BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN LÊ TUẤN
THƠ TỨ TUYỆT THỜI LÝ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2003
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công tành này là của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
văn là trung thực và chưa từng đứợe ai công bố trong bất cứ công trình nào khác..
Tác giả luận văn
Nguyễn Lê Tuấn
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .....................................................................................................3
MỤC LỤC .................................................................................................................4
PHẦN DẪN NHẬP ..................................................................................................7
1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................................. 7
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ...................................................................................................... 8
3.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 10
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................ 10
4.1.Phương pháp thống kê ........................................................................................ 10
4.2.Phương pháp phân tích - so sánh ........................................................................ 11
5.GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ TÀI LIỆU ............................................ 11
6.KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN ..................................................................................... 11
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ THE THƠ TỨ TUYỆT ....................................14
1.1.QUAN NIỆM VỀ THỂ THƠ TỨ TUYỆT ............................................................ 14
1.1.1.Về thuật ngữ “tứ tuyệt” .................................................................................... 14
1.1.2.Hình thức của một bài tứ tuyệt ........................................................................ 16
1.1.3.Thanh bằng và thanh trắc ................................................................................. 18
1.2.MỐI QUAN HỆ GIỮA TUYỆT CÚ VÀ LUẬT THI ............................................ 19
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG NỘI DUNG CỦA THƠ TỨ TUYỆT THỜI LÝ .25
2.1.VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI THỜI LÝ ...................................................... 25
2.1.1.Tôn giáo ........................................................................................................... 25
2.1.2.Văn hóa - Nghệ thuật ....................................................................................... 26
2.2.VÀI NÉT VỀ THIỀN TÔNG VIỆT NAM THỜI LÝ ........................................... 27
2.3.NỘI DUNG THƠ TỨ TUYỆT THỜI LÝ .............................................................. 29
2.3.1.Thơ tứ tuyệt thời Lý phản ánh giáo lí và yếu chỉ Thiền tông .......................... 29
2.3.1.1.Thơ tứ tuyệt thời Lý trực tiếp phản ánh yếu chỉ Thiền tông ..................... 30
2.3.1.2.Thơ tứ tuyệt thời Lý gián tiếp thuyết giảng giáo lí đạo Phật và yếu chỉ
Thiền tông. ............................................................................................................ 39
2.3.2.Thơ tứ tuyệt thời Lý phản ánh tinh thần “Tam giáo đồng nguyên” ................. 40
2.3.3.Thơ tứ tuyệt thời Lý phản ánh sự khủng hoảng niềm tin đối vối nhà Phật. .... 42
2.3.4.Thơ tứ tuyệt thời Lý phản ánh tinh thần yêu nước. ......................................... 43
CHƯƠNG 3: HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THƠ TỨ TUYỆT THỜI LÝ .....46
3.1.THỂ THƠ ............................................................................................................... 46
3.1.1.Thể thơ ngữ ngôn tứ tuyệt ............................................................................... 46
3.1.2.Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ................................................................................ 47
3.2.CÁC VẤN ĐỀ VỀ VẦN, NIÊM, LUẬT, ĐIỂN CỐ .............................................. 48
3.2.1.Vần ................................................................................................................... 48
3.2.1.1.Thơ vần trắc ............................................................................................. 48
3.2.1.2.Thơ vần bằng ............................................................................................ 49
3.2.2.Điển cố ............................................................................................................. 49
2.2.3.Niêm luật.......................................................................................................... 51
3.3.KẾT CẤU ................................................................................................................ 51
3.4.TỪ NGỮ ................................................................................................................. 52
3.5.HÌNH THỨC TỔ CHỨC CÂU .............................................................................. 54
3.6.CON NGƯỜI .......................................................................................................... 54
3.6.1.Trước hết đó là con người có trí tuệ siêu việt, học vấn uyên thâm, hiểu đạo,
hiểu đời. .................................................................................................................... 55
3.6.2.Con người tự do với một tinh thần phá chấp triệt để. ...................................... 57
3.6.3.Con người hòa đồng......................................................................................... 58
3.7.THIÊN NHIÊN ...................................................................................................... 59
3.8.KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT ............................................................................ 61
3.9.THỜI GIAN NGHỆ THUẬT ................................................................................. 61
CHƯƠNG 4: ĐỐI CHIẾU SO SÁNH GIỮA THỂ THƠ TỨ TUYỆT THỜI
LÝ VỚI THỂ THƠ TỨ TUYỆT THỜI TRẦN ...................................................63
4.1.VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI THỜI TRẦN ................................................ 63
4.3.NGHỆ THUẬT THƠ TỨ TUYỆT THỜI TRẦN .................................................. 74
4.4.ĐỐI CHIẾU, SO SÁNH VÀ KẾT LUẬN ............................................................. 84
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................88
BẢNG PHỤ LỤC ...................................................................................................91
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH ....................................................................103
SÁCH TIẾNG VIỆT .................................................................................................. 103
SÁCH TIẾNG TRUNG QUỐC.................................................................................. 106
PHẦN DẪN NHẬP
1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Tháng 11 năm 1009, Lê Ngọa Triều (Long Đĩnh) chết. Được sự ủng hộ của các nhà
sư, Đào Cam Mộc cầm đầu một số triều thần đưa Tả thân vệ diện tiền chỉ huy sứ, Lý
Công Uẩn lên làm vua.
Lý Công Uẩn lên ngôi, quyết định lấy năm 1010 làm năm Thuận Thiên thứ nhất.
Nhà Lý ra đời mở ra một giai đoạn mới cho lịch sử nước nhà.
Nhà Lý muốn "Mưu toan việc lớn, tính kế muôn đời cho con cháu" nên đã dời đô từ
Hoa Lư ra Thăng Long "ở vào nơi trung tâm trời đất...Là chốn tụ hội trọng yếu của bốn
phương đất nước" (Lý Thái Tổ - Thiên đô chiếu).
Thời Lý, nhà nước phong kiến tập quyền được củng cố, có đủ sức mạnh để chống
lại sự xâm lăng của các thế lực phong kiến phương Bắc. Năm 1076, Nhà Lý đã chủ động
tấn công Ưng Châu, phá tan cứ điểm xâm lược của quân Tống. Năm 1097, đập tan 30 vạn
quân Tống xâm lược trên sông Như Nguyệt.
Thời Lý, Phật giáo rất thịnh, có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống xã hội và tinh thần
của dân tộc ta. Lực lượng sáng tác văn học thời bấy giờ chủ yếu là các vị Thiền sự, cho
nên văn học thời Lý chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng thẩm mĩ của Phật giáo.
Văn học thời Lý phát triển rực rỡ, đặt nền móng cho nền văn học viết nước ta. Tuy
số lượng tác phẩm còn lưu giữ được không nhiều, nhưng thơ văn thời này cũng đầy đủ
thể loại, trong đó thể thơ tứ tuyệt chiếm đa số. Ta pó thể tham khảo số liệu thống kê sau :
Tài liệu
Thơ văn Lý Trần(Tập 1)
Vận văn
78
Tứ tuyệt
Tỉ lệ
56
72%
Thể thơ tứ tuyệt là thể thơ thịnh hành thời trung đại, các nhà thơ cổ điển rất ưa
chuộng thể thơ này. ở Việt Nam, nhiều bài thơ tứ tuyệt thời Lý-Trần như "Nam quốc sơn
hà" "Tụng giá hoàn kinh sư" "Thuật hoài"... đã trở thành tiếng nói ngắn gọn, đanh chắc
thể hiện ý thức về chủ quyền đất nước, ỷ thức về trách nhiệm công dân trước vận mệnh
quốc gia. Các bậc Thiền sư như Vạn Hạnh Thiền sư, Mãn Giác Thiền sư, Tuệ Trúng
Thượng sĩ ... cũng hay sử dụng thể thơ tứ tuyệt để viết kệ làm thơ. Tác phẩm của họ đã
trở thành nổi tiếng và được lưu truyền tới muôn đời sau.
Tuy ngắn, gọn nhưng thơ tứ tuyệt cũng đủ khả năng chuyển tải những triết lí sâu sắc
về cuộc đời, phản ánh những biến cố trọng đại của lịch sử. Khảo sát thơ tứ tuyệt thời Lý,
ta có thể thấy được tinh thần của thời đại nhà Lý về các mặt xã hội, văn hóa nghệ thuật.
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1 Có lẽ do số lượng thơ văn thời Lý lưu giữ được tới nay không nhiều nên hầu
như chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về mảng thơ văn này, đặc biệt là đề tài về
thơ tứ tuyệt thời Lý. Thường thì các công trình nghiên cứu có khuynh hướng lấy thơ văn
của cả hai triều đại Lý -Trần làm đối tượng khảo sát, nghiên cứu. Nguyễn Phạm Hùng có
tác phẩm "Văn học Lý-Trần nhìn từ thể loại". Nguyễn Công Lý có tác phẩm "Bản sắc dân
tộc trong Văn học Thiền tông thời Lý - Trần". Cũng có tác giả chuyên sâu về phương
diện nghệ thuật như Đoàn Thị Thu Vân có công trình "Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của
thơ Thiền Việt Nam thế kỷ X - thế kỷ XIV". Ngoài các công trình kể trên, còn có một số
bài nghiến cứu về từng mảng nhỏ của đề tài này được đăng tải trên Tạp chí Văn học như:
"Chất trữ tình trong thơ Thiền đời Lý" (Trần Ngọc Lan); "Một vài nhận xét về thơ Thiền
Lý -Trần" (Đoàn Thị Thu Vân); "Quan niệm về con người trong thơ Thiền Lý-Trần"
(Đoàn Thị Thu Vân); "Mãn giác và bài thơ Thiền nổi tiếng của ông" (Nguyễn Huệ Chị)
...
2.2 Nhìn chung, với mức độ đậm nhạt khác nhau, các tác phẩm, các công trình trên
đã phần nào khắc họa được dung mạo về cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật của
thơ văn thời Lý nói riêng, thơ văn Lý - Trần nói chung.
Trong tác phẩm "Văn học Lý -Trần nhìn từ thể loại", khi khảo sát một số thể loại
văn học tiêu biểu thời Lý - Trần, về phần vận văn, Nguyễn Phạm Hùng dựa hẳn vào tiêu
chí nội dung mà phân thành : Thơ Thiền thời Lý; Thơ trữ tình thời Trần. Tác giả nhấn
mạnh "Khái niệm thơ Thiền...xuít phát từ tiêu chí nội dung phản ánh của thơ Thiền" [9,
tr.40]. Và "...Thơ trữ tình vốn là hình thức nghệ thuật phát biểu trực tiếp thái độ, tình
cảm, tâm trạng cửa con người trước những vấn đề bức xúc của đời sống ..." [9, tr. 73].
Trong tác phẩm "Bản sắc dân tộc trong Văn học Thiền tông thời Lý -Trần" [16],
Nguyễn Công Lý đã nêu lên vài biểu hiện của bản sắc dân-tộc cũng như tinh thần lạc
quan, tích cực phong cách bình thản, tin tưởng đối với cuộc sống được thể hiện trong văn
học Thiền tông Lý - Trần. Như vậy, khi nghiên cứu về thơ văn Lý - Trần, tuy có điểm
qua vài nét về đặc trưng nghệ thuật nhưng tác giả Nguyễn Công Lý cũng nghiêng về bình
diện nội dung, lấy nội dung làm tiêu chí khảo sát.
Đoàn Thị Thu Vân, trong công trình "Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền
Việt nam thế kỷ X - thế kỷ XIV" có một cái nhìn thấu đáo về đặc trưng nghệ thuật của
thơ Thiền Việt Nam, trên cơ sở lí thuyết của thi pháp học và đặc trưng nghệ thuật của thơ
ca trung đại Việt Nam. Tác giả đã chú trọng khảo sát ngôn ngữ, hình tượng, thể thơ, kết
cấu, cách miêu tả, thể hiện và giọng điệu của thơ Thiền.
Về thể thơ, tác giả nhận xét:
Hầu hết các tác phẩm thuộc đối tượng khảo sát đều được viết theo thể thơ Đường
luật (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, hoặc ngũ ngôn tứ tuyệt), một số ít viết theo thể
cổ phong hoặc tứ tự... ở thời Lý, đa số thơ Thiền là thơ triết học nên thường sử dụng thơ
ngũ ngôn tứ tuyệt (33/ 66 bài thơ Đường luật), số lượng chữ tối thiểu -20 chữ- trong bài
thơ bảo đảm tính hàm súc đạt mức cao nhất, cần thiết cho sự khẳng định đanh chắc và
ngụ ý sâu xa của những chân lý được nêu. Thiền là vô ngôn, nhiữig điều này cũng chỉ có
tính tương đối, vì vậy hình thức của một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt là phù hợp nhất để
diễn đạt một cách kiệm lời những điều cần thiết nhằm khơi gợi sự trực giác nơi đối tượng
[41, tr.108-109]. Nhận xét này của tác giả đã khẳng định hai vấn đề cơ bản : Thời Lý, đa
số thơ Thiền sử đụng thơ ngũ ngôn tứ tuyệt; hình thức của một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt
phù hợp với nội dung khơi gợi trực giác nơi đối tượng.
Tác giả Trần Ngọc Lan trong bài viết "Chất trữ tình trong thơ Thiền đời Lý" thiên
về phân tích những yếu tố trữ tình trong thơ Thiền "Thơ Thiền đời Lý quả đã ghi lại được
những giờ phút êm đềm, những khoảnh khắc xao động trong tâm hồn của các nhà sư - thi
sĩ trước cuộc sống" [12, tr.32] .
Từ các công trình, các bài nghiên cứu trên, luận văn này thấy rằng:
a. Để có sự đánh giá khách quan về giá trị của văn thơ thời Lý, cần khảo sát ỏ cả hai
phương điện nội dung và hình thức nghệ thuật.
b. Do thể thơ tứ tuyệt chiếm tuyệt đại đa số các tác phẩm văn thơ thời Lý (xem số
liệu thống kê ở phần dẫn nhập) nên việc khảo sát văn thơ thời Lý có thể giới hạn trong
phạm vi thể thơ này.
3.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Vì những lí do kể trên, luận văn này hướng tới việc giải quyết một số vấn đề sau:
3.1Phác thảo một cái nhìn tổng quát về thể thơ tứ tuyệt.
3.2Khảo sát thơ tứ tuyệt thời Lý,về hai phương diện nội đung và nghệ thuật.
3.3Đối chiếu, so sánh thơ tứ tuyệt thời Lý với thơ tứ tuyệt thối Trần.
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, nhằm giải quyết những yêu cầu cụ thể của đề tài,
người viết sử dụng các phương pháp sau:
4.1.Phương pháp thống kê
- Nhằm khảo sát tỉ lệ sử dụng thể thơ tứ tuyệt trong kho tàng thơ văn thời Lý để
đánh giá vị trí và giá tri của thể thơ này.
- Để có cứ liệu tiến hành thao tác đối chiếu, so sánh thơ tứ tuyệt thời Lý với thơ tứ
tuyệt thời Trần.
4.2.Phương pháp phân tích - so sánh
- Nhằm xác định nội đung phản ánh và hình thức nghệ thuật của thể thơ tứ tuyệt
thời Lý.
- Làm rõ nét đặc trưng của thể thơ tứ tuyệt thời Lý về cả hai phương diện nội dung
và nghệ thuật so với thơ tứ tuyệt thời Trần.
5.GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ TÀI LIỆU
Đối tượng khảo sát của luận văn này là thể thơ tứ tuyệt thời Lý. Cho nên nguồn tư
liệu chủ yếu là "Thơ văn Lý - Trần Tập 1" (1978) Viện Văn hộc, NXB.KHXH - Hà Nội.
Để tiến hành so sánh với thể thơ tứ tuyệt thời Trần, còn cần nguồn tư liệu từ “Thơ
văn Lý- Trần Tập II” (1978), "Thơ văn Lý-Trần Tập III" (1981) Viện Văn học,
NXBKHXH Hà Nội.
Ngoài ra, người viết còn tham khảo các tác phẩm, các công trình khảo cứu liên quan
đến đề tài nghiên cứu.
6.KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn này gồm có ba phần:
Phần dẫn nhập
Giới thiệu ý nghĩa của đề tài. Điểm lại một số công trình chủ yếu có liên quan tới đề
tài. Nhấn mạnh mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, giới hạn vấn đề cần giải
quyết, nguồn tư liệu và giới thiệu sơ lược kết cấu của đề tài.
Phần nội dung
Phần này gồm bốn chương:
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ THỂ THƠ TỨ TUYỆT
Trọng tâm của chương này là xác định khái niệm về thể thơ tứ tuyệt, đặc điểm hình
thức nghệ thuật của thể thơ tứ tuyệt nhằm tạo chuẩn mực cho công việc thống kê, phục
vụ việc phân tích và thao tác so sánh.
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG VỀ NỘI DUNG CỦA THỂ THƠ TỨ TUYỆT THỜI
LÝ
Do đặc điểm xã hội thời Lý. là nặng Phật nhẹ Nho nên hầu hết các tác phẩm thời đó
đều mang nặng triết lí nhà Phật, lực lượng sáng tác chủ yếu là các vị Thiền SƯ. Điều đó
buộc luận văn này phải giới thiệu vài nét về Thiền tông Việt Nam. Khi phân tích nội dung
dòng thơ Thiền thời Lý, cần lấy yếu chỉ của nhà Phật, giáo lí của đạo Phật làm luận điểm
để soi rọi, làm sáng tỏ vấn đề.
Chương này gồm ba phần:
2.1.Vài nét về văn hóa - xã hội thời Lý
2.2.Vài nét về Thiền tông thời Lý
2.3.Nội dung thơ tứ tuyệt thời Lý
CHƯƠNG 3: HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THƠ TỨ TUYỆT THỜI LÝ
Trọng tâm của chương này là dựa vào đặc điểm hình thức của thể thơ tuyệt cú và
đặc điểm thi pháp thơ ca trung đại để phân tích thơ tứ tuyệt thời Lý.
Chương này gồm chín phần :
3.1Thể thơ
3.2Các vấn đề về vần, niêm luật, điển cố
3.3Từ ngữ
3.4Hình thức tổ chức câu
3.5Kết cấu
3.6Con người
3.7Thiên nhiên
3.8Không gian nghệ thuật
3.9 Thời gian nghệ thuật
CHƯƠNG 4: Đối CHIẾU, SO SÁNH GIỮA THỂ THƠ TỨ TUYỆT THỜI LÝ
VỚI THỂ THƠ TỨ TUYỆT THỜI TRẦN
Sự đối chiếu, so sánh này tiến hành trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
So sánh đối chiếu để thấy rõ diện mạo thơ tứ tuyệt thời Lý trong mối tương quan với thơ
tứ tuyệt thời Trần. Chương này gồm bốn phần:
4.1Vài nét về văn hóa-xã hội thời Trần
4.2Nội dung thơ tứ tuyệt thời Trần
4.3Nghệ thuật thơ tứ tuyệt thời Trần
4.4Đối chiếu, so sánh và kết luận
Phần kết luận
Khẳng định giá trị về mặt nội dung cũng như hình thức nghệ thuật của thể thơ tứ
tuyệt thời Lý.
Nhấn mạnh nét đặc trưng về hai phương điện nội dung và nghệ thuật của thơ tứ
tuyệt thời Lý, giúp cho việc giải mã các b.ài thơ thuộc thể thơ này.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ THE THƠ TỨ TUYỆT
1.1.QUAN NIỆM VỀ THỂ THƠ TỨ TUYỆT
1.1.1.Về thuật ngữ “tứ tuyệt”
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ tứ tuyệt. Tựu trung có các
luồng ỷ kiến sau :
Ý kiến thứ nhất cho rằng: Tứ tuyệt là một kiểu bài thơ chỉ có bốn câu. Số tiếng
trong câu không hạn chế, cách gieo vần tự do, không chịu sự ràng buộc của niêm luật.
Đại biểu cho trường phái này, tác giả Nguyễn Sĩ Đại cho rằng : "Tứ tuyệt trước hết là một
bài thơ bốn câu, không nhất thiết ngũ ngôn hay thất ngôn, không nhất thiết phải có niêm
luật chặt chẽ" [4, tr.14]. Chính vì hiểu như vậy mà tất cả các bài thơ bốn câu đều được
cho là thơ tứ tuyệt Ví dụ như trong đợt thi thơ tứ tuyệt trên báo Tài hoa trẻ có một số bài
thơ dự thi sáng tác theo khuynh hướng đó.
Nếu những sớm bên chồng tóc em buồn biếng chải
Nhớ tô giùm anh một chút son môi
Bởi vì anh trong những ngày còn lại
Mỗi sớm mai đã nhớ em rồi
(Hồ Văn Như-Nhớ, Tài hoa trẻ số 180 ngày 10.10.2001)
Cùng một cách hiểu như thế, Chế Lan Viên có bài tứ tuyệt sau :
Từ lúc em ra đi, hai lần gió mùa đông bắc thổi qua phòng
Lần trước lạnh vừa, lần sau lạnh gắt
Ở đất nước đánh giặc này, ta chỉ sợ gió mùa, không sợ giặc
Chỉ sợ lòng mình ai sợ gió mùa đông
(Chế Lan Viên - Gió mùa đông bắc)
Ý kiến thứ hai cho rằng: Thơ tứ tuyệt là "Ngắt lấy bốn câu trong bài bát cú mà thành
[7, tr.127]. Hoặc "Theo lối này (tức tứ tuyệt) thường ngắt hai câu đầu, hai câu cuối, hoặc
bốn câu cuối (của bài bát cú) mà thành" [34, tr.69]
Ý kiến thứ ba cho rằng : "Thơ bốn câu người ta còn gọi là tứ tuyệt tức là bài thơ
gồm bốn câu có ý nghĩa thật hay. Trong văn học Trung Quốc, người ta không gọi là tứ
tuyệt mà gọi là tuyệt cú" [19, tr.213]. Trong tác phẩm "Tìm hiểu các thể thơ", Tác giả Lạc
Nam xác định "Thơ bốn câu gọi là thơ tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú". Như
vậy, khái niệm về thể thơ gồm có bốn câu này, trở thành rối rắm vì cùng lúc được định
danh là tứ tuyệt và tuyệt cú với nội hàm khác hẳn nhau.
Để giải quyết vấn đề này, Tạ Ngọc Liễn, trong bài "Tứ tuyệt có phải là thơ bốn
câu?", đã khẳng định : "Trong các tài liệu xưa không hề có thuật ngữ tứ tuyệt, chỉ có
thuật ngữ tuyệt cú để chỉ những bài thơ bốn câu ngũ ngôn, lục ngôn hoặc thất ngôn, có
quy định bằng trắc niêm luật rõ ràng" [14]
Theo tài liệu xưa, quả là không hề có thuật ngữ tứ tuyệt. Tứ tuyệt chỉ là một từ biểu
thị hai nghĩa sau: 1- Lý Hoa làm, Bia của Nguyên Đức Tú, Nham Chân Hương viết, chữ
triện trên trán bia của Lý Dương Băng được gọi là tứ tuyệt
2-Một ngày trước lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông được chọn là ngày đại kị
[53, tr.315], còn tuyệt cú là khái niệm đùng để chỉ "Một thể thơ có sự phân biệt ngũ ngôn,
lục ngôn, thất ngôn. Bốn câu thành một bài, hoặc dùng vần bằng, hoặc dùng vần trắc,
khỏi đầu là thể thơ mới thời Tề, Lương, sau này vào thời Đường mới có tên là tuyệt cú.
[53, tr.1163]. Trong bài
tuyệt cú, nếu mỗi câu có năm chữ gọi là ngũ tuyệt, bảy chữ gọi là thất tuyệt.
Như vậy, khái niệm thơ tứ tuyệt mà chúng ta thường dùng chính là thể thơ tuyệt cú
của Trung Quốc. Đó Ịà thể thơ gồm bốn câu và có quy định về gieo vần, về niêm luật rõ
ràng. Đây cũng là chuẩn mực mà luận văn này dùng để thống kê, phân tích thơ tứ tuyệt
thời Lý. Kể từ đây trở đi, luận văn này sẽ tạm dùng danh xiữig tứ tuyệt để chỉ thể thơ
tuyệt cú cho phù hợp với thói quen xưa nay của người Việt. Danh xưng này được coi như
một tồn tại lịch sử. Thiết nghĩ có lẽ đã tới lúc phải định danh cho thể thơ gồm có bốn câu,
gieo vần tự do, không chịu ước thúc của niêm luật là "thơ bốn cậu" cho khỏi lẫn lộn khái
niệm.
1.1.2.Hình thức của một bài tứ tuyệt
Theo Đặng Đức Siêu và Nguyễn Ngọc San [31, tr.9,10,11] một bài tứ tuyệt có hình
thức như sau:
- Số câu, số chữ
Tứ tuyệt cổ thể hay cận thể đều có bốn câu, mỗi câu năm chữ (ngũ tuyệt) hoặc bảy
chữ (thất tuyệt).
-Vần
Vần trong thơ cổ thể nói chung là vần chân, toàn bài có thể dùng một vần hoặc
nhiều vần (vần liền hoặc vần cách).vần bằng hoặc vần trắc đều được cả. Trong thơ cổ thể
không có những quy định chặt chẽ về sự phối hợp bằng trắc (trong câu cũng như trong
toàn bài), nhưng cũng có yêu cầu khá cao về sự hài hoà thanh điệu.
Trong thơ cận thể (thơ Đường luật), một bài tứ tuyệt thường có ba vần (cuối các câu
1, 2, 4), nhưng cũng có thể chỉ có hai vần. Đó là hình thức trốn vần (chiết vận), vần có
thể lược bỏ ở câu 1. Từ gieo vần có thể là thanh bằng (vần bằng) hoặc thanh trắc (vần
trắc). Thông thường vần bằng được ưa chuộng hơn vần trắc.
- Bằng, trắc, nhịp, luật, niêm
Trình tự sắp xếp các từ có thanh bằng, thanh trắc trong thơ cận thể được
quy định rõ ràng, có thể thu gọn lại thành một số mô thức nhất định như sau:
a. Trong thơ ngũ tuyệt, có thể nêu bốn mô thức tiêu biểu nhất:
I-
b
b
b
t
t
II-
t
t
t
b
b
III-
b
b
t
t
b
IV-
t
t
b
b
t
b. Trong thơ thất tuyệt cũng có thể nêu bốn mô thức tiêu biểu:
I-
t
t
b
b
b
t
t
II-
b
b
t
t
t
b
b
III-
t
t
b
b
t
t
b
IV-
b
b
t
t
b
b
t
Sự thay đổi trình tự sắp xếp bốn mô thức đã nêu ở trên sẽ tạo ra bốn dạng thơ ngũ
tuyệt, thất tuyệt phổ biến nhất.
Bài thơ nào mở đầu bằng hai thanh bằng (thực tế chỉ căn cứ vào thanh của từ thứ hai
trong câu mở đầu bài thơ) là thơ luật bằng. Bài thơ nào mở đầu bắng hai thanh trắc (thực
tế chỉ căn cứ vào thanh của từ thứ hai trong câu mở đầu bài thơ) là thớ luật trắc.
Để việc tuân thủ các quy định về bằng, trắc được dễ dàng hơn, thi pháp học cổ điển
đưa ra lệ "nhất tam ngũ bất luận" cho thơ thất tuyệt và "nhất tam bất luận" cho thơ ngũ
tuyệt. Có nghĩa là: Trong một câu thất tuyệt, từ thứ nhất, từ thứ ba, từ thứ năm là bằng
hoặc trắc đều được cả. Trong một câu ngũ tuyệt, từ thứ nhất, từ thứ ba là bằng hoặc trắc
đều được.
Quy định về bằng, trắc trong thơ cận thể được vận dụng theo hai hệ thống: Hệ thống
ngang vận dụng trong từng câu thơ như đã trình bày ở phần trên; hệ thống dọc được vận
dụng trong phạm vi cả bài thơ, tạo ra mối quan hệ bằng, trắc giữa từng cặp câu thơ. Mối
quan hệ bằng, trắc theo hệ thống dọc này gọi là niêm. Theo quy định hai câu thơ được gọi
là niêm với nhau khi từ thứ hai của tông câu phải giống nhau về thanh, nếu là bằng thì
đều là bằng, nếu là trắc thì đều là trắc. Với thơ tứ tuyệt câu 1 và câu 4, câu 2 và câu 3
phải niêm với nhau.
Nhịp thơ đều là chẩn trước, lẻ sau: nhịp thơ ngũ tuyệt 2/3, nhịp thơ thất tuyệt 2/2/3.
-Đối
Về thực chất đối là một biện pháp tu từ tạo ra sự sóng đôi, cân xứng giữa từ với từ,
giữa câu với câu nhằm nhấn mạnh vào sự tương phản hoặc tương đồng để tăng thêm hiệu
quả biểu đạt. Biện pháp tu từ này vốn đã xuất hiện trong tản văn, trong vận văn cổ. Với
thơ cận thể, đối được vận dụng rộng rãi trên các mặt thanh điệu (bằng đối với trắc hoặc
ngược lại), ý (tương đồng hoặc tương phản), từ loại (danh từ đối với danh từ, tính từ đối
với tính từ... nói chung là thực từ đối với thực từ, hư từ đối với hư từ) và câu (kết cấu cú
pháp đồng.dạng). Trong thơ tứ tuyệt nói chung không cần đối. Nếu cổ đốrtíù câu 1 và câu
2 đối nhau hoặc câu 3 và câu 4 đối nhau, hoặc cả hai cặp câu 1 và 2, 3 và 4 đều đối nhau.
-Kết cấu
Bốn câu trong thơ tứ tuyệt đều có chức năng riêng, liên kết với nhau một cách hữu
cơ, tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật. + Câu 1 được gọi là câu khai, với nghĩa mở đầu. +
Câu 2 gọi là câu thừa, với nghĩa nối tiếp ý đã triển khai trong câu 1. + Câu 3 gọi là câu
chuyển, với nhiệm vụ chuyển tiếp ý của hai câu 1 và 2 xuống dưới.
+ Câu 4 gọi là câu hợp, với nghĩa gói ghém ý tình, làm lời kết của cả bài thơ.
1.1.3.Thanh bằng và thanh trắc
Trong tiếng Hán thời trung cổ, người ta phát hiện có bốn thanh (tứ thanh) là bình,
thướng, khứ, nhập. Cần cứ vào tên gọi (bình = bằng, thướng = lên, khứ = đi) và căn cứ
vào luật chuyển đổi bằng trắc trong thi ca, chứng ta có thể phỏng đoán bình là một thanh
điệu không thay đổi độ cao, còn thướng, khứ là hai thanh điệu có thay đổi về mặt nào đó
trong quá trình phát âm. Sự đối lập giữa bình (thanh bằng) và thướng, khứ (thanh trắc) là
sự đối lập dựa vào tiêu chí khu biệt "Bằng phẳng // không bằng phẳng". Sự đối lập giữa
thướng thanh và khứ thanh là sự biến thiên "lên cao // xuống thấp", về sau, tiêu chí khu
biệt của thướng thanh và khứ thanh là sự biến thiên "đường gãy khúc // đường không gãy
khúc".
Còn thanh nhập là kết quả của sự khác nhau khi phát âm những cặp vần: có âm cuối
kết thúc bằng âm mũi, vang, hữu thanh // có âm cuối kết thúc bằng âm tắc, đóng vô
thanh.... Như vậy tiêu chí khu biệt thanh nhập là "trong // đục".
Quá trình biến đổi của thanh điệu tiếng Hán tương đối phức tạp. Qua khảo sát các
cứ liệu, Nguyễn Tài Cẩn [2, tr.325] đã dựa ra bảng đối chiếu giữa thanh điệu tiếng Hán
và tiếng Việt như sau:
Toàn thanh
Thứ thanh
Toàn trọc
Thứ trọc
Bình
NGANG
NGANG
NGANG
HUYỀN
Thướng
HỎI
HỎI
NGÃ
NGÃ/NẶNG
Khứ, nhập
SẮC
SẮC
NẶNG
NẶNG
Như vậy, hệ thống bằng, trắc trong ngữ âm tiếng Việt được sắp xếp như sau:
• Thanh bằng :
NGANG – HUYỀN
• Thanh trắc:
HỎI - SẮC - NGÃ - NẶNG.
Đây là tiêu chí để xác định luật bằng - trắc khi thống kê, phân tích các bài thơ
Đường luật nói chung và các bài tuyệt cú nói riêng.
1.2.MỐI QUAN HỆ GIỮA TUYỆT CÚ VÀ LUẬT THI
1.2.1 Xin trở lại ý kiến: Tứ tuyệt là "Ngắt lấy bốn câu trong bài bát cú mà thành"
như tác giả Dương Quảng Hàm và một số học giả khác nhận định.
Trước tiên, cần làm rõ về thể thơ bát cú. Thật ra không có thuật ngữ bát cú. Đây chỉ
là cách gọi của người Việt, đùng để chỉ thể thơ gồm tám câu, làm theo Đường luật. Thể
thơ này "hình thành vào thời Sơ Đường, cách luật tương đối chặt chẽ, mỗi bài tám câu,
câu 2,4, 6, 8 phải cùng vần, hai câu 3, 4 và hai câu 5, 6 phải đối ngẫu, bằng trắc mỗi chữ
có qui định, mỗi câu của bài thơ có năm chữ gọi là ngũ ngôn luật thi, có bảy chữ gọi là
thất ngôn luật thi"
Nếu ngược đòng vận văn truyền thống của Trung Quốc mà xem xét vấn đề, ta dễ
dàng nhận thấy: Các bài thơ cổ của Trung Quốc thường không hạn định về số câu.
Bài thơ cổ nhất của Trung Quốc gồm năm câu:
Nghĩa : Mặt trời lên, ta đi làm, mặt trời lặn ta nghĩ. Ta đào giếng lấy nước uống, cày
ruộng lấy cơm ăn. Vua chúa có thể như thế nào với ta?
Trong Kinh thi bài "Quan thư" gồm ba chương, chương 1 có hai câu, chương 2,
chương 3 có bốn câu:
- Xem thêm -