trác. Nghiên cứu Thượng kinh ký sự là một đề tài nhận được sự quan tâm chú ý từ giữa thế kỉ XX. Vì vậy mà đã có một số công trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm này: Một số bài báo nghiên cứu về tác phẩm Thượng kinh ký sự xuất hiện trên những tạp chí khoa học chuyên ngành như: + “Mấy suy nghĩ về thơ văn Lê Hữu Trác” (1964) của Nguyễn Huệ Chi, Tạp chí Văn học số 9. + “Lê Hữu Trác và con đường của một người tri thức trong cơn phong ba dữ dội nửa cuối thế kỉ XVII” (1970) của Nguễn Huệ Chi, Tạp chí Văn học số 6. + “Mấy đoạn văn hay của Lê Hữu Trác” (1971) của Nguyễn Huệ Chi, Tạp chí Văn học số 2. Nhà phê bình Nguyễn Huệ Chi đã đưa ra những nhận định, đánh giá về tác phẩm Thượng kinh ký sự trên tạp chí Văn học. Tác phẩm là cuốn ký sự về chuyến đi thăm kinh đô năm 1782 của Lê Hữu Trác, theo lệnh của chúa Trịnh. Con đường dẫn danh y ra Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm cũng là con đường dẫn ông trở lại quá khứ, trở lại xã hội “trâm anh 2 thế phiệt”, thậm chí ông còn có thể trở lại địa vị bề tôi của thiên tử mà ông từng rời bỏ xưa kia. Cho nên, Thượng kinh ký sự trước hết là câu chuyện của một tâm trạng: bàng hoàng, thao thức, đấu tranh với chính mình chống lại mọi cám dỗ, tìm mọi cách để được trở về. Về nội dung tư tưởng của tác phẩm, trongViệt Nam Văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ đã có cái nhìn khá đầy đủ về thể loại ký, cũng như tác phẩm Thượng kinh ký sự. Ông cho rằng, nó là “Một tác phẩm hiếm có và đặc sắc trên nhiều phương diện trong văn học sử chữ Hán nước ta xưa” [35;tr.122]. Bên cạnh đó ông còn thấy được Thượng kinh ký sự, cùng với một số tác phẩm tiêu biểu khác đã góp phần phản ánh bộ mặt xã hội phong kiến Việt Nam: “Duy chỉ ở mấy trang ký, nhất là tập ký độc nhất vô nhị này, người đọc mừng rỡ bắt mạnh thấy một chút gì xác thực, linh hoạt về nếp sống xưa, về con người xưa” [34; tr.126]. Ông chú ý nhiều đến giá trị phản ánh hiện thực mà tác phẩm mang lại: “Tác giả dẫn chúng ta đi dự một cuốn phim xa xưa của một giai đoạn lịch sử với sân khấu là đất Thăng Long cổ kính” [35;tr.216]. Tuy nhiên công trình chưa đề cập nhiều đến vấn đề về thể loại của tác phẩm. Về hình thức ký sự, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức trong công trình Lí luận văn học (1989) cho rằng: “Hình thức ký sự đã có từ lâu trong văn học Việt Nam như Thượng kinh ký sự - Lê Hữu Trác, một số bài ký trong Vũ trung tùy bút – Phạm Đình Hổ…” [17; tr.288]. Năm 2001, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na cho ra đời công trình Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 2: Ký. Tác giả đã bàn đến một số đặc điểm của thể loại ký, ông cho rằng: “Ký là loại hình văn học phức tạp nhất trong văn xuôi tự sự thời trung đại bởi bản thân khái niệm ký hàm chứa một nội diên có biên độ hết sức co dãn” [35; tr.9]. Trong các công trình: Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam (2007), Văn xuôi tự sự Việt Nam 3 thời trung đại (2001) Nguyễn Đăng Na đã có cái nhìn khá đầy đủ về thể loại ký: quá trình hình thành và phát triển, đặc trưng thể loại và những lời đánh giá, nhận xét khá độc đáo về tác phẩm Thượng kinh ký sự. Ông cho rằng: “Thượng kinh ký sự là tác phẩm ký nghệ thuật đích thực đầu tiên của Việt Nam. Nó không chỉ là đỉnh cao, là sự hoàn thiện thể ký Việt Nam thời trung đại, mà còn là mực thước cho lối viết ký sau này” [32;tr.435]. Theo ông: “Thượng kinh ký sự là tác phẩm ký nghệ thuật đích thực, đầu tiên của văn học trung đại”. Bởi lẽ tác phẩm được xây dựng bằng một hệ thống sự kiện đơn giản, được ghi chép theothời gian diễn ra đè nặng lên tâm trạng Lê Hữu Trác. Đằng sau những sự kiện đơn giản ấy, là tâm trạng, nỗi lòng của một thầy thuốc, một nhà thơ, nhà văn tài hoa. Chính vì lẽ đó, tác phẩm không chỉ mang tính chất của một ký sự mà còn có thể xem là một nhật ký, du ký, một bài ký phong cảnh. Mặt khác ông cũng thấy được cái tôi cá nhân trong Thượng kinh ký sự: “Chưa bao giờ và chưa có một tác phẩm nào mà cái tôi cá nhân của tác giả được bộc lộ một cách mạnh mẽ, rõ ràng như ở Thượng kinh ký sự” [32;tr.438]. Từ đó ông đi đến kết luận: “Đến Lê Hữu Trác, thể ký văn học đích thực thật sự ra đời tạo đà cho hàng loạt các tác phẩm ký khác” [32;tr.439]. Những công trình nghiên cứu lớn với những nội dung phong phú đã chứng minh được sự phát triển của thể loại ký trung đại Việt Nam và vị trí của Thượng kinh ký sự trong bước phát triển đó. Nghiên cứu “Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác) dưới góc nhìn thể loại” không phải là vấn đề thực sự mới mẻ song là điều cần thiết bởi ở mỗi đề tài đều đem lại cơ hội tiếp cận nghiên cứu sâu vấn đề cho người tham gia nghiên cứu. Đây là điều kiện giúp ta đi sâu, hiểu đặc trưng làm nên giá trị độc đáo cho thể ký bằng những lí luận, thống kê mang tính khoa học. Việc nghiên cứu này cũng giúp chúng ta có cái 4 nhìn tổng thể và toàn diện về giá tri tác phẩm Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác cũng như tìm thấy những giá trị mới trong sáng tác của ông. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Thực hiện đề tài này bài viết nhằm hướng tới mục đích: Cung cấp kiến thức về những đặc điểm của ký và ký sự. Đồng thời đề tài giúp người đọc hiểu được những đặc trưng thể loại đã tạo nên giá trị độc đáo cho Thượng kinh ký sự. Để đạt được mục đích trên, bài viết có nhiệm vụ: - Trình bày khái quát nhưng vấn đề chung về thể ký văn học, thể loại ký sự và sự ra đời của tác phẩm Thượng kinh ký sự. - Phân tích Thượng kinh ký sự dưới góc nhìn thể loại để làm sáng tỏ các vấn đề lý thuyết thể loại. Qua nghiên cứu, bài viết làm nổi bật nên giá trị văn học, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Mang đến cho bạn đọc một cái nhìn mới mẻ về Thượng kinh ký sự - một tác phẩm ký mẫu mực của văn học trung đại Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là những vấn đề liên quan đến thể loại ký và ký sự qua tác phẩm Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Nxb Văn học, Hà Nội (2010). - Phạm vi nghiên cứu: Trong khi nghiên cứu, chúng tôi tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất của thể loại được biểu hiện trong tác phẩm. Một số vấn đề có tính giao thoa giữa ký và ký sự, nếu đã được trình bày ở phần loại thể thì sẽ không trình bày lại ở phần thể loại nữa. Nghiên cứu Thượng kinh ký sự dưới góc nhìn thể loại, chúng tôi không đặt ra mục riêng về hình thức tác phẩm mà xen lồng vào trong các mục trình bày về sự kiện và hình tượng tác giả. Vì suy cho cùng, hình thức luôn mang 5 tính nội dung và nội dung phải được thể hiện qua hình thức sao cho khóa luận được chặt chẽ. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích - Phương pháp so sánh – hệ thống - Phương pháp tổng hợp 6. Đóng góp của khóa luận - Làm rõ hơn đặc trưng thể loại ký và ký sự. Trình bày một cách hệ thống các vấn đề liên quan đến thể loại ký và ký sự. - Thấy được những giá trị của tác phẩm Thượng kinh ký sự ở góc độ thể loại. Đây sẽ là tài liệu hữu ích cho những người muốn tham khảo về thể loại nói chung và về tác phẩm nói riêng. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của Khóa luận được triển khai qua hai chương: Chương 1: Khái quát chung về thể loại ký và ký sự Chương 2: Thượng kinh ký sự dưới góc nhìn thể loại 6 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỂ LOẠI KÝ VÀ KÝ SỰ 1.1 Khái quát chung về thể ký 1.1.1. Sự xuất hiện và phát triển của thể ký ở Việt Nam So với các thể loại văn học thì ký là một thể loại ra đời sớm trong lịch sử văn học nhân loại, bởi nó có sự năng động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực một cách trực tiếp nhất, sinh động nhất. Tác phẩm ký vừa có khả năng đáp ứng nhu cầu bức thiết của thời đại, đồng thời vẫn thể hiện được tiếng nói sâu sắc của nghệ thuật. Thể ký xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học và phát triển qua nhiều thời kì. Ở mỗi giai đoạn ký lại có những đặc điểm khác nhau với sự góp mặt của các tên tuổi lớn cùng với những tác phẩm đặc sắc. * Ký thời trung đại ở Việt Nam Ký là loại hình văn học phức tạp nhất trong văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, bởi khái niệm ký hàm chứa một nội diên có biên độ hết sức co dãn. Thoạt tiên, ký có nghĩa là ghi chép sự việc gì đó để khỏi quên và từ ký thường được dùng để chỉ công văn giấy tờ mang tính hành chính. Cùng với sự ra đời của văn học trung đại Việt Nam vào thế kỷ X, dần dần ký cùng với truyện ngắn và tiểu thuyết chương hồi hợp thành văn xuôi tự sự trung đại. Tuy nhiên, bản thân ký có các bước phát triển riêng biệt được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, đây là giai đoạn đặt nền móng cho dòng tự sự viết dưới dạng ký. Đặc điểm của giai đoạn này là văn xuôi tự sự chưa tách khỏi văn học dân gian và văn học chức năng.Thời kì này, loại hình truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể với các tác phẩm: Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái lục của Trần Thế Pháp, Ngoại sử ký của Đỗ Thiện... Còn ký thì chưa đạt được thành tựu như 7 vậy vì nó vẫn dựa hoàn toàn vào văn học chức năng. Mặt khác, nếu truyện được phép đi tìm thời gian đã mất, được tưởng tượng thì đề tài của ký bị hạn chế trong khuôn khổ viết về hiện tại, viết về những điều mắt thấy tai nghe. Thêm vào đó, cuộc sống lúc đó không có nhu cầu về ký và phương tiện in khắc cũng chưa nhiều nên loại ký viết thành tập chưa có điều kiện ra đời. Ký giai đoạn này chủ yếu ở dưới dạng văn khắc và tự bạt. Nội dung của văn khắc không nổi bật nhưng văn phong khá đa dạng. Mỗi bài thường kết hợp giữa tả cảnh, tả tình, kể việc, kể người với việc phát biểu trực tiếp cảm nghĩ cá nhân khiến chúng mang đậm chất ký. Một số văn bia tiêu biểu như: Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi, Càn Ni Sơn Hương Nghiêm tự bi minh (khuyết danh), Thiên phúc tự hồng chung minh văn của Thích Hưng Huệ… Tự (đặt đầu tác phẩm) và bạt (đặt sau tác phẩm) viết ra nhằm mục đích giới thiệu, bình tác phẩm của người khác hoặc bản thân tác giả để bày tỏ quan điểm của mình đối với văn chương, học thuật. Một số bài tự nổi tiếng như: Thiền Tông chỉ nam tự của Trần Thái Tông, Vạn Kiếp tông bí truyền thư tự của Trần Khánh Dư, Việt Điện u linh tập tự của Lý Tế Xuyên… Giai đoạn thứ hai từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, xảy ra nhiều biến cố lịch sử. Sau khi giành được độc lập, vua Lê đặt ngay cho đình thần nhiệm vụ sưu tầm, sao chép, khôi phục các thư tịch đã mất hoặc còn sót lại trong dân gian. Sự bùng nổ về tác phẩm sưu tầm, san định cũng như sáng tác trên nhiều lĩnh vực làm cho thể văn tự bạt cũng phát triển theo. Tác giả của những tự bạt đã trình bày trực tiếp và thẳng thắn quan điểm của mình trên nhiều lĩnh vực, bởi vậy, vai trò của người sưu tầm, biên soạn phải ra sức biện bạch đúng sai. Ký dưới dạng tự bạt đến hậu kì trung đại tách dần ra thành phê điểm văn học và tách khỏi văn xuôi tự sự. Song, nó đã đặt nền móng cho loại ký nghệ thuật: Tự bạt là tiếng nói cá nhân người viết, khi chưa có vai trò cá nhân thì ký đích thực chưa thể ra đời. 8 Ở giai đoạn này, ký chưa thành một thể riêng, nó chỉ là một phần nhỏ nằm trong tác phẩm tự sự nhiều thiên. Ranh giới giữa truyện và ký hết sức mờ nhạt, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na: “Điều làm nên sự phân biệt giữa truyện và ký về bản chất là thái độ người cầm bút. Nếu người cầm bút tách mình khỏi các sự kiện, các nhân vật đang được miêu tả như người ngoài cuộc thì đấy là truyện, ngược lại, tác giả hòa mình vào sự kiện, các nhân vật với tư cách là người trong cuộc thì đấy là ký” [35; tr.37]. Hồ Nguyên Trừng với tác phẩm Nam Ông mộng lục, Lê Thánh Tông với Thánh Tông di thảo và Nguyễn Dữ với Truyền kì mạn lục là những người đặt nên móng cho ký trung đại với việc “ghép” đoạn suy tư và bình giá đối tượng đang phản ánh vào cuối mỗi thiên tự sự. Ký chỉ thực sự ra đời ở giai đoạn thứ ba từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX với sự ra đời của Thượng kinh ký sự (1783) của Lê Hữu Trác. Tác phẩm là đỉnh cao, hoàn thiện thể ký trung đại và là mẫu mực cho lối viết ký với tác phẩm sau đó như: Bắc hành tùng ký – Lê Quýnh, Vũ trung tùy bút – Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, Tây hành kiến văn kỷ lược – Lý Văn Phức… Nửa cuối thế kỷ XIX là giai đoạn đời sống xã hội và văn học nghệ thuật bị đảo lộn dưới những chiến dịch xâm lược của thực dân Pháp.Cũng như truyện ngắn và tiểu thuyết chương hồi, sau khi đạt đỉnh cao ở giai đoạn thứ ba, ký rơi vào bế tắc. Song ở giai đoạn này vẫn có một tác phẩm ký đáng chú ý là Giá Viên biệt lục của nhóm tác giả Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản và Ngụy Khắc Đản. Nội dung của tác phẩm là kể về 9 tháng ở Tây Âu của phái bộ Đại Nam. Tuy có hạn chế là tác phẩm dành cho vua đọc (tức trở thành một biên bản) nhưng Giá Viên biệt lục vẫn đánh dấu bước phát triển mới về quy mô phản ánh và đối tượng phản ánh của ký.Những nỗ lực cuối cùng này không thể cứu vãn được sự bế tắc của ký trung đại. Cũng như truyện ngắn và tiểu thuyết chương hồi, đến đây ký trung 9 đại kết thúc sứ mệnh lịch sử nhường bước cho ký hiện đại với những tên tuổi như Phạm Quỳnh, Nguyễn Tuân… * Ký những năm đầu thế kỉ XX Bước sang thế kỷ XX, cùng với sự phát triển vượt bậc của chữ Quốc ngữ và việc ra đời các loại báo, tạp chí, các nhà xuất bản khắp trong cả nước thì thể tài ký cũng xuất hiện và mau chóng giữ một vị trí quan trọng trong đời sống văn học. Đầu tiên, chúng ta phải ghi nhận những sáng tác có ý nghĩa đặt nền móng của Tản Đà (1889-1939) - người đã có công khai sinh cho nhiều thể văn trong văn học Việt Nam buổi đầu thế kỷ. Ông khai bút cho mục “Việt Nam nhị thập kỷ - Xã hội ba đào ký” trên An Nam tạp chí. Tản Đà viết nhiều bài phiếm luận có tính cách bút ký, vì ông đã căn cứ vào cuộc đời để phát biểu tư tưởng của mình như: Luận về ăn ngon, Thằng người ngây cưỡi con ngựa hay… Thời kì này cùng với sự phát triển của báo chí thì các tác phẩm du ký – du hành, ghi chép, tùy bút được chú ý in ấn, với những tên tuổi của Phạm Quỳnh, Thiện Đình, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Tiến Lãng, Đông Hồ, Mộng Tuyết... Trên tạp chí Nam Phong xuất hiện những tác phẩm tiêu biểu như : Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác, Lại tới Thần kinh của Nguyễn Tiến Lãng, Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ và nhất là Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh… Những năm 30 của thế kỉ XIX, thể ký ở Việt Nam có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Thể ký nở rộ các thể văn như phóng sự, bút ký, tản văn, hồi ký, du ký... từ đó tạo nên diện mạo chủ yếu của lịch sử thể tài ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Cùng với tiến trình lịch sử thì sự phát triển của thể ký ở giai đoạn này chia làm hai chặng đường lớn: Ở chặng 1930-1939, thể loại ký về cơ bản đã định hình phong cách nghệ thuật với các thể văn như: phóng sự, hồi ký, nhật ký, bút ký, du ký… Sự xuất hiện của phóng sự Tôi kéo xe (1932) của Tam Lang có ý nghĩa đặc biệt 10 quan trọng. Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã viết: “Tôi kéo xe là một quyển phóng sự giá trị, nó lại là một quyển phóng sự trước nhất ở nước ta, người ta có thể coi nó là một quyển mở đầu cho lối văn phóng sự trong văn chương Việt Nam” [6; tr 512]. Trước hết, tác phẩm vừa xác lập dòng chủ lưu của thể ký, nghĩa là chính thức đưa thể văn phóng sự lên ngôi, đồng thời mở đầu cho một kiểu loại văn học mới. Như đã nói trên, Tam Lang được vinh danh là người mở đầu cho thể loại phóng sự ở Việt Nam. Những tác phẩm của ông đã đạt đến giá trị nghệ thuật chuẩn mực của thể phóng sự. Qua các phóng sự, Tam Lang đã nhập thân vào cuộc sống hàng ngày của người phu xe (Tôi kéo xe), kiếp sống long đong của gái làm tiền nơi sông nước (Đêm Sông Hương) và tiếng nói châm biếm sâu cay bọn quan lại, nghị gật (Lọng cụt cán)... Những tác phẩm của ông là sự trải nghiệm của người trong cuộc về người thật, việc thật, kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Phóng sự nào cũng mang trong mình tư tưởng bác ái, luôn bênh vực người nghèo khổ vì lẽ phải, vì tinh thần nhân đạo. Người đưa phóng sự Việt Nam đến đỉnh cao là Vũ Trọng Phụng. Với những tác phẩm như: Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây(1934), Cơm thầy, cơm cô, Lục xì (1937), Một huyện ăn tết (1938)... ông được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Các phóng sự của Vũ Trọng Phụng thể hiện rõ sự đa dạng về đề tài, về khả năng phân tích sự kiện và tâm lý nhân vật, về tầm bao quát nội dung xã hội cũng như nghệ thuật dẫn truyện. Những tác phẩm của ông đã lột trần được những cái hạ đẳng của xã hội. Ngô Tất Tố được tôn vinh là “nhà báo có biệt tài” người tạo nên độ sâu cho thể loại phóng sự.Ngô Tất Tố viết khá nhiều phóng sự, ghi chép, tiểu phẩm báo chí. Ông là nhà phóng sự xuất sắc viết về đề tài nông dân và làng cảnh thôn quê trước Cách mạng, đặc biệt với các tác phẩm Tập án cái đình (1939), Việc làng (1940)… Là người có vốn văn hoá sâu rộng và thông 11 thuộc nhiều mặt đời sống dân quê, Ngô Tất Tố đã phản ánh được bức tranh xã hội rộng lớn, bao gồm từ phong tục tập quán đến cuộc sống thường ngày, từ nỗi khổ cùng cực của người dân đen đến muôn mặt tệ lậu đám chức dịch. Ngô Tất Tố xứng đáng được coi là nhà xã hội học nghệ thuật ngôn từ xuất sắc bậc nhất về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Với Nguyễn Tuân, tác phẩm của ông có khi được gọi là du ký như: Một chuyến đi (1938), có khi là phóng sự như Ngọn đèn dầu lạc (1939), Tàn đèn dầu lạc (1941), tuỳ bút như Chiếc lư đồng mắt cua (1941). Những bài tùy bút, bút ký của ông có những lối hành văn đặc biệt. Bằng ngòi bút nghệ thuật tài hoa của mình ông đã vẽ lên bức tranh sống động về cuộc sống. Ngoài ra, thể ký còn có sự đóng góp của những cây bút như: Trọng Lang, Phùng Tất Đắc, Nhất Linh, Thanh Tịnh… Những tên tuổi này góp phần làm phong phú và tạo nên dòng chảy chung của thể ký Việt Nam, tạo tiền đề cho cả một quá trình phát triển tiếp theo. Ở chặng 1940-1945, cùng với sự góp mặt của những cây bút giai đoạn trước như Ngô Tất Tố, Trọng Lang… thì giai đoạn này xuất hiện nhiều cây bút mới như: Nguyễn Đình Lạp, Thạch Lam, Vũ Bằng… Một mặt các tác phẩm ký vẫn tiếp tục khai thác hiện thực đời sống muôn màu muôn vẻ dưới chế độ thực dân nửa phong kiến; mặt khác đã quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề dân tộc, từng bước ý thức sâu sắc hơn về tính dân tộc và ý thức về yêu cầu giải phóng dân tộc đang ngày càng trở nên rõ nét hơn. Các tác phẩm tiêu biểu như: Lều chõng (1941) của Ngô Tất Tố, Làm tiền (1942) của Trọng Lang, Ngoại ô của Vũ Đình Lạp, Hà Nội băm sáu phố phường (1943) của Thạch Lam, Cai (1944) của Vũ Bằng… Ký Việt Nam từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 có bước phát triển vượt bậc. Nó không chỉ phong phú về đề tài, nội dung mà còn đặc sắc về nghệ 12 thuật. Sự lớn mạnh về đội ngũ sáng tác của thể loại này cho thấy được vị trí và nhu cầu phát triển của thể loại này trong nền văn học Việt Nam. * Ký những năm 1945-1986 Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến trước thời kì đổi mới 1986 là một giai đoạn văn học đặc thù. Nó hình thành và phát triển trong điều kiện đất nước có chiến tranh và những năm hậu chiến. Các thể loại văn học viết ra nhằm phục vụ kháng chiến, cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân, thể ký không nằm ngoài sứ mệnh như vậy. Giai đoạn 1945-1986, là giai đoạn xác lập hệ thống lí thuyết về ký. Lần đầu tiên các thể loại có chức năng và hình thức ghi chép sự thật như: ký sự, tùy bút, phóng sự, nhật ký, du ký, truyện ký, bút ký được tập hợp thành một loại hình văn học có tên là ký. Nếu như trước 1945 phóng sự chiếm ưu thế thì sau 1945 ta thấy phóng sự gần như vắng bóng nhường chỗ cho sự phát triển mạnh mẽ của các thể loại ký sự, tùy bút và truyện ký. Trong giai đoạn đầu của nền văn học thời kì này, ký sự phát triển mạnh mẽ, càng về sau các thể loại như tùy bút, bút ký, truyện ký chiếm vị thế ưu trội. Thể ký giai đoạn này có khối lượng tác phẩm khá đồ sộ, đó là những ký sự ở giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp như: Nhật kí ở rừng của Nam Cao, Ký sự của Trần Đăng, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Thu Đông năm nay của Nguyễn Đình Thi, Vượt Tây Côn Lĩnh của Tô Hoài… Hay là những bút ký: Người chiến sĩ khai hoang của Tô Hoài, Đường chúng ta đi của Nguyên Ngọc, Những ngày nổi giận của Chế Lan Viên, Đại hội anh hùng của Nguyễn Thi, Con hồ Thủ đô của Nguyễn Tuân, Rất nhiều ánh lửa của Hoàng Phủ Ngọc Tường,… Giai đoạn này còn có những tùy bút và bút ký xuất sắc như: Người lái đò sông Đà, Tùy bút kháng chiến của Nguyễn Tuân, Một chuyện chép ở bệnh viện, Bức thư Cà Mau của Anh Đức… Các tập truyện ký nổi tiếng như: Sống như anh của Trần Đình Vân, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận... Những tác phẩm 13 này đã gây được tiếng vang lớn trong dư luận và được coi là những tác phẩm tiêu biểu của văn học sau những năm 1960. Ký 1945-1986, là đại diện cho tiếng nói của cộng đồng, của quốc gia, dân tộc, tiếng nói của những người chiến thắng. Trong các tác phẩm ký thời kì này vang lên một giọng điệu tràn đầy niềm tự hào, lạc quan của người chiến thắng. Nó đã thực sự trở thành một mũi nhọn xông xáo khắp các chiến trường khói lửa, các nẻo đường mưa tuôn nắng dội, len lỏi vào những ngóc ngách tận cùng của đời sống. Ký giai đoạn này là bản anh hùng ca về những tấm gương sáng chói trong kháng chiến hay là cảm hứng hồi sinh của đất nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Những tác phẩm ký là tiền đề, là bước đệm cho sự phát triển của truyện ngắn và tiểu thuyết sau này. 1.1.2. Một số đặc điểm của thể ký 1.1.2.1 Ký ghi chép sự thật khách quan và tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả. Tác phẩm ký ra đời gắn liền với những biến cố lịch sử mang tính thời sự, những vấn đề nóng bỏng của đời sống. Vì thế, các nhà viết ký trước hết phải hướng đến tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện và ghi lại những người thật, việc thật của cuộc sống. Chính điều này làm cho thể ký văn học gần với ký báo chí, phát triển cùng với sự phát triển của ký báo chí, đáp ứng nhu cầu thời sự của con người trong một xã hội mới. Sự thật là hạt nhân quan trọng nhất làm nên đặc trưng của thể ký. Khi tiếp nhận một tác phẩm ký, bao giờ ta cũng thấy nổi lên trên bề mặt của nó là một lớp thông tin, sự kiện, nhân vật, thời gian, không gian cụ thể đơn nhất.Viết về cái có thật trong cuộc sống, ký văn học có khả năng mạnh mẽ trong việc tạo ra niềm tin, sức thuyết phục đối với bạn đọc. Chẳng hạn, đọc tác phẩm ký Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi chúng ta ngưỡng mộ, cảm phục đối với người anh hùng có thực đã sống và đánh giặc ở mảnh đất Trà Vinh. Nhiều tác phẩm ký văn học có giá trị như 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan