MÔN VĂN
M C
M
ỂM: V05
C UYÊN Ề
THI PHÁP TRUYỆN NGẮN QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM
CỦA THẠCH LAM VÀ NAM CAO
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tác phẩm truyện ngắn được tuyển chọn vào chương trình phổ thông
rất nhiều, nhất là ở cấp
chương trình).
(Chiếm 3/4 số lượng tác phẩm văn xuôi trong
iều này phản ánh đúng tương quan của thành tựu truyện
ngắn so với những thể loại văn xuôi khác trong đời sống văn học của
chúng ta. Như thế, làm chủ mảng truyện ngắn là làm chủ phần văn xu ôi
cốt yếu nhất của chương trình. Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy môn
Ngữ văn ở trường T PT, chúng tôi nhận thấy việc giảng dạy truyện ngắn
còn chưa chú ý đúng mức và chưa làm nổi bật được thi pháp của thể loại
trong khi điều này lại rất cần thiết. Bởi nghiên cứu, giảng dạy truyện ngắn dưới
góc độ thi pháp học sẽ giúp chúng ta khám phá một cách chính xác các cấu trúc
hình thức mang tính nội dung của tác phẩm văn học, phục vụ cho việc tìm hiểu nội
dung tác phẩm một cách đích thực, hoàn toàn không có sự gán ghép hoặc cảm
nhận thiếu cơ sở; bên cạnh đó còn giúp chúng ta hiểu đủ, hiểu đúng các tác phẩm
văn chương trong quá trình phát triển tư duy nghệ thuật, đánh giá đúng tư duy nghệ
thuật của mỗi tác phẩm văn chương và hình tượng tác giả, không sa vào hình thức
chủ nghĩa.
Nói về thể loại truyện ngắn trong văn học hiện đại Việt Nam không thể
không nhắc đến hai tên tuổi đã góp phần đưa thể loại này đạt đến những thành tựu
rực rỡ: Thạch Lam và Nam Cao.
ây là hai tác giả có những đóng góp lớn cho sự
phát triển của văn học dân tộc với nhiều truyện ngắn xuất sắc. Thạch Lam và Nam
Cao vì thế cũng là hai tác giả quan trọng trong chương trình T PT, các đề thi đại
học, cao đẳng, đề thi học sinh giỏi tỉnh và quốc gia đều liên quan đến những tác
phẩm của hai nhà văn này.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Thi pháp truyện ngắn qua một
số tác phẩm của Thạch Lam và Nam Cao” với mong muốn đem lại cái nhìn đầy
đủ, toàn diện hơn về truyện ngắn của hai nhà văn ưu tú dưới góc độ thi pháp học.
1
2. Lịch sử vấn đề
ã có rất nhiều công trình lí luận, phê bình văn học bàn về các tác phẩm của
Thạch Lam và Nam Cao. Cũng đã có nhiều luận văn, bài báo đề cập đến một số
khía cạnh thi pháp trong truyện ngắn của hai nhà văn lớn.
ây là những tài liệu
quý giá, gợi ý trực tiếp cho chúng tôi tìm đến với đề tài nghiên cứu này.
3. Phạm vi vấn đề
Trong chương trình T PT, có hai tác phẩm của Thạch Lam và Nam Cao
được đưa vào giảng dạy: Truyện ngắn “ ai đứa trẻ” (Thạch Lam) và truyện ngắn
“Chí Phèo” (Nam Cao) – ây chính là hai tác phẩm tiêu biểu cho cuộc đời cầm bút
của mỗi nhà văn. ể phục vụ sâu rộng hơn cho nội dung đề tài, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu thêm những tác phẩm nổi bật của hai nhà văn ở thể loại truyện ngắn.
4. Mục đích nghiên cứu
Là một giáo viên dạy văn cấp T PT, việc tìm hiểu thi pháp truyện ngắn qua
một số tác phẩm của Thạch Lam, Nam Cao là một cách để người viết tự học, tự
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
ơn nữa, chúng tôi mong muốn qua đề
tài này sẽ giúp học sinh tìm được một con đường đi hiệu quả, để khám phá thế giới
nghệ thuật phong phú trong những truyện ngắn đặc sắc của hai nhà văn lớn.
ồng
thời, đây cũng là cơ hội để người viết được trao đổi với đồng nghiệp về những vấn
đề quan trọng trong thi pháp của thể loại truyện ngắn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích, bình giảng
Thống kê phân loại
So sánh đối chiếu
2
B. PHẦN NỘI DUNG
I.Giới thuyết về thi pháp truyện ngắn và vị trí của Thạch Lam, Nam Cao
trong làng truyện ngắn Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
1.Thi pháp truyện ngắn
Trong sáng tác và nghiên cứu văn học, Thi pháp được hiểu theo nghĩa rộng,
bao hàm các phương thức, thủ pháp, kĩ thuật viết một tác phẩm.
ó có thể là
những quy chuẩn chung của một thể loại (thi pháp thơ ường, thi pháp tiểu thuyết,
thi pháp truyện ngắn…), hoặc những cách viết mang phong cách cá nhân của một
tác giả (thi pháp truyện ngắn của tác giả A, thi pháp tiểu thuyết của nhà văn B…).
Thi pháp học là bộ môn khoa học cũ mà mới. Cũ là bởi vì nó đã xuất hiện ở
y Lạp từ thời cổ đại với Nghệ thuật thi ca của Aristote. Nhưng Thi pháp học với
tư cách là một bộ môn khoa học chỉ hình thành vào đầu thế kỷ XX ở Nga rồi dịch
chuyển sang Âu – Mỹ và phổ biến khắp thế giới. Ở Việt Nam trước 1975, Thi pháp
học đã thâm nhập vào miền Nam nhưng chưa có điều kiện phổ biến ở miền Bắc.
Mãi đến sau
ổi mới, nó mới được chú ý và nhanh chóng trở thành “mốt” thời
thượng được nhiều người vận dụng. Thi pháp học được dạy ở bậc Cao học,
ại
học và có trong sách bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học. Tinh thần Thi
pháp học đang thấm dần trong sách giáo khoa, trong giờ giảng văn và trong bài
làm văn học sinh. Thi pháp học đang thu hút sự quan tâm của giới học đường.
Về thể loại truyện ngắn, đây vốn được coi là một thể loại văn học có nội khí
"một lời mà thiên cổ, một gợi mà trăm suy", nó hàm chứa cái thú vị của những điều
sâu sắc trong một hình thức nhỏ xinh, gọn ghẽ và truyền dẫn cực nhanh những
thông tin mới mẻ. Nhận diện thể loại truyện ngắn cũng như sáng tạo về thể
loại truyện ngắn là một nỗ lực liên tục cho cả người sáng tác và giới
nghiên cứu phê bình. Từ W. Gớt thế kỷ XV
cho đến Sêkhốp, từ Lỗ Tấn
đến Môpatxăng, từ Antônốp thế kỷ X X - XX, đến Nguyễn Công
oan,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Kiên… họ đã đưa ra những cách phân biệt
khác nhau. Các khái niệm thường xoáy vào bình diện chính: dung lượng,
3
cốt truyện, nhân vật, chi tiết, ngôn ngữ… để khái quát thành đặc trưng.
Người cho truyện ngắn là một “khoảnh khắc”, một “trường hợp”, người
nhấn mạnh vào nhân vật, vào tính súc tích của chi tiết, cô đúc của ngôn
từ… Ở phần chủ yếu, chúng ta có thể hình dung: truyện ngắn là một tác
phẩm tự sự cỡ nhỏ mà nội dung thường chỉ xoay quanh một tình huống
truyện chủ chốt nào đó.
Nói đến Thi pháp truyện ngắn là nói đến những cách viết thường
được các tác giả sử dụng và được các nhà nghiên cứu đúc kết, coi là quy
chuẩn của thể loại này. Tuy nhiên, trong thực tế sáng tác, mỗi nhà văn lại
nhìn nhận những cách viết đó một cách khác nhau tùy vào quan điểm
thẩm mỹ của mình. Có thể nghiên cứu, tìm hiểu thi pháp truyện ngắn của
một nhà văn trên những bình diện như cốt truyện, tình huống truyện,
nhân vật, không gian và thời gian truyện, ngôn ngữ và giọng điệu…
2.Vị trí của Thạch Lam và Nam Cao trong làng truyện ngắn Việt Nam
nửa đầu thế kỉ XX.
Ở Việt Nam, truyện ngắn là một hình thức văn xuôi nghệ thật mới được đưa
vào và phát triển trong những năm đầu của thế kỷ XX. Giai đoạn 1930-1945 được
xem là cực thịnh của truyện ngắn Việt Nam với những tên tuổi như Nguyễn Tuân,
Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… iều đó không chỉ thể hiện ở số lượng
tác phẩm mà còn thể hiện ở chiều sâu giá trị nội dung tư tưởng và những đặc sắc
của thể loại truyện này. Nhìn chung, truyện ngắn giai đoạn này có thể chia thành
ba loại chính:
- Loại truyện ngắn giàu kịch tính: thấm đẫm tiếng cười chua chát, mỉa mai. Ở loại
truyện này truyện ngắn của Nguyễn Công
oan là tiêu biểu hơn cả. Tác tác phẩm
của ông thường là một màn kịch trào phúng xoay quanh một tình huống trào
phúng nào đó được phóng đại lên đến mức cao độ để làm nổi bật tính chất bất
công, vô lí, nhố nhăng, lố bịch của xã hội thực dân, tư sản.
4
- Loại truyện giàu chất triết lí: thể hiện quan sát sâu sắc của nhà văn khi thâm nhập
vào thế giới nội tâm của nhân vật, nổi bật hơn cả là những truyện ngắn của Nam
Cao. Sự ra đời và thành công của chủ nghĩa hiện thực phê phán không thể thiếu
vắng Nam Cao và những sáng tác của ông. Truyện ngắn Nam Cao giữ một vị trí
riêng biệt trong làng truyện ngắn Việt Nam. Nam Cao thực sự chiếm một vị trí
đỉnh cao của trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
- Loại truyện tâm trạng:
ó là loại truyện giàu chất thơ, đào sâu vào thế giới tiềm
thức của con người mà Thạch Lam là tác giả tiêu biểu. Thạch Lam là cây bút đầu
tiên có ý thức khai thác chất thơ trong đời sống bình dị, thường nhật. Truyện ngắn
Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm
buồn. Nhà văn đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm
giác mơ hồ mong manh, tinh tế.
ai yếu tố hiện thực và trữ tình luôn đan cài, xen
kẽ vào nhau, tạo nên nét đặc sắc khó lẫn trong phong cách nghệ thuật của ông.
Sinh ra trong thời buổi “mưa Âu gió Mĩ”, khi mảnh đất hiện thực đã được
bao nhà văn cày xới nhưng Thạch Lam và Nam Cao vẫn tìm được cho mình một
thửa ruộng riêng để gieo trồng con chữ.
ai nhà văn đã rất thành công ở thể loại
truyện ngắn, đã đóng góp lớn vào tiến trình hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam,
nhất là ở loại truyện ngắn hiện thực và truyện ngắn trữ tình.
II.Thi pháp truyện ngắn qua một số tác phẩm của Thạch Lam và Nam Cao.
1.Thi pháp tình huống truyện
1.1.Tình huống trong truyện ngắn
Tình huống là một vấn đề quan trọng trong nghệ thuật tự sự đặc biệt là đối
với truyện ngắn. Có rất nhiều định nghĩa về tình huống. eghen trong tác phẩm Mỹ
học đã định nghĩa: Tình huống là một trạng thái có tính chất riêng biệt. Có người
coi tình huống là cái tình thế nảy ra truyện, là lát cắt của đời sống mà qua lát cắt ấy
có thể thấy cả trăm năm của cả một đời thảo mộc như qua một giọt nước mà thấy
cả đại dương vậy. Có người lại cho rằng: tình huống là một khoảnh khắc mà trong
5
đó sự sống hiện ra rất đậm đặc, khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, thậm chí
cả một đời nhân loại hay tình huống là một hoàn cảnh đặc biệt của đời sống. Như
vậy, có thể hiểu một cách khái quát rằng: Tình huống truyện là một sự kiện đặc
biệt trong đó chứa đựng một bất thường của quan hệ đời sống.
Căn cứ vào tính chất, có thể chia thành ba loại tình huống cơ bản như sau:
- Tình huống hành động: Là một sự kiện đặc biệt nào đó của đời sống mà tại đó
nhân vật bị đẩy vào tình thế chỉ có hành động mới thoát ra khỏi tình thế ấy. Tình
huống này tạo nên kiểu nhân vật hành động và tạo nên những truyện ngắn giàu
kịch tính.
- Tình huống nhận thức: Là một sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật
phải đối mặt với một vấn đề nhận thức, phải khám phá vỡ lẽ một vấn đề nhân sinh
nào đó. Loại tình huống này tạo nên kiểu nhân vật tư tưởng và tạo nên kiểu truyện
ngắn giàu chất triết luận.
- Tình huống tâm trạng: Là một sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật có
một biến động trong thế giới tình cảm. Loại tình huống này tạo nên kiểu nhân vật
tâm trạng và tạo nên kiểu truyện ngắn trữ tình
Việc phân chia như trên chỉ có tính chất tương đối. ơn nữa, ở một số truyện
ngắn không chỉ tồn tại một tình huống mà có thể có hai hoặc ba loại tình huống.
Bởi vậy muốn xác định tình huống trong một tác phẩm chúng ta cần căn cứ vào
tính chất bao trùm, nổi bật của tình huống trong đó.
Phải khẳng định rằng, tình huống có một vai trò quan trọng trong truyện
ngắn: là nhân tố tổ chức của thiên truyện bao trùm và chi phối các nhân tố khác
như nhân vật, bố cục, kết cấu, lời trần thuật…, góp phần làm nổi bật tính cách nhân
vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nhà văn Nguyên Ngọc so sánh việc sáng tạo
tình huống giống như thủ thuật điểm huyệt: Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện
bằng cách nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày những cái chủ yếu
nhưng lại bị che giấu trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày. Những nhà văn tài
năng là những người có tài tạo ra được những tình huống có vấn đề, nghĩa là “có
6
thể chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc
sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc bắt buộc con
người ở vào một cái thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu
kín nhất, thậm chí có khi đó là cái khoảnh khắc chưa cả một đời người, một đời
nhân loại” (Chu Văn Sơn). Bởi vậy, khi tạo được một tình huống đặc sắc, nhà văn
xem như đã có một tiền đề khá chắc chắn cho thành công của tác phẩm.
1.2.Tình huống truyện trong truyện ngắn của Thạch Lam và Nam Cao.
Truyện của Thạch Lam hầu hết chỉ có một tình huống và thường là những
tình huống trữ tình, tình huống tâm trạng. Ông thường đặt nhân vật của mình vào
trong những phản ứng tâm lý với những sự kiện và những diễn biến bên trong của
nhân vật trong mối quan hệ với các nhân vật khác hoặc trước một sự kiện nào đó,
trước một khoảnh khắc thời gian, không gian nào đó…
“Hai đứa trẻ” chứa đựng một tình huống về một cuộc đợi tàu kì lạ nhờ đó
mà làm nổi bật diễn biến tâm trạng của cô bé Liên. Tình huống truyện trong “ Đứa
con đầu lòng” lại là những cảm xúc giăng mắc trong tâm trạng người đàn ông có
tên là Tân trong cảm xúc buổi đầu được làm cha. Nếu quá trình vận động bên trong
của nhân vật Liên là sự mong mỏi, khao khát được thấy chuyến tàu đêm qua phố
huyện mang theo một thứ ánh sáng của thế giới văn minh thì sự vận động nội tại
của nhân vật Tân chính là sự thay đổi cảm giác. “Dưới bóng hoàng lan” cũng là
một tình huống trữ tình, tâm trạng tiêu biểu, đó là những cảm giác thoải mái và dịu
ngọt của nhân vật Thanh trong một lần về thăm quê.
Tình huống trong truyện ngắn của Nam Cao phức tạp hơn. Truyện không chỉ
đơn thuần có một tình huống mà có truyện chứa đựng nhiều tình huống như Chí
Phèo và chủ yếu là sự xuất hiện của hai loại tình huống: tình huống nhận thức và
tình huống hành động. “Lão Hạc” là sự vỡ lẽ của nhân vật ông giáo về vẻ đẹp tâm
hồn của nhân vật lão ạc. iền trong “Trăng sáng” đã từng say mê dưới ánh trăng
xanh huyền ảo để rồi nhận ra : “nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia
thoát ra từ những kiếp lầm than”. Nếu nhà văn đã từng để
ộ nhận thức ra bao lẽ
7
sống tình thương bao đam mê khát vọng thì nhà văn cũng để Chí Phèo vật vã đau
đớn trước bi kịch bị cự tuyện quyền làm người . Cái khoát tay của Thị Nở đã đẩy
Chí vào “đường cùng tuyệt lộ”. Nhát dao đâm chết Bá Kiến chính là cách để Chí
giải thoát mâu thuẫn giằng xé ngay trong tâm can mình.
Như vậy, tình huống truyện của Thạch Lam đưa ta xuôi chiều theo cảm xúc,
còn tình huống truyện của Nam Cao lại thôi thúc ta bằng hành động. Tình huống
với mỗi truyện ngắn như một cái tứ trong một bài thơ, nó bộc lộ tài năng của nhà
văn , cách cảm nhận thế giới trong ánh mắt riêng. Thạch Lam và Nam Cao đã làm
được điều đó.
2.Thi pháp cốt truyện
2.1.Cốt truyện trong truyện ngắn
Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một vài biến cố, mặt nào đó của đời
sống, các sự kiện tập trung trong một không gian, thời gian nhất định, nói như nhà
văn Nguyễn Kiên: “Truyện ngắn thường chỉ phản ánh một khoảnh khắc, một mẩu
nhỏ nào đó của cuộc sống”. Rất nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đã đề cao vai trò
của cốt truyện truyện ngắn.
ại thi hào Gơt cho rằng: “Một truyện ngắn hay phải
có cốt truyện kỳ lạ, hay nói cách khác nghệ thuật truyện ngắn đồng nghĩa với nghệ
thuật sáng tạo cốt truyện”. Nhà văn Kuranop cũng yêu cầu: “Trong truyện ngắn cốt
truyện đòi hỏi phải được xây dựng kỹ càng hơn, nhưng cốt truyện có bề sâu nội tại
chứ không phải chỉ có cái vẻ ngoài”.
Trong các yếu tố của cốt truyện truyện ngắn, các nhà văn đặc biệt nhấn
mạnh đến vai trò của chi tiết, của đoạn mở đầu và của đoạn kết. Chi tiết là các tiểu
tiết của tác phẩm nghệ thuật văn xuôi tự sự, có khả năng biểu hiện tư tưởng và cảm
xúc. Theo các tác giả cuốn “Lí luận văn học” (NXB Giáo dục - 1997): “Yếu tố có ý
nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và hành
văn mang ẩn ý”. Nhiều khi truyện ngắn sống được là nhờ vào chi tiết hay, chi tiết
phát sáng, chi tiết đắt giá. Nhiều nhà văn còn rất quan tâm đến phần mở đầu và
phần kết của truyện ngắn. Sêkhôp nhấn mạnh: “Theo tôi, viết truyện ngắn cốt nhất
8
phải tô đậm cái mở đầu và kết luận”. Vôrônin lại khẳng định: “Câu đầu là một thứ
âm chuẩn, giúp cho việc tao âm hưởng chung của toàn bộ tác phẩm”. Nhà văn Nga
Phuôcmanôp lại nhận xét: “Sức mạnh của cú đấm (nghệ thuật) là thuộc về đoạn
cuối.
ể cho doạn kết được rộng, tạo nên độ tin cậy và quyền chủ động của người
đọc theo lý thuyết đồng sáng tạo, trong truyện ngắn hiện đại thường có một khoảng
trống tự do ở cuối truyện. Lối kết thúc mở còn tạo ra sự bất ngờ làm cho câu truyện
vì thế ám ảnh và có dư ba, kể cả khi tác phẩm đã lùi xa trong thời gian.
2.2.Cốt truyện trong truyện ngắn Thạch Lam, Nam Cao
Thạch Lam quan niệm: "Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn
mình, tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm
hồn mọi người qua tâm hồn của chính mình". Từ đó có thể thấ y, cái hiện
thực mà nhà văn quan tâm và đặt lên hàng đầu là hiện thực tâm trạng, là
những xúc cảm, rung động của tâm hồn con người. Bởi vậy mà truyện
ngắn của Thạch Lam hầu như “không có cốt truyện”, mạch truyện không
vận động theo mạch của những tình tiết, sự kiện mà vận động theo mạch
cảm xúc, tâm trạng nhân vật.
Truyện ngắn " ai đứa trẻ” tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn
Thạch Lam – truyện không có cốt truyện. Bởi lẽ, câu chuyện chỉ là cảnh một
buổi chiều tối ở một phố huyện nghèo nàn, tăm tối, với tiếng trống thu không, cảnh
chợ chiều hiu hắt, với một chõng hàng nước, một gánh hàng phở, một gia đình bác
xẩm ê a, một bà già điên uống rượu cười sằng sặc và hai chị em cô hàng xén Liên,
An cố thức chờ chuyên tàu đêm đi qua... Chỉ có vậy thôi, chẳng có tình huống gay
cấn, éo le cũng không có mâu thuẫn xung đột. Nhưng truyện lại hấp dẫn và gợi lên
trong người đọc nhiều suy nghĩ. Nhà văn đã đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân
vật Liên - một cô gái chưa hoàn toàn bước ra khỏi thời ấu thơ, một cô gái
có tâm hồn thuần khiết và nhạy cảm. Từ điểm nhìn ấy, bức tranh đời sống
được tái hiện với sự đan xen, song hành và xâm nhập của cảm giác thực
tại và hồi ức quá khứ mà dường như, cái nổi trội lên, chi phối sự vận động
của mạch truyện lại là hành trình tìm lại những kí ức quá khứ từ chính cái
9
hình ảnh đang hiện diện trong thực tại - hình ảnh đoàn tàu. Triển khai
mạch truyện theo hướng này, ngòi bút Thạch Lam có xu hướng hướng nội,
đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc, cảm giác nhiều khi rất mong
manh, mơ hồ, thoáng qua, những biến thái tinh vi của tâm hồn trước ngoại
cảnh: nỗi buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn, những hoài niệm
da diết về một
à Nội trong kí ức tuổi thơ, những cảm giác xa xôi không
biết… Chính vì vậy mà tuy không có cốt truyện li kì, nhưng “ ai đứa trẻ”
vẫn sống lâu bền trong lòng người đọc bao thế hệ như một “bài thơ trữ tình đầy xót
thương”, qua đó thấy được tấm lòng nhân hâụ cao cả của Thạch Lam với nhiều dư
vị, dư vang ấm áp của tình người, tình đời trong một xã hội nhiều khổ đau, bất
hạnh.
Truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” cũng có cốt truyện đơn giản - nói về
chuyện cho áo, trả áo giữa ba đứa trẻ và hai người mẹ nơi phố huyện nghèo.
Nhưng câu chuyện lay động chúng ta bởi những chi tiết “ấm áp tình đời và tình
người”: Chi tiết cái iên - con nhà mò cua bắt ốc đứng “co ro” bên cột quán, trong
gió lạnh chỉ mặc có manh áo “rách tả tơi”, “hở cả lưng và tay”; chi tiết Sơn “động
lòng thương” chợt nhớ ra mẹ cái
vẫn cùng chơi với
iên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước
iên ở vườn nhà nên bàn với chị Lan cho cái
iên chiếc áo
bông cũ. Chị Lan “hăm hở” chạy về nhà lấy áo; chi tiết Sơn yên lặng đợi chờ,
trong lòng tự nhiên thấy “ấm áp vui vui”… đều khiến người đọc cảm nhận được
những hoàn cảnh và tình cảm rất chân thành, cao quý. Phần cuối truyện mở ra một
tình huống thú vị: trả áo và cho vay tiền mua áo. Mẹ cái
iên đã đem cái áo bông
đến trả cho bà mẹ của chị em Sơn và nói: “Tôi về thấy cháu nó mặc cái áo bông,
tôi hỏi ngay. Nó bảo của cậu Sơn cho nó. Tôi biết cậu ở đây đùa, nên tôi phải vội
vàng đem lại đây trả mợ…”. Mẹ cái iên tuy nghèo đói mà sạch và thơm. ối với
mẹ của Sơn thì cái áo bông cũ là di vật thiêng liêng của đứa con gái bé bỏng tội
nghiệp đã mất khi lên 4 tuổi. Cử chỉ mẹ của Sơn cho mẹ cái iên vay năm hào bạc
để mua áo rét cho con là nghĩa cử “Thương người như thể thương thân”. Người mẹ
hiền “âu yếm ôm con vào lòng” và bảo: “ ai con tôi quý quá, dám tự do lấy áo
đem cho người ta không sợ mẹ mắng ư ?” làm cho câu chuyện thêm ý vị. Tình
10
huống kết thúc rất nhẹ nhàng nhưng đã tạo dư ba cho câu chuyện, bởi đó là những
bài học làm người vô giá mà những người mẹ hiền dạy con.
Như vậy, truyện ngắn Thạch Lam thể hiện một lối kết cấu độc đáo, truyện
không có chuyện, không có mâu thuẫn, xung đột, chỉ là những chi tiết, hình ảnh
khơi gợi cảm giác, suy tư trăn trở về những kiếp người sống tàn tạ, lay lắt nơi ga
xép, phố huyện nghèo nàn. Truyện đi sâu vào miêu tả tâm lý, tâm trạng nhân vật
với những biểu hiện cảm xúc vi tế, mơ hồ mà có sức lay động tâm hồn sâu sắc.
Nam Cao lại có phương thức cấu trúc riêng khi xây dựng các truyện ngắn
của mình. Bởi thế đặt trong mối tương quan của cấu trúc thể loại, truyện ngắn Nam
Cao có nhiều nét khác lạ. Trong quan niệm thông thường của lý luận văn học và
kinh nghiệm sáng tác, truyện ngắn thường chứa đựng trong đó một sự kiện, một
hành động. Phương thức tổ chức truyện ngắn của Nam Cao thường đi ra ngoài
khuôn khổ quen thuộc hay ít ra cũng là biến dạng triệt để khuôn mẫu. Truyện của
ông thường ít có cốt truyện hiểu theo nghĩa thông thường, nhưng lại luôn luôn có
sự vận động bên trong tạo thành một kiểu cốt truyện của riêng Nam Cao.
ể thực hiện ý đồ nghệ thuật và biểu hiện thích hợp với nội dung tư tưởng
của truyện, Nam Cao đã cấu trúc các truyện của mình chủ yếu theo phương thức
như cấu trúc theo số phận, theo tâm lý nhân vật, theo một chủ đề, một tính cách...
và phương thức cấu trúc theo số phận nhân vật được sử dụng khá nhiều trong
truyện ngắn Nam Cao. Các câu chuyện thường nương theo trục diễn biến của thời
gian, dõi theo cả cuộc đời nhân vật hoặc một chặng đường dài của đời.
ó là
phương thức cấu trúc của truyện: Ở hiền, Dì Hảo, Điếu văn, Một bữa no, Từ ngày
mẹ chết, Chí Phèo, Mẫu Đơn, Tư cách mõ... Những cuộc đời được miêu tả trong
câu chuyện này, dù đa dạng như cuộc sống hiện thực nhưng vẫn có gì đó giống
nhau: Nghèo đói, hiu hắt, ngày càng trĩu xuống trong khổ sở, khốn cùng. Một màu
xám mờ như bao phủ lên số phận nhân vật. Với phương thức cấu trúc này, Nam
Cao làm rõ nét, tô đậm đồ thị đi xuống của mọi số phận người nông dân bị bần
cùng hóa mỗi ngày một thêm thảm khốc. Nam Cao truyền đạt thật rõ ràng và sâu
sắc sự quan sát này, cái ấn tượng chung về hiện thực tàn nhẫn đang náu mình trong
những ngôi nhà gianh lụp xụp sau lũy tre làng trong màn đêm dày đặc bao phủ đời
11
sống thôn quê, biết bao số phận như những đốm lửa le lói cứ kiệt dần đi và tàn lụi.
Cuộc đời của Dì
ảo là như thế: Con của một người đàn bà nghèo bán bánh đúc,
chưa kịp khôn lớn thì bị bán đi làm con nuôi cho đỡ một miệng ăn trong nhà và có
thêm vài đồng bạc để “sang áo” cho bố. Rồi Dì
ảo về nhà chồng vào một buổi
chiều có sương bay, bắt đầu cuộc đời là vợ, và thực ra là làm thuê nuôi một người
chồng rượu chè, thô lỗ. Dì đẻ con, con chết, còn dì thì tê liệt. Người chồng rước vợ
bé về, chúng trêu ghẹo trước mắt dì, còn dì vẫn cắn răng nhịn nhục. Tối chúng lục
đục kéo nhau đi. Người chồng về, rượu say, chửi đời, chửi số kiếp rồi lại đi, không
biết đi đâu - Dì
ảo đã khóc bao đêm, bao nhiêu lần trong đời, khóc đến thổ ra
nước mắt. Rồi thì dì nghĩ “phải, nhẫn lại là hơn, nếu hắn không về thì cũng thế” và
“nếu hắn cứ ở nhà thì cũng thế”. Cũng tương tự như số phận của Dì
ảo là cuộc
đời của Nhu trong “Ở hiền”. Trong những truyện ngắn miêu tả số phận này, không
có nút mâu thuẫn nào - truyện có tình huống nhưng không có hành động bởi vì
nhân vật không hành động cứ xuôi tay mà lụi đi. Tình huống như chỉ diễn ra phía
ngoài, chung quanh một nhân vật thầm lặng nhịn nhục như một cái bóng có chăng
họ chỉ biết lấy những giọt nước mắt làm vợi bớt nỗi đau. Chính nhà văn cũng phải
ngậm ngùi, chán ngán cho thân phận họ “câu chuyện còn khá dài dòng. Nhưng kéo
dài ra để làm gì?”. Có thể kể tường tận cuộc đời làm vợ của Nhu thì cũng chỉ thế
mà thôi - Người thì ở chỗ nào chả là người! Mà cuộc đời thì ở bất cứ cảnh nào
cũng chảy trôi theo những định luật chưa bao giờ lay chuyển được (Ở hiền).
Ngay trong phương thức cấu trúc làm nổi rõ số phận nhân vật, ngòi bút Nam
cao thể hiện khả năng dựng truyện, dẫn truyện phong phú với bao nhiêu kiểu cấu
trúc đa dạng - như sự đa dạng của chính cuộc sống. Trong dòng đời ấy, trong
những số kiếp người lầm than, có bao nhiêu là cách tàn lụi, có bao nhiêu là kiểu
kết thúc thảm thương. Nam Cao chú ý miêu tả chặng cuối, hoặc ít ra là chặng thê
thảm nhất của nhân vật trong suốt cả cuộc đời vốn chất chồng đầy nỗi khổ đau. ó
là hậu quả của một quá trình bần cùng hóa khắc nghiệt và gấp rút bám riết lấy số
phận nhân vật, đưa đến li tán, đến bơ vơ và hơn nữa, đưa đến chấm hết cái chết.
Cảnh “một đám cưới” thực ra chỉ cố một cách chia bớt miệng ăn, một cảnh xẻ đàn
12
tan nghé (Một đám cưới). Một người mẹ nghèo chết đi, vì tiếp sau đó là sự tan nát
dần của cái gia đình còn lại (Từ ngày mẹ chết).
Trong hệ thống các truyện ngắn của Nam Cao, trước hết là số phận viết về
người nông dân, nhà văn cho ta thấy nhiều số phận kết thúc bằng cái chết thảm,
chết oan ức, chết đau đớn...
Lang Rận, Lão
ấy là số phận của anh
ĩ Chuột trong “Nghèo”, của
ạc, Chí Phèo (trong những truyện ngắn cùng tên). Trong truyện
ngắn Nam Cao, gần như không có cách kết thúc “có hậu”. Quy luật khắc nghiệt
của cuộc sống và tính hiện thực chủ nghĩa nghiêm ngặt của ngòi bút Nam Cao thể
hiện rõ trong những truyện ngắn miêu tả cái kết thúc bi thảm của số phận người
nông dân nghèo khổ.
ặt trong kết thúc ấy bên nhau, chúng kết liền thành hệ
thống, nổi lên thành vấn đề: Xã hội thực dân phong kiến đang dồn họ - qua từng
chặng bần cùng hóa - tha hóa xuống cái hố sâu thẳm của diệt vong.
Cách cấu trúc truyện theo dạng số phận nhân vật đưa lại một ấn tượng đặc
biệt, nó có sức diễn tả sâu sắc cái vô nghĩa, quẩn quanh, tình trạng không có lối
thoát cả về đời sống vật chất và tinh thần của con người.
3.Thi pháp nhân vật
3.1. Nhân vật trong truyện ngắn
Nhân vật có vai trò hết sức quan trọng, nó là trụ cột của sáng tác, là nơi duy
nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác. Văn học không thể
thiếu nhân vật bởi nó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một
cách hình tượng. Trong các yếu tố của một chỉnh thể nghệ thuật, nhân vật giữ vai
trò là nhân tố chính, nơi ký thác cách nhìn đối với thế giới, với con người của nhà
văn.
So với các thể loại khác, nhân vật trong truyện ngắn không phải không có
những nét riêng. Truyện ngắn thường ít nhân vật. Nhân vật trong truyện ngắn cũng
ít khi được khắc hoạ tỉ mỉ như trong truyện dài và truyện vừa. Truyện ngắn thường
không nhằm tới việc khắc họa những tính cách toàn diện, đầy đặn, với nhiều mặt
trong tương quan với hoàn cảnh. Tuy nhiên, không phải vì thế mà nhân vật truyện
ngắn không có ý nghĩa khái quát cao, đúng như nhận xét của nhà văn Ma Văn
13
Kháng: Tôi cho rằng nhân vật trong truyện ngắn không thể phức tạp theo kiểu
truyện dài nhưng vẫn có thể có nhiều khía cạnh khiến cho người đọc cảm thấy cả
nhân vật lẫn tác giả của nó không giản đơn. Có thể nói giữa một nhà văn viết tiểu
thuyết và một tác giả truyện ngắn có sự khác nhau rất cơ bản sau : Trong trường
hợp thứ nhất người viết phải theo dõi tìm hiểu nhân vật của mình, còn trong trường
hợp thứ hai người viết phải sử dụng nhân vật sao cho thật đắc địa. Truyện ngắn
không phải là nơi các nhân vật hiện ra đủ mọi vẻ như là nó vốn có. Ở đây, các tính
cánh tự tước bỏ những gì thô lậu tự nhiên. Trong khi bắt buộc phải có những khía
cạnh riêng không trộn lẫn, cái chung trong nhân vật cần được nhấn mạnh đúng lúc.
Tính cách phải đồng thời trở thành cá thể hơn mà lại gần gũi với mọi người hơn.
3.2.Nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam và Nam Cao
Tuy là thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng văn Thạch Lam lại lặng lẽ
chảy một dòng riêng. Ông dành tấm lòng ưu ái xót thương cho tầng lớp bình dân
trong xã hội. Thế giới nhân vật của Thạch Lam phần lớn là những con người ở địa
vị thấp bé, có cuộc sống nghèo khổ, vất vả, thường ở trong nhịp điệu nhàm tẻ, đơn
điệu (những công chức nhỏ, những người làm thuê, buôn bán vặt vãnh, đi ở…).
Nhiều truyện ngắn của Thạch Lam diễn tả rất chân thực nỗi thiếu thốn của tầng lớp
bình dân như “Nhà mẹ Lê”, “Gió lạnh đầu mùa”, “ ói”, “Một cơn giận”…Không
ít những trang văn của Thạch Lam hiện thực chẳng kém gì những trang văn của
Nam Cao, Ngô Tất Tố. Không chỉ nghèo khổ về vật chất, nhân vật trong truyện
Thạch Lam còn có nhiều nỗi khổ về tinh thần. Cô thợ Liên trong “Một đời người”
cảm thấy làm việc ở xưởng vui hơn ở nhà vì gia đình đối với cô giống như địa
ngục vậy: một người chồng vũ phu, một bà mẹ chồng cay nghiệt, một đứa con xấc
láo…Nhân vật Liên trong “ ai lần chết” phải chấp nhận cái chết mòn mỏi khi
quay lại kiếp làm dâu bởi đâm đầu xuống sông mà không chết được.
Nhìn chung có thể chia nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam thành mấy
loại chính như sau:
14
- Nhân vật kiểu trí thức hiện lên tuy có khoảng cách với người lao động nhưng lại
có tấm lòng thương yêu trân trọng và hiểu cái khổ của sự nghèo túng. Ta có thể
thấy điều này qua truyện ngắn “Trở về”. Người trí thức trong văn Thạch Lam
không biết làm điều ác, nếu có lỡ thì ăn năn và giày vò không dứt như nhân vật
Thanh trong “Một cơn giận”.
- Nhân vật là những người lao động nghèo: Truyện ngắn Thạch Lam thể hiện khá
rộng rãi và sâu sắc.
- Nhân vật phụ nữ và trẻ em được Thạch Lam dành khá nhiều ưu ái qua các trang
viết: “Gió lạnh đầu mùa”, “Cô hàng xén”, “Tối ba mươi”, “ ai lần chết”…
Nếu chỉ miêu tả nỗi nghèo khổ, sự oan trái của tầng lớp bình dân có lẽ
Thạch Lam không bằng Ngô Tất Tố, Nguyên
ồng hay Nam Cao.
iều đáng nói
là, nhân vật của ông, tuy thiếu thốn, cơ cực nhưng luôn lấp lánh vẻ đẹp thanh cao
trong tâm hồn: vẻ đẹp của lòng yêu thương, đức hi sinh, của sự đùm bọc chia sẻ,
của sự thủy chung, tình nghĩa, sự ăn năn, ý thức làm người và khao khát hoàn
lương.
Truyện ngắn của Thạch Lam thuộc loại truyện ngắn trữ tình nên nhân vật
trong tác phẩm của ông thuộc kiều nhân vật tâm trạng, ít hành động, sống trong sự
vận động tâm hồn và những rung cảm trong lòng mình. Có khi đó là những cảm
xúc và suy nghĩ trước cảnh chiều tàn nơi phố huyện ( ai đứa trẻ). Có khi đó là
những giằng co đi hay ở trong tâm hồn Liên để cuối cùng cô “ẵm con và tiễn Tâm
ra ngoài ga, rồi để Tâm một mình bước lên xe hoa mang đi cái hi vọng cuối cùng
của cuộc đời nàng” (Một đời người). Hay là những đau đớn tủi hổ của những cô
gái làng chơi trong “Tối ba mươi”…
Nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao chủ yếu là những người nông dân
nghèo khổ và người trí thức tiểu tư sản. Phần lớn những nhân vật nông dân của ông
là những con người ở bậc thang xã hội cuối cùng, cuộc đời của họ hình như không
thể nào khổ hơn được nữa. Cái nghèo cái đói cứ bám riết lấy nhiều nhân vật nông
dân của ông như một định mệnh. Không những thế, đau đớn hơn họ phải chịu đựng
15
những bi kịch trong tâm hồn. Mặc dầu vậy, những hạng người dưới đáy xã hội này
vẫn sáng lên vẻ đẹp tâm hồn nhân phẩm cao quý. Miêu tả người nông dân, Nam
Cao không chỉ vạch ra tình cảnh bần cùng hóa, nghèo đói thê thảm ở phương diện
đời sống vật chất mà chủ yếu quan tâm đến vấn đề nhân phẩm bị chà đạp, tinh thần
bị hủy hoại. Nhà văn đi sâu vào vấn đề tha hóa, sự thử thách con người trước đói
khát, bần cùng, tàn bạo. Câu chuyện của cái đói được Nam Cao nhìn thành câu
chuyện của nhân cách. Vấn đề miếng ăn lắm khi được nhà văn diễn tả là miếng
nhục. “Một bữa no” là câu chuyện cay đắng về cái chết nhục nhã của bà lão đem
nhân phẩm đổi lấy miếng ăn. Anh cu Lộ vì tham lam mà đánh mất tư cách trong
“Tư cách mõ”. Nhân vật người cha trong “Trẻ con không được ăn thịt chó” cũng vì
miếng ăn mà trở thành một kẻ thô tục, tham lam, đáng khinh bỉ.
Qua kiểu nhân vật này của Nam Cao, chúng ta nhận thấy nổi bật lên một
hiện thực xót xa: hoàn cảnh nghiệt ngã đã biến người nông dân lương thiện, chất
phác thành những kẻ thô lỗ, độc ác, làm cho tâm hồn họ cằn cỗi, u mê. Song, là
một nhà nhân đạo chủ nghĩa, nhà văn vẫn khám phá, nâng niu, trân trọng những vẻ
đẹp ẩn sâu trong con người họ. Trước cách mạng, ít có nhà văn thấu hiểu và diễn tả
tinh tế, cảm động nỗi đau khổ, giày vò về tinh thần cũng như vẻ đẹp bên trong của
những con người khốn khổ, tội nghiệp như Nam Cao. Dì
ảo là biểu tượng của
đức hi sinh, nhẫn nhịn vừa tội nghiệp vừa đáng khâm phục. Mang không khí ảm
đạm, buồn thảm của đói kém nhưng con người trong “Một đám cưới” vẫn có cái
ấm áp của tình yêu thương, đùm bọc. Lão
ạc là hình tượng người nông dân với
những phẩm chất cao quí hiếm thấy: một tấm lòng nhân hậu lớn lao, một đức hi
sinh to lớn, một ý thức làm người đáng kính trọng. áng nói hơn, nhà văn biết phát
hiện và khẳng định nhân phẩm đẹp đẽ của người nông dân ngay cả khi họ bị rạch
nát cả bộ mặt người, bị giết chết tâm hồn người (Chí Phèo).
Kiểu nhân vật trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao cũng hiện lên
là nạn nhân của hoàn cảnh, bị tác động mạnh mẽ, đau đớn bởi hoàn cảnh. Những
nỗi lo cơm áo hàng ngày giày vò tâm trí họ, bóp méo con người họ. Chàng thanh
niên trong “Xem bói” đã trải qua những ngày tháng ăn cháo loãng cầm hơi, những
16
lần vác đơn khúm núm xin việc hết sở này đén sở khác, những tối vợ chồng cắn rứt
nhau. Nhà văn ộ trong “ ời thừa” luôn oằn vai vì những gánh nặng chi tiêu trong
gia đình và cắn rứt bởi khát vọng cầm bút chân chính mâu thuẫn hoàn toàn với
hoàn cảnh sống của mình.
iền trong “Nước mắt” thì uất ức rồi tự khẳng định
mình “khổ như một con chó vậy!”.
Ngòi bút Nam Cao đã diễn tả thấm thía những nỗi đau âm thầm, giằng xé
trong cõi lòng người trí thức tiểu tư sản.
ầu hết ở những nhân vật này ta thấy
được dáng dấp của chính Nam Cao. Nhân vật trí thức trong truyện ngắn Nam Cao
đều là những con người có tài năng, nhân cách, ấp ủ những hoài bão lớn lao nhưng
cứ bị cuộc sống cơm áo ghì sát đất, luôn khổ sở vì chuyện miếng cơm manh áo, vì
tình trạng “sống mòn” trong cảnh “đời thừa”.
Nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao chủ yếu thuộc kiểu nhân vật hành
động và nhân vật tư tưởng.
ể xây dựng nhân vật nhà văn cũng đào sâu vào thế
giới tâm hồn của nhân vật. Nhưng khác với Thạch Lam thường miêu tả những cảm
xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh, tinh tế trong tâm hồn con người thì Nam Cao lại
có biệt tài trong việc phản ánh những quá trình tâm lí phức tạp, những trạng thái
tâm lí lưỡng phân.
4.Thi pháp không gian và thời gian nghệ thuật
4.1.Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn
“Không gian và thời gian là hai bề của sự vật, là kích thước của sự sống, tái
hiện sự sống làm sao không dựng cái khung không gian và thời gian lên được để
chứa đựng sự vật, để cho sự vật có chỗ sống, sinh sôi, nảy nở” ( uy Cận). Thời
gian và không gian trong truyện ngắn cũng như mọi hiện tượng của thế giới
khách quan, khi đi vào nghệ thuật được soi rọi bằng tư tưởng, tình cảm, được nhào
nặn và tái tạo trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc đáo thấm đẫm cá tính sáng
tạo của nhà văn.
Trong truyện ngắn, không gian và thời gian nghệ thuật cũng tương đương
với hình tượng nhân vật. Thi pháp truyện ngắn chỉ chú ý những chi tiết không gian,
thời gian nào có ý nghĩa, góp phần thể hiện cuộc sống con người, chúng vừa mang
17
tính quan niệm lại vừa như một thủ pháp nghệ thuật (lấy cảnh tả tình). Không gian
và thời gian thường gắn liền với nhau, chi phối, cộng hưởng lẫn nhau tạo ra một
"thế giới mang tính quan niệm". Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn gồm có:
không gian sự kiện, không gian bối cảnh, không gian tâm lý, không gian kể
chuyện. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn gồm có: thời gian được trần thuật
(hình tượng thời gian) và thời gian trần thuật (thời gian kể chuyện).
4.2.Không gian và thời gian trong truyện ngắn Thạch Lam, Nam Cao
Thạch Lam quan tâm hàng đầu đến không gian hiện thực hằng ngày, đó là
một xóm chợ, một ngõ hẻm, một ga xép, một phố huyện nghèo nàn hoặc một con
đường làng vùng nông thôn nào đó. Ở đây, các nhân vật của ông bị tù túng, luẩn
quẩn với những đói nghèo, lo âu, dằn vặt thường nhật.
ọ luôn bị ám ảnh bởi
miếng cơm, manh áo hoặc day dứt với những bi kịch tinh thần.
Có thể thấy hầu hết truyện ngắn của Thạch Lam đều sử dụng không gian
hiện thực hằng ngày làm môi trường cho nhân vật hoạt động. Nhưng không gian
hiện thực ở đây được bó hẹp lại trong không gian đời tư, không gian cá nhân chứ
không phải trong không gian xã hội rộng lớn, nên không gian càng dồn nén, thu
nhỏ, đông lại, càng hiu hắt hơn. Chính không gian hẹp đó, nhân vật bộc lộ bản
chất, hành vi, suy nghĩ của mình một cách cụ thể, chân thật nhất-và khi họ thấy bất
lực trước hoàn cảnh thì lập tức ngôn ngữ độc thoại, ngôn ngữ giấc mơ hiện ra, khi
ấy không gian hồi tưởng xuất hiện. Không gian hẹp mà Thạch Lam quan tâm miêu
tả giúp cho nhân vật tự vấn, tự ý thức để đối chiếu, so sánh niềm vui, nỗi buồn của
mình trong từng thời gian một cách cụ thể. Dung (truyện ngắn “ ai lần chết”) hiểu
rõ nỗi bất hạnh của mình, cứ sau mỗi lần vùng vẫy, ước mơ thì lại bị nhấn chìm
xuống đáy, nhưng khổ nỗi, không thể chết được, dù toại nguyện mà lại cứ phải
sống trong buồn đau, trói buộc.
Ngòi bút nhân đạo của Thạch Lam còn tạo ra loại không gian hồi tưởng,
không gian khát vọng trong rất nhiều truyện ngắn. Bao giờ cũng thế, khi hiện tại
xấu xa, mù mịt thì con người thường quay về với quá khứ để so sánh, đối chiếu và
mơ ước tương lai. Diên (truyện ngắn “Trong bóng tối buổi chiều”) trong căn phòng
18
chật chội, tối tăm tưởng chừng nghẹt thở, chàng đã hồi tưởng đến “cánh đồng
ruộng quê hương đầy ánh sáng ban mai”, nhưng rồi cái quá khứ ấy không khỏa lấp
được nỗi buồn và sự nghèo hèn của anh trong hiện tại: “Diên thấy tủi thân rớm
nước mắt”, anh “nấc lên một tiếng rồi cúi đầu chạy trốn trong bóng tối của buổi
chiều vừa xuống”. Liên (truyện ngắn “ ai đứa trẻ”) đối diện với phố huyện nghèo
nàn, tối tăm, ngột ngạt lại nhớ về một
à Nội xa xăm, sáng rực, vui vẻ và huyên
náo. Thạch Lam dường như tìm cách an ủi và mong muốn con người được sung
sướng và hạnh phúc hơn nên giữa những không gian u tối vẫn luôn hé ra một chút
ánh sáng, âm thanh đem lại hy vọng cho con người, dù mong manh: tiếng tàu xình
xịch với hồi còi inh ỏi (truyện ngắn " ai đứa trẻ"), tiếng tre kĩu kịt ngỡ là tiếng
chim trong đêm mưa (truyện ngắn "Tiếng chim kêu"), tiếng rao đêm của anh xích
lô vắng khách (truyện ngắn " iều ân hận")...
ó chính là không gian khát vọng,
không gian nhân bản mà tác giả thấp thoáng nhìn thấy và đưa vào tác phẩm như
một thủ pháp nghệ thuật để tạo cho không gian không khí êm dịu, đỡ ngột ngạt,
căng thẳng và tạo niềm vui an ủi con người.
ó là điều mà Thạch Lam hằng tâm
niệm: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể
vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người
được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Thời gian trong truyện ngắn Thạch Lam không trôi theo dòng quá vãng tự
nhiên mà trôi theo tâm trạng nhân vật.
ó là cái khoảnh khắc ngoại ứng của nội
tâm, khi mà mọi sợi dây liên hệ vô hình giữa đời sống nội tâm và ngoại cảnh của
nhân vật trở nên hữu hình, đủ độ căng nhạy để dò biết những bí mật bên trong –
thế giới tinh thần của họ.
Một môtip thời gian thường gặp trong truyện ngắn Thạch Lam là thời gian
tối, muộn, mờ ảo. Những truyện ngắn hay của Thạch Lam thường có thời gian hiu
hiu, không có sự chói gắt, không có những vang động mạnh, nhưng lại gợi bao ám
ảnh về số phận con người, về sự tối tăm của các cảnh đời.
ó là cái tối của hoàng
hôn, của ánh ngày tàn (Hai đứa trẻ, Cô hàng xén…), là cái lạnh lẽo của mùa đông
(Gió lạnh đầu mùa), là ban ngày mờ ảo (Đói…). Những kiểu thời gian tự nhiên
này có tác dụng khơi gợi tâm trạng buồn của các nhân vật với số phận lắt lay, héo
19
- Xem thêm -