Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thế giới nghệ thuật truyện ngắn phong điệp (2016)...

Tài liệu Thế giới nghệ thuật truyện ngắn phong điệp (2016)

.PDF
68
93
140

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ HUẾ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lý luận văn học HÀ NỘI - 2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ HUẾ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lý luận văn học Người hướng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH HÀ NỘI - 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sác đến cô giáo Nguyễn Thị Vân Anh - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo trực tiếp giúp tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Lý luận văn học và các bạn sinh viên đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận. Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2016 Người thực hiện NGUYỄN THỊ HUẾ LỜI CAM ĐOAN Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo Nguyễn Thị Vân Anh, tôi xin cam đoan rằng: - Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi. - Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực. - Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khớp với bất kì công trình nghiên cứu nào từng công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 14 tháng 4 năm 2016 Người thực hiện NGUYỄN THỊ HUẾ MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 5. Nhiệm vụ, mục tiêu của khóa luận ................................................................ 5 6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5 7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5 NỘI DUNG....................................................................................................... 6 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT 6 1.1. Quan niệm về thế giới nghệ thuật .............................................................. 6 1.1.1. Thế giới vật chất ...................................................................................... 6 1.1.2. Thế giới nghệ thuật ................................................................................. 6 1.2. Các yếu tố cơ bản của thế giới nghệ thuật ................................................. 8 1.2.1. Nhân vật .................................................................................................. 8 1.2.1.1. Khái niệm nhân vật .............................................................................. 8 1.2.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học....................................... 9 1.2.1.3. Cách phân loại nhân vật văn học ......................................................... 9 1.2.2. Không gian và thời gian nghệ thuật ...................................................... 11 1.2.2.1. Không gian nghệ thuật ....................................................................... 11 1.2.2.2. Thời gian nghệ thuật .......................................................................... 12 1.2.3. Ngôn ngữ ............................................................................................... 13 CHƯƠNG 2. MỘT SỐ YẾU TỐ CƠ BẢN TRONG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP ................................................. 15 2.1. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Phong Điệp .................................... 15 2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người của phong Điệp ........................... 15 2.1.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Phong Điệp ................................ 18 2.1.2.1. Kiểu nhân vật tư tưởng....................................................................... 19 2.1.2.2. Kiểu nhân vật bi kịch ......................................................................... 25 2.1.2.3. Kiểu nhân vật cô đơn ......................................................................... 32 2.1.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 35 2.1.3.1. Khắc họa nhân vật qua ngôn ngữ của chính nó ................................. 35 2.1.3.2. Sử dụng yếu tố kì ảo........................................................................... 37 2.2. Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp. ...... 39 2.2.1. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 39 2.2.1.1. Không gian căn phòng ....................................................................... 39 2.2.1.2. Không gian đô thị ............................................................................... 43 2.2.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................. 45 2.2.2.1. Thời gian tâm trạng ............................................................................ 45 2.2.2.2. Thời gian phi lý .................................................................................. 48 2.3. Ngôn ngữ .................................................................................................. 50 2.3.1. Ngôn ngữ thông tục ............................................................................... 51 2.3.2. Ngôn ngữ giàu âm thanh ....................................................................... 54 KẾT LUẬN .................................................................................................... 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. "Thế giới nghệ thuật" là vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn quan trọng trong nghên cứu văn học. Khi đọc văn bản ngôn từ hay xem phim trên màn ảnh, xem biểu diễn trên sân khấu, chúng ta bước vào thế giới nghệ thuật của tác giả, một thế giới sống động đầy ắp xung đột, buồn vui, hạnh phúc, đau đớn... Một thế giới nghệ thuật nhất định, với tư cách là hệ thống không chỉ đặc trưng cho tác phẩm đó mà còn đặc trưng cho cả nhà văn nói chung. Likhachev cho biết: Văn học diễn tấu lại bản đàn của hiện thực, nhưng diễn tấu lại theo các khuynh hướng "tạo phong cách" tiêu biểu đối với sáng tác của nhà văn nào đó hay "phong cách thời đại" nào đó. Các khụyh hướng, phong cách ấy làm cho tác phẩm văn học đa dạng hơn, phong phú hơn về phương diện nào đấy so với thế giới hiện thực, mặc dù nó là tỉ lệ rút gọn một cách ước lệ. Nghiên cứu cấu trúc thế giới nghệ thuật vừa cho ta hiểu hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, quan niệm của tác giả về thế giới vừa có thể khám phá thế giới bên trong ẩn kín của nhà văn, cái thế giới chi phối sự hình thành phong cách nghệ thuật. 1.2. Phong Điệp sinh năm 1976 tại thành phố Nam Định, chị là một trong số các nhà văn trẻ, cần mẫn đã sáng tác với tinh thần chuyên nghiệp, tác phẩm của chị khá đa dạng bao gồm cả truyện ngắn và tiểu thuyết. Tính đến thời điểm này, chị đã cho xuất bản nhiều tác phẩm hay và thu hút được sự quan tâm của độc giả như các tập truyện ngắn: Khi ta hai mươi, Ma mèo, Phòng trọ, Giấc mơ bay qua cửa sổ, Người của ngày hôm qua, Vườn hoang, Kẻ dự phần, Nhật kí nhân viên văn phòng và tập truyện ngắn mới nhất chị mới của chị đó là Biên bản bảo (NXB Phụ nữ, 2015) và cả nhiều truyện dài, tiểu thuyết khác như Tiểu thuyết: Blogger … Có thể thấy, Phong Điệp đã sớm tìm cho mình một lối đi, và gặt hái được thành công lớn đặc biệt ở thể loại truyện ngắn chẳng hạn: Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn trên báo Văn nghệ Trẻ năm 1996 - 1997 với truyện ngắn Ma mèo, giải thưởng “Văn học tuổi xanh” 1996 do Tạp chí Tuổi xanh tổ chức năm 1996 với truyện ngắn Hoạ sĩ , giải: Chùm truyện ngắn hay nhất về đề tài phụ nữ hậu chiến, cuộc thi 1 truyện ngắn Tạp chí VNQĐ 2014 với truyện ngắn Chuyến đêm; Mẹ con và trần thế. Ngòi bút của chị tập trung đi khai thác nhiều khía cạnh của cuộc sống thế giới nghệ thuật của truyện ngắn Phong Điệp mang đậm hơi thở của cuộc sống đương đại. Có thể thấy Phong Điệp đã tạo được cho mình một phong cách riêng và gặt hái cho mình nhiều thành công lớn trong đó đặc biệt nổi bật là thể loại truyện ngắn. Trong hành trình lao động nghệ thuật, Phong Điệp đã có những tìm tòi thể nghiệm riêng và đã xây dựng nên một thế giới nghệ thuật độc đáo. Thế giới ấy là sự tổng hòa mối quan hệ của các yếu tố như: Nhân vật, thời gian, không gian, ngôn ngữ, giọng điệu... Và chúng tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật Phong Điệp, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về cảm quan đời sống, những thể nghiệm sáng tạo mang tính cách tân nghệ thuật, kĩ thuật biểu hiện trong các truyện ngắn của nhà văn. Đây cũng là con đường để bạn đọc đến gần hơn với văn học đương đại, tiếp xúc với một nền văn hóa đầy biến động ở sự góp mặt của hàng loạt cây bút trẻ. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Phong Điệp là một gương mặt không còn xa lạ với bạn đọc Việt Nam, bạn đọc đã khá quen thuộc với các tác phẩm của chị ngay từ khi tập truyện ngắn đầu tay ra đời là truyên ngắn Khi ta hai mươi xuất bản năm 1996 và từ đó đến nay chị liên tục cho ra mắt các tác phẩm khác. Có thể nói đây là một trong số các nhà văn trẻ cần mẫn và có sức viết tốt trong làng văn Việt Nam hiện đại, đặc biệt chị đã có một trang web riêng cho mình đó là phongdiep.net - nơi để gặp gỡ bạn bè và chia sẻ những tâm huyết đối với văn chương, trang web đã thu hút được rất nhiều các nhà văn tham gia đóng góp. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu về nhà văn này vẫn chưa thật phong phú. Nó mới chỉ dừng lại ở những lời giới thiệu tác phẩm, những bài điểm sách trên các website, những cuộc trả lời phỏng vấn trao đổi. Qua những cuộc trả lời phỏng vấn, Phong Điệp đã trực tiếp thổ lộ những suy tư, quan niệm về nghề viết… Chẳng hạn như cuộc trò chuyện của chị với khán giả trong chương trình Đường tới thành công phát trên kênh truyền hình VTC10 và đăng tải trên trang web youtube.com. 2 Sáng tác của Phong Điệp không tạo nên những cơn sốt, nhưng vẫn dành được quan tâm, bình luận của các báo, các nhà phê bình, các nhà nghiên cứu và bạn đọc, một số bài viết đã đưa ra quan niệm mới rất đáng chú ý: Nhà văn Võ Thị Xuân Hà nhận xét: "Phong Điệp là một cái tên rất quen thuộc với bạn đọc. Bạn viết nhiều, viết khỏe, phong phú về thể loại và đa dạng về đề tài như nông thôn, thành thị, miền núi... Và nói thật tôi rất khó để có thể nói rằng cá nhân tôi thích mảng nào của bạn hơn, nỗi khắc khoải nhớ nhung làng quê hay nỗi xót xa của thân phận người dân đô thị." Ngày 21-7-2009, Ban Văn trẻ Hội Nhà văn Việt Nam đã lựa chọn các tác phẩm mới nhất của Phong Điệp là Blogger và Kẻ dự phần để tổ chức buổi tọa đàm, trong buổi tọa đàm này Phong Điệp nhận được rất nhiều ý kiến phê bình từ những nhà văn và những nhà nghiên cứu. Có người lắc đầu chê bai song cũng có những con mắt ngỡ ngàng thích thú và tỏ thái độ mong ngóng những tác phẩm tiếp theo của Phong Điệp. Nói về nghệ thuật trong văn xuôi của nhà văn Phong Điệp nhà văn Hoàng Quảng Uyên nhận xét:"truyện của Phong Điệp hầu như không có cốt truyện. Truyện chỉ mang những mảnh ghép số phận và hoàn cảnh bằng một chất keo dính chặt bởi bàn tay khéo léo, xâu chuỗi bởi sợ chỉ đỏ. Những mảnh ghép tưởng bình thường, không có gì, đôi khi còn "vớ vẩn" nữa bỗng trở nên có vấn đề, có tư tưởng. Nhận xét chung về sáng tác của Phong Điệp, bên cạnh việc khẳng định những thành công, nhà phê bình Trần Thiện Khanh cũng chỉ ra một số điểm hạn chế "truyện của Phong Điệp giàu tính thời sự đồng thời bộc lộ rõ một khả năng tư duy nhanh trước nhiều vấn đề của cuộc sống hiện đại. Phong Điệp đã có nhiều cố tìm tòi trong việc sử dụng yếu tố kì ảo và nén chuyện vào một bài văn ngắn. Rất tiếc ở một số truyện người kể chỉ chạy theo cái bên ngoài của sự kiện để lộ ý tưởng, lộ ngay từ mở chuyện. Không ít truyện trong Kẻ dự phần đã dừng lại ở cái ngưỡng mô tả những gì diễn ra trước mắt, và thiếu hẳn một chiều sâu của sự phân tích, khái quát, tổng hợp". Có thể thấy những bài nhận xét, đánh giá trên là những bài nghiên cứu đầu tiên có tính chất học thuật về truyện ngắn của Phong Điệp. Song nhìn chung, các tác 3 giả này đều tập trung vào phân tích, đánh giá những cách tân, đổi mới trên phương diện hình thức nghệ thuật ở từng yếu tố riêng lẻ, chưa có bài viết nào tập trung đi sâu vào các bình diện thuộc thế giới nghệ thuật truyện ngắn Phong Điệp với tư cách là một chỉnh thể. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn triển khai đề tài Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Phong Điệp như là sự đóng góp thêm một hướng tiếp cận tác phẩm của nhà văn này dưới sự soi sáng của lý thuyết Lý luận văn học hiện đại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Với đề tài đã chọn, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Phong Điệp. Trong quá trình nghiên cứu những biểu hiện đặc trưng cơ bản của nó, người viết có liên hệ với một số tác phẩm văn xuôi của các nhà văn khác để thấy rõ hơn nét độc đáo trong truyện ngắn của nhà văn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Thế giới nghệ thuật là một phạm vi rộng thể hiện qua nhiều phương diện như: Nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu, không gian, thời gian, quan niệm nghệ thuật… Các yếu tố này thể hiện đan xen vào nhau trong tác phẩm và phụ thuộc vào tư duy của nhà văn, góp phần làm nên tính sinh động của cái được miêu tả. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của khóa luận và qua thực tiễn khảo sát tác phẩm, người viết chỉ khai thác một số biểu hiện rõ nhất của thế giới nghệ thuật, đó là: Thế giới nhân vật, không gian và thời gian và ngôn ngữ. Nhóm tác phẩm chúng tôi chọn làm đối tượng nghiên cứu gồm 3 tập truyện ngăn của Phong Điệp: 1- Phong Điệp (2012), Nhật kí nhân viên văn phòng, Nxb Trẻ 2- Phong Điệp (2008), Kẻ dự phần, Nxb Hội nhà văn 3- Phong Điệp (2015), Biên bản bão, Nxb Phụ nữ 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện khóa luân này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống - Phương pháp so sánh, đối chiếu 4 - Phương pháp xác định lịch sử phát sinh - Phương pháp phân tích, tổng hợp 5. Nhiệm vụ, mục tiêu của khóa luận 5.1. Nhiệm vụ của khóa luận Xác lập một cách hiểu thống nhất về thế giới nghệ thuật và những yếu tố nằm trong` cấu trúc của nó. Chỉ ra được điểm độc đáo, mới mẻ của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp. 5.2. Mục tiêu của khóa luận Khóa luận hướng tới mục tiêu tìm ra những điểm độc đáo, mới mẻ của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp. Trên cơ sở đó, khóa luận nêu lên những đánh giá về tài năng và những đóng góp cũng như vị trí của Phong Điệp trong nề văn học đương đại. 6. Đóng góp của khóa luận Khái quát lý thuyết về thế giới nghệ thuật, vận dụng để tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp. Chỉ ra và phân tích những khía cạnh mới của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp trong tương quan với một số nhà văn đương thời. Qua đó, khẳng định vị trí của Phong Điệp trong đời sống văn học đương đại. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung được chúng tôi triển khai thành hai chương: Chương 1: Những vấn đề chung về thế giới nghệ thuật Chương 2: Một số yếu tố cơ bản trong thế giới nghệ thuật truyện ngắn Phong Điệp 5 NỘI DUNG CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT 1.1. Quan niệm về thế giới nghệ thuật 1.1.1. Thế giới vật chất “Thế giới” là một khái niệm thuộc phạm trù triết học. Theo Từ điển triết học, “thế giới” có thể được hiểu theo các nghĩa sau: Theo nghĩa rộng: Thế giới là toàn bộ hiện thực khác quan (tất cả những gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức con người). Thế giới là nguồn gốc của nhận thức. Theo nghĩa hẹp: Thế giới dùng để chỉ đối tượng của vũ trụ, nghĩa là bộ phận của thế giới vật chất do thiên văn học nghiên cứu. Người ta chia bộ phận thế giới vật chất đó thành hai lĩnh vực, nhưng không có ranh giới tuyệt đối: thế giới vĩ mô và thế giới vi mô. Như vậy, có thể nói, thế giới là một phạm vi rất rộng, một vũ trụ rộng lớn tồn tại xung quanh con người và độc lập bên ngoài ý thức con người. 1.1.2. Thế giới nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực tại vật chất hay tâm lí con người, mặc dù nó phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng… xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ thuật” [12, Tr. 302]. Chẳng hạn, trong thế giới truyện cổ tích, con người và loài vật, cây cối, thần phật đều có thể nói chung một thứ tiếng người, đôi hài có thể đi một bước bảy dặm, nồi cơm vô tận ăn mãi không hết… Trong văn học lãng mạn, quan hệ nhân vật thường xây dựng trên cơ sở cảm hóa. Trong văn học cách mạng, nhân vật thường chia thành hai tuyến địch - ta, người chiến sĩ cách mạng và quần chúng. Như thế, mỗi thế giới nghệ thuật có một mô hình nghệ thuật trong việc phản ánh thế giới. Sự hiện diện của thế giới 6 nghệ thuật không cho phép đánh giá và lí giải tác phẩm văn học theo lối đối chiếu đơn giản giữa các yếu tố hình tượng với các sự thực đời sống riêng lẻ, xem có “giống” hay “không”, “thật” hay “không”, mà phải đánh giá trong chỉnh thể tác phẩm, xem xét tính chân thật của tư tưởng chỉnh thể của tác phẩm so với chỉnh thể hiện thực. Các yếu tố hình tượng chỉ có ý nghĩa trong thế giới nghệ thuật của nó. Theo giáo trình Lý luận văn học (Trần Đình Sử chủ biên), “thế giới nghệ thuật là một thế giới kép: Thế giới được miêu tả và thế giới miêu tả. Thế giới được miêu tả gồm nhân vật, sự kiện, cảnh vật… Thế giới miêu tả là thế giới của người kể chuyện, người trữ tình. Hai thế giới này gắn kết không tách rời như hai mặt của một tờ giấy. Không có thế giới miêu tả thì không có thế giới được miêu tả và ngược lại. Tuy nhiên chúng không thể liên thông. Người kể chuyện không thể trực tiếp tham gia vào sự kiện trong thế giới được miêu tả như một nhân vật” [, Tr. 82]. Thế giới được miêu tả trong tác phẩm có các bình diện của nó. Đó là con người riêng (nhân vật), không gian, thời gian riêng, đồ vật, âm thanh, màu sắc có ý nghĩa tượng trưng riêng không đồng nhất với thực tại. Các bình diện trên đều là yếu tố của thế giới nghệ thuật, mỗi yếu tố có một vị trí nhất định và không thể thiếu đối với hệ thống. Không nên đánh giá tác phẩm chỉ trong một bình diện, cũng như không nên xem xét các bình diện trên một cách tách rời, bỏ qua mối quan hệ và liên hệ qua lại của chúng. Chỉ có nghiên cứu đồng bộ các bình diện mới đem lại bức tranh đầy đặn về thế giới mà nhà văn sáng tạo ra. Như vậy, thế giới nghệ thuật là một phạm trù rất rộng. Thuật ngữ này chỉ dùng trong văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Có nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau về thế giới nghệ thuật. Qua các định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra cách hiểu: Thế giới nghệ thuật là thế giới riêng mà nhà văn sáng tạo trong tác phẩm của mình. Thế giới ấy là hình bóng của thế giới vật chất nhưng không hoàn toàn là thế giới vật chất. Bước vào thế giới nghệ thuật, người đọc đã tự nguyện cùng nhà văn bắt đầu hành trình khám phá bản chất của cuộc sống và bản thể con người. Đó là một cuộc chơi thú vị, hấp dẫn nhưng cũng không ít những đắng cay cần sự trải nghiệm. Thế giới nghệ thuật bao gồm tất cả các yếu tố trong tác phẩm văn học. Có 7 bao nhiêu yếu tố cấu thành nên tác phẩm văn học sẽ có bấy nhiêu yếu tố thuộc thế giới nghệ thuật. Trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu những yếu tố cấu trúc cơ bản của thế giới nghệ thuật được biểu hiện cụ thể qua các truyện ngắn của Phong Điệp. 1.2. Các yếu tố cơ bản của Thế giới nghệ thuật 1.2.1. Nhân vật 1.2.1.1. Khái niệm nhân vật Nhìn một cách rộng nhất, nhân vật là khái niệm không chỉ được dùng trong văn chương mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Theo bộ Từ điển tiếng Việt của viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên thì nhân vật là khái niệm mang hai nghĩa: Thứ nhất, “đó là đối tượng (thường là con người) được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn học”. Thứ hai, đó là “người có vai trò nhất định trong xã hội”. Tức là, thuật ngữ nhân vật được dùng phổ biến ở nhiều mặt cả ở đời sống nghệ thuật, đời sống xã hội - chính trị lẫn đời sống sinh hoạt hằng ngày… Nhưng trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận này, chúng tôi chỉ đề cập đến khái niệm nhân vật theo nghĩa thứ nhất mà bộ Từ điển tiếng Việt định nghĩa, đó là nhân vật trong tác phẩm văn chương. Cuốn Lý luận văn học do tác giả Phương Lựu chủ biên định nghĩa về nhân vật văn học như sau: “Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học” [16,Tr.227]. Đó là nhân vật không tên như thằng bán tơ trong Truyện Kiều… Đó là những con vật trong truyện cổ tích, thần thoại, đồng thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật mang nội dung và ý nghĩa như con người… Khái niệm nhân vật đôi khi được sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ con người cụ thể nào mà chỉ một hiện tượng nổi bật trong tác phẩm nhưng chủ yếu bằng hình tượng con người. Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những dấu hiệu để nhận ra. Trong cuốn giáo trình Lý luận văn học do giáo sư Hà Minh Đức chủ biên, các tác giả cuốn này cho rằng: “Nhân vật văn học là một hình tượng mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính 8 cách… Và cần chú ý thêm một điều: Thực ra khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con người… Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể mà chỉ là một hình tượng con người về con người hoặc có liên quan tới con người, được thể hiện nổi bật trong tác phẩm” [Tr.126]. Như vậy, các nhà nghiên cứu lí luận văn học, bằng cách này hay cách khác, khi định nghĩa về nhân vật văn học vẫn cơ bản gặp nhau ở những nội hàm không thể thiếu được của khái niệm này: Thứ nhất, đó phải là đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng những phương tiện văn học. Thứ hai, đó là những con người, hoặc những con vật, đồ vật, sự vật, hiện tượng mang linh hồn con người là ẩn dụ của con người. Thứ ba, đó là đối tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà văn. 1.2.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học Là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành nên mỗi tác phẩm văn học, nhân vật có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Trước tiên, nhân vật văn học là đơn vị cơ bản, là phương tiện tất yếu và quan trọng nhất giúp nhà văn phản ánh một cách chân thực đời sống. Bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm, bằng những tìm tòi, khám phá, nhà văn xây dựng nên nhân vật và hệ thống nhân vật trong tác phẩm để từ đó khái quát các tính cách xã hội và mảng đời sống gắn liền với nó. Bên cạnh việc phản ánh, khái quát hóa hiện thực cuộc sống với những mảng đời sống xã hội gắn liền với nó, nhân vật còn có chức năng thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người, về cuộc đời. Văn học phản ánh thế giới bằng hình tượng. Song, điều đó không có nghĩa là nhà văn sao chép nguyên xi hiện thực cuộc sống vào trong tác phẩm. Nhà văn phải là người sáng tạo trên cơ sở trải nghiệm, sự suy ngẫm theo sự cảm thụ của bản thân mình. 1.2.1.3. Cách phân loại nhân vật văn học Nhân vật văn học là một hiện tượng đa dạng về mặt kiểu loại. Có rất nhiều cách phân chia nhân vật văn học: 9 Xét về cấu trúc tác phẩm: Dựa vào vị trí của nhân vật đối với nội dung cụ thể và với cốt truyện trong tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính, nhân vật phụ và nhân vật trung tâm. Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. Đó là con người liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình. Trong các nhân vật chính của tác phẩm lại có thể nhận thấy nổi lên những nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm từ đầu đến cuối về mặt ý nghĩa. Đó là nơi quy tụ các mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Ngoài nhân vật trung tâm và nhân vật chính, còn lại là các nhân vật phụ. Nhân vật phụ mang các tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính chất phụ trợ bổ sung. Nó góp phần làm đầy đủ phương diện cấu trúc của nhân vật văn học. Xét về ý thức hệ: Dựa vào đặc điểm của tính cách, mối quan hệ với tư tưởng tác giả và lý tưởng của thời đại, có thể chia ra thành nhân vật chính diện, nhân vật phản diện. Sự phân biệt nhân vật chính diện và nhân vật phản diện gắn liền với những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống xã hội, hình thành trên cơ sở đối lập về quan điểm tư tưởng và lý tưởng sống. Nhân vật chính diện và phản diện là những phạm trù lịch sử. Nhân vật chính diện mang lý tưởng, quan điểm tư tưởng, đạo đức tốt đẹp của tác giả và của thời đại. Ngược lại, nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo lý và lý tưởng, đang lên án và phủ định. Như vậy, hai loại nhân vật này luôn ở vị trí đối kháng nhau. Dựa vào cấu trúc hình tượng: Theo tiêu chí này, người ta chia nhân vật thành nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng. Nhân vật chức năng xuất hiện trong văn học cổ đại và trung đại. Đó là loại nhân vật thường không được khăc họa đời sống nội tâm, các phẩm chất, đặc điểm nhân vật cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối. Hơn nữa, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng nhất định, đóng một số vai trò nhất định. Nhân vật loại hình là nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, phẩm chất của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhân vật nhằm khái quát cái chung về loại của các tính cách và nhờ vậy mà được gọi là điển hình. Nhân vật tính 10 cách là một kiểu nhân vật phức tạp. Ở trên đã nói, tính cách như là đối tượng chủ yếu của nhận thức văn học. Đó là tính cách trong nghĩa rộng. Nhưng không phải mọi nhân vật văn học đều phản ánh cấu trúc của tính cách. Do đó, trong nghĩa hẹp, nhân vật tính cách là một loại nhân vật được mô tả như một nhân cách, một cá nhân có tính cách nổi bật. Trong nhân vật tính cách, cái quan trọng không phải chỉ là cái đặc điểm, thuộc tính xã hội nào đó mà người ta có thể liệt kê ra được.Tính cách còn thể hiện ở tương quan của các thuộc tính đó với nhau, tương quan giữa các thuộc tính đó với môi trường, tình huống. Nhân vật tính các thường có những mâu thuẫn nội tại, những nghịch lý, những chuyển hóa. Vì vậy, tính cách có một quá trình tự phát triển, và nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính nó. Trong văn học có những nhân vật mà hạt nhân cấu trúc của nó không phải là cá tính, cũng không phải là các phẩm chất loại hình, mà là một tư tưởng, một ý thức. Đó là kiểu nhân vật tư tưởng. Chẳng hạn, các nhân vật “quỷ sứ” như Malfret, Cain, Luifer, Jean Valiean, Javais của Huygo; Andray của L.Tolstoi; Laconnicov của Dostoevski. Trong sáng tác, loại nhân vật này dễ rơi vào công thức, minh họa, trở thành cái loa tư tưởng của tác giả và loại nhân vật “dẹt” thiếu sức sống. Trên đây là những loại nhân vật thường gặp. Sự phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối. Nó chỉ nhằm nhấn mạnh nét trội, nét đặc trưng cơ bản của một loại nhân vật nào đó. 1.2.2. Không gian và thời gian nghệ thuật Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều có một không gian và thời gian riêng. Không gian và thời gian ấy là sự quy ước, mã hóa của nhà văn về không gian, thời gian thực tại. Không gian và thời gian nghệ thuật là hai yếu tố cơ bản cấu thành nên thế giới nghệ thuật. 1.2.2.1. Không gian nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính cách chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: Cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, 11 thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian tâm tưởng” [12.Tr.160]. Do vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy định vào không gian địa lí. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô hình hóa các mối liên hệ của bức tranh thế giới như thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti trật tự. Ngôn ngữ của không gian nghệ thuật rất đa dạng và phong phú. Các cặp phạm trù cao - thấp, xa - gần, rộng - hẹp, cong - thẳng, bên này - bên kia, vững chăc - bập bênh, ngay - lệch… Đều được dùng để biểu hiện các phạm vi giá trị phẩm chất của đời sống xã hội. Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Không gian nghệ thuật trong văn chương có những đặc trưng cơ bản: Nó xuất hiện lần lượt tuần tự theo sự trình bày của tác giả, không gian mang tính quan niệm và không bị một hạn chế nào. 1.2.2.2. Thời gian nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học chính là “hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian nghệ thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Khác với thời gian khách quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát thành vô tận” [12, Tr.322]. Trong tác phẩm văn chương, thời gian chỉ trở thành nghệ thuật khi nó trực tiếp tác động vào nhân vật, vào môi trường mà ở đó diễn ra số phận của nhân vật và những biến động của tâm tư, tình cảm con người. Thời gian nghệ thuật là hình thức của hình tượng nghệ thuật thể hiện tài năng và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ… Nó được nhận biết nhờ các mối quan hệ giữa các biến cố, có thể là quan hệ nhân 12 quả, quan hệ tâm lí hoặc liên tưởng. Tuy nhiên, điều quan trọng không chỉ là cách biểu thị thời gian mà là quan niệm, cách hiểu thời gian của tác giả. Tóm lại, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật là hai khái niệm luôn đi song hành với nhau, tạo ra tính cấu trúc và tính quá trình của các tác phẩm, là yếu tố mở ra thế giới nghệ thuật của nhà văn. 1.2.3. Ngôn ngữ Theo quan niệm của ngôn ngữ học: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu trong đời sống con người. “Ngôn ngữ là ý thức thực tại thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả người khác nữa, như vậy cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa, và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác”. Theo Từ điển thuật ngữ mỹ học phổ thông: “Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt bao gồm những dấu hiệu, kí hiệu được sử dụng với mục đích trao đổi hoặc truyền đạt thông tin.Trong nghệ thuật, mỗi chuyên ngành đều có ngôn ngữ riêng để điễn đạt loại hình nghệ thuật của mình”. Trong văn học, ngôn ngữ mang những giá trị đặc biệt, vừa truyền tải dung lượng thông tin nhất định, vừa mang tính thẩm mỹ cao. Phân biệt ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ có tính chất nghệ thuật cao của tác phẩm văn học, Từ điển thuật ngữ văn học viết: “ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ có tính nghệ thuật cao của tác phẩm văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng lớn, nhằm bao quát các hiện tượng ngôn ngữ được dùng một cách chuẩn mực trong các biên bản ngôn ngữ, trên báo chí, trên đài phát thanh, trong văn học và trong khoa học”[13,Tr.215]. Ngôn ngữ là chất liệu của văn học. Khác với các loại hình nghệ thuật như: Hội họa, kiến trúc, điêu khắc, hình tượng nghệ thuật trong văn học được xây dựng bằng ngôn từ. Vì thế, nó không trực tiếp tác động vào các giác quan của công chúng, mà tác động sâu xa đến trí tưởng tượng, cảm xúc của người đọc, lay động tâm hồn người đọc. Đó chính là tính phi vật thể của hình tượng nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện cá tính của nhà văn. Nó cũng là sự biểu hiện phong cách, tâm lý, quan điểm, lập trường, ý thức sáng tạo, tâm huyết của nhà văn gửi gắm trong đó. Đồng thời cũng có vai trò quan trọng dẫn 13 dắt người đọc tìm hiểu tác phẩm. Trong đây, có ngôn ngữ mực thước, nghiêm trang của người uyên thâm, tao nhã. Có thứ ngôn ngữ chua xót, đau đớn, hoài nghi của người luôn trăn trở về thế thái nhân tình. Có thứ ngôn ngữ bông đùa, hài hước của người tư duy trào lộng… Nhưng dù nói thế nào đi nữa một khi đã gắn với người nghệ sĩ thì ngôn ngữ cũng là thứ đã được ý thức sáng tạo một cách sâu sắc. Bởi vì: “Người hạ bút làm thơ mà không am hiểu ngôn ngữ khác gì chàng mất trí lao xuống dòng sông cuồn cuộn mà không biết bơi”. Tóm lại, thế giới nghệ thuật là một phạm trù rộng và được tạo nên từ nhiều yếu tố. Các yếu tố này có vị trí, vai trò nhất định trong hệ thống và có mối quan hệ biện chứng với nhau tạo thành chỉnh thể của hệ thống đó. Thế giới nghệ thuật của tác phẩm ngôn từ là một hệ thống hoàn chỉnh vận động theo quy luật và nguyên tắc vốn có của nó. Không nên đánh giá toàn bộ tác phẩm chỉ qua một bình diện hoặc xem xét các bình diện trong sự tách rời mà phải đặt chúng trong chỉnh thể. Như vậy, thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn học mới hiện ra sống động và toàn vẹn trong sự chiếm lĩnh của bạn đọc. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan