Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sử dụng graph để dạy môn tiếng việt ở trung học phổ thông...

Tài liệu Sử dụng graph để dạy môn tiếng việt ở trung học phổ thông

.PDF
72
303
113

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÙI VĂN TUYÊN SỬ DỤNG GRAPH ĐỂ DẠY MÔN TIẾNG VIỆT Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Sơn La, năm 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÙI VĂN TUYÊN SỬ DỤNG GRAPH ĐỂ DẠY MÔN TIẾNG VIỆT Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Khổng Cát Sơn Sơn La, năm 2014 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hoàn thành khóa luận, em xin bày tỏ lòng kính trọng, sự biết ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo - Th.S Khổng Cát Sơn, thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này. Đồng thời em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ văn và Thư viện trường Đại học Tây bắc đã giúp đỡ em trong quá trình học tập cũng như nghiên cứu. Em xin cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trường Trung học phổ thông Mường Bi, trường trung học phổ thông Tân Lạc cũng đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình tiến hành thực nghiệm. Em xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 5 năm 2014 Người thực hiện Bùi Văn Tuyên MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3 2.1. Về việc nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết Graph vào dạy học trên thế giới .................................................................................................................... 3 2.2. Về việc nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết Graph vào dạy học ở Việt Nam . 4 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .................................................................... 6 3.1. Mục đích ..................................................................................................... 6 3.2. Nhiệm vụ ..................................................................................................... 7 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 7 4.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp .............................................................. 7 4.2. Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu ................................................... 8 4.3. Phương pháp thực nghiệm ........................................................................... 8 5. Giới hạn đề tài ................................................................................................ 8 6. Kết cấu của khóa luận .................................................................................... 9 PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 11 CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .. 11 1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 11 1.1.1. Một vài nét khái quát về lý thuyết Graph ................................................ 11 1.11.1. Khái niệm Graph .................................................................................. 11 1.1.1.2. Bản chất của Graph.............................................................................. 12 1.1.1.3. Các loại Graph ..................................................................................... 15 1.1.1.4. Cách biểu diễn Graph .......................................................................... 20 1.1.1.5. Một vài kết luận về Graph rút ra từ góc độ dạy học tiếng Việt ............. 21 1.1.2. Cơ sở ngôn ngữ học ................................................................................ 23 1.1.3. Cơ sở tâm lí – giáo dục học .................................................................... 24 1.1.3.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức .................... 24 1.1.3.2. Tính vừa sức của học sinh trong học tập .............................................. 25 1.2. Cơ sở thực tiễn .......................................................................................... 26 1.2.1. Một số bài học về phong cách chức năng tiếng Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 ....................................................................................................... 26 1.2.1.1 Phần Lý thuyết ..................................................................................... 27 1.2.1.2 Phần luyện tập ...................................................................................... 27 1.2.2. Thực tế việc sử dụng Graph của giáo viên hiện nay ................................ 28 1.2.3. Phương pháp học tập của học sinh hiện nay............................................ 30 CHƢƠNG II. SỬ DỤNG GRAPH ĐỂ DẠY BÀI VỀ PHONG CÁCH CHỨC NĂNG TIẾNG VIỆT ......................................................................... 32 2.1. Sử dụng Graph để dạy kiểu bài lý thuyết ................................................... 32 2.1.1. Quy trình lập Graph cho kiểu bài lý thuyết ............................................. 32 2.1.2. Sử dụng Graph để dạy kiểu bài lý thuyết. ............................................... 39 2.2. Sử dụng Graph để dạy nội dung thực hành ................................................ 45 2.2.1. Đặc điểm của nội dung thực hành ........................................................... 45 2.2.2. Các thao tác để sử dụng Graph cho nội dung bài thực hành .................... 45 2.3. Sử dụng Graph để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh với bài về phong cách chức năng. ..................................................................................... 50 2.3.1. Kiểm tra miệng (vấn đáp) ....................................................................... 51 2.3.2. Kiểm tra viết ........................................................................................... 52 CHƢƠNG 3. THỰC NGHIỆM ..................................................................... 53 3.1. Mục đích của thực nghiệm ........................................................................ 53 3..1.1. Làm sáng rõ việc sử dụng Graph để dạy bài về phong cách chức năng. ....... 53 3.1.2. Qua thực nghiệm có thể đánh giá hiệu quả của việc sử dụng Graph trong dạy học tiếng Việt. ........................................................................................... 53 3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ............................................................. 54 3.2.1. Học sinh ................................................................................................. 54 3.2.2. Giáo viên ................................................................................................ 54 3.2.3. Địa bàn thực nghiệm............................................................................... 54 3.3. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm ........................................... 54 3.3.1. Nôi dung thực nghiệm ............................................................................ 54 3.3.2. Cách thức tiến hành thực nghiệm............................................................ 55 3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm ................................................................... 61 3.4.1. Các tiêu chí đánh giá .............................................................................. 61 3.4.1.1. Về định tính ......................................................................................... 61 3.4.1.2. Về định lượng ...................................................................................... 61 3.4.2. Kết quả thực nghiệm............................................................................... 62 3.4.2.1. Đối với giáo viên ................................................................................. 62 3.4.2.2. Đối với học sinh .................................................................................. 62 3.4.3. Nhận xét của quá trình thực nghiệm ....................................................... 63 3.4.3.1. Về phía giáo viên ................................................................................. 63 3.4.3.2.Về phía học sinh ................................................................................... 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 65 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Như chúng ta biết, hiện nay khoa học là lĩnh vực phát triển rất mạnh mẽ, cũng vì sự thay đổi đó mà kéo theo sự thay đổi về tính chất của mọi tầng lớp lao động trong xã hội. Lao động sản xuất ở hầu hết các lĩnh vực dần tiến đến lao động bằng trí óc. Điều đó đòi hỏi người lao động phải đạt đến một trình độ nhận thức cao hơn để đủ khả năng đảm nhận được công việc. Để làm được như vậy, con người cần phải được học tập và rèn luyện ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nó đặt ra một yêu cầu cấp thiết đó là phải cải tiến căn bản dạy học. Những lý luận dạy học trước đây vẫn đề cập đến những vẫn đề như: dạy cái gì? Dạy như thế nào? Chưa đủ điều kiện để làm thỏa mãn nhu cầu thực tiễn. việc dạy học cần được nhìn nhận một cách rộng rãi, toàn diện hơn như: Dạy ai? Dạy cái gì? Dạy như thế nào?.... Và chính vì mục đích của việc dạy học sẽ là cái định hướng cho toàn bộ hoạt động của việc day học. Cụ thể hơn, nó chi phối nội dung và phương pháp dạy học. Ngoài ra, tri thức nhân loại là vô cùng đa dạng và tiến bộ không ngừng do vậy nhà trường không thể dùng quỹ thời gian hữu hạn để truyền đạt cái vô tận của tri thức nhân loại. Vì thế, bên cạnh việc truyền thụ những kiến thức căn bản để các em có một lượng kiến thức làm cơ sở, điều quan trọng là nhà trường phải dạy cho các em cách lĩnh hội tri thức, phương pháp tự học, tự nghiên cứu để các em không ngừng mở mang tầm hiểu biết về khoa học. 1.2. Nhìn lại lịch sử hình thành của các phương pháp dạy học, chúng ta thấy có rất nhiều phương pháp dạy học bắt nguồn từ phương pháp nghiên cứu khoa học tương ứng. Ví dụ, phương pháp thí nghiệm trong dạy học vật lý có nguồn gốc từ phương pháp thí nghiệm trong vạt lý học, phương pháp thực địa trong dạy học địa lý có nguồn gốc từ phương pháp thực địa trong địa lý học; phương pháp phân tích ngôn ngữ trong dạy học trong tiếng có nguồn gốc từ phương pháp phân tích trong nghiên cứu ngôn ngữ học… Chính việc phát hiện ra sự tương ứng giữa phương pháp nghiên cứu khoa học với phương pháp dạy học như vậy đã mở ra hướng nghiên cứu mới đối với lí luận dạy học: nghiên cứu sự chuyển hóa từ phương pháp nghiên cứu khoa học thành phương pháp dạy học 1 thông qua sử lý sư phạm. “Bất kì một phương pháp khoa học bộ môn nào cũng có thể chuyển hóa trùng với phương pháp dạy học bộ môn đó… Mức độ khác biệt giữa phương pháp khoa học và phương pháp dạy học bộ môn có thể thay đổi khi trình độ trí tuệ của người học thay đổi”. Khi nghiên cứu để phân loại những phương pháp khoa học theo phạm vi ứng dụng, các nhà chuyên môn đã chia thành ba loại: phương pháp chung nhất; phương pháp khoa học riêng rộng và phương pháp khoa học riêng hẹp. Tuy vậy, ở thời điểm hiện nay, việc phân loại này cũng chỉ mang tính chất tương đối vì trong thực tế nghiên cứu một phương pháp nào đó có thể chuyển từ phạm vi ứng dụng hẹp sang phạm vi ứng dụng rộng hoặc ngược lại. Và việc chuyển hóa của phương pháp khoa học riêng rộng thành phương pháp dạy học chung cho nhiều môn học chính là xu thế nổi bật của việc cải tiến phương pháp dạy học trong giai đoạn cách mạng khoa học kỹ thuật. Phương pháp Graph là một trong những phương pháp được chuyển hóa từ phạm vi ứng dụng hẹp sang phạm vi ứng dụng rộng như thế. Phương pháp Graph xuất hiện lúc đầu chỉ nhằm mục đích phục vụ cho việc nghiên cứu toán học, một phạm vi ứng dụng hẹp, nay đã trở thành một phương pháp dạy học chung dùng cho nhiều bộ môn trong nhà trương, có phạm vi ứng dụng khá rộng rãi. Phương pháp này đã được sử dụng trong giảng dạy hóa học, vật lí, sinh học… Là lí thuyết về sơ đồ mạng, Graph có nhiều điểm mạnh trong việc thể hiện trực quan mối quan hệ và tính tầng bậc, trật tự của hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt. Nó mở ra nhiều triển vọng cho việc dạy học trong nhà trường bởi đây là lí luận khoa học có tính khái quát rất cao. Lí luận này có thể giúp học sinh hình thành cho mình phương pháp chung của tư duy và tự học một kỹ năng rất quan trọng của người lao động mới trong thời đại ngày nay. Xuất phát từ những lí do như trình bày trên, chúng tôi đã mạnh dạn lựa chọn Graph – một lí thuyết toán học có tính khái quát cao, ổn định, có tính khả thi trong việc nâng cao chất lượng dạy học – để áp dụng vào dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông. Cụ thể ở khóa luận này, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu việc sử dụng lí thuyết Graph để dạy những bài về phong cách chức năng tiếng 2 Việt lớp 12. Lý thuyết này tuy có nhiều lợi thế trong việc truyền thụ kiến thức cho học sinh, nhưng nó cũng không phải là vạn năng, giúp chúng ta giải quyết tất cả những vướng mắc, khó khăn trong dạy học. Vì vậy, chúng tôi hy vọng phương pháp Graph sẽ được sử dụng phối hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác, phù hợp với thực tiễn hiện nay, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học tiếng Việt. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Về việc nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết Graph vào dạy học trên thế giới Lý thuyết Graph – còn được gọi là lý thuyết đồ thị ra đời từ hơn 250 năm trước đây, trong quá trình giải các bài toán đố. Nhưng mãi đến những năm 30 của thế kỉ XX, lý thuyết Graph mới được xem như một ngành toán học riêng biệt trong công trình: “Lý thuyết các đồ thị định hướng và vô hướng” của Kơnic – nhà toán học người Hunggari. Mãi cho đến những năm 60 của thế kỉ XX, các thành tựu nghiên cứu về Graph và những ứng dụng của nó vào đời sống xã hội, vào dạy học trong nhà trường mới thu được những thành tựu đáng kể. Cũng bắt đầu từ thời điểm đó, nhiều nhà khoa học Nga (Liên Xô cũ), Đức, Pháp, Thụy Sĩ… đã lần lượt cho ra đời những công trình nghiên cứu về lý thuyết Graph cũng như những ứng dụng của nó cho mọi mặt của đời sống xã hội hiện đại. Tiêu biểu, năm 1965 A.M. Xôkhor với: “Về việc phân tích những mối quan hệ bên trong của tài liệu giáo khoa” đã là người đầu tiên vận dụng một số quan điểm của lý thuyết Graph để mô hình hóa nội dung của tài liệu giáo khoa. Nói cách khác, Xôkhor đã xây dựng được Graph của một kết luận hay một lời giải thích cho một đề tài dạy học mà ông gọi là: “Cấu trúc lôgic của kết luận hay của lời giải thích” [25]. Nhờ đó, học sinh nhớ lâu hơn và vận dụng có hiệu quả hơn nội dung của tài liệu. Tiếp tục kết quả nghiên cứu của A.M. Xôkhor trong công trình: “Các phương pháp thí nghiệm của việc giảng dạy hóa học” hoàn thành năm 1967, V.P.Pôlooxin đã dùng Graph để diễn tả trực quan tiến trình của một giờ dạy học 3 thông qua việc phân tích tiến trình giảng dạy một bài hóa học ở nhà trường phổ thông [28]. Đến năm 1972, V.P.Garkunôp tiếp tục dùng Graph để mô hình hóa các tình huống dạy học nêu vấn đề và phân loại chúng. Tuy vậy, cả Xôkhor, Pôlôxin, Garkunôp đều mới chỉ sử dụng Graph như một công cụ nghiên cứu khoa học về lí luận dạy học chứ chưa sử dụng nó để dạy học ở trên lớp. Sau này, nhiều nhà khoa học và giáo viên qua nghiên cứu lý thuyết và kiểm nghiệm thực tiễn đã nhận thấy rõ hiệu quả của giờ lên lớp khi dạy học bằng Graph. Những tài liệu này cũng đã chứng minh rằng: sự ứng dụng lý thuyết Graph vào quá trình dạy học là hoàn toàn hợp lý. Và lý thuyết Graph có thể ứng dụng được ở tất cả các cấp học, các môn học. Trong số các tác giả Liên Xô cũ nghiên cứu về vấn đề này, ta có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như: A.A.Opchinhicô, V.X.pughinxki, Môgunôp – những tác giả này đã nghiên cứu việc vận dụng lý thuyết Graph để kế hoạch hóa quá trình dạy học ở Đại học. Đặc biệt là R.Baxaep, tác giả đã nghiên cứu vận dụng lý thuyết Graph vào nhiều lĩnh vực khác nhau như: Văn học, toán học, hóa học… trong cuốn sách Graph và mạng lưới hữu hạn. Như vậy, từ phương pháp riêng của nghiên cứu toán học, nay Graph đã trở thành phương pháp chung của nhiều ngành khoa học khác nhau. Trên thế giới, hiện nay xu hướng này đang thu hút được sự chú ý không phải chỉ của đông đảo các nhà khoa học, nhà chuyên môn mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của nhiều nhà sư phạm, các thầy cô giáo. 2.2. Về việc nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết Graph vào dạy học ở Việt Nam Ở Việt Nam cũng đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu việc vận dụng lý thuyết Graph vào quá trình dạy học, tiêu biểu như: Hà Thúc Quảng giáo viên CĐSP Hải Phòng: “Dùng sơ đồ trong việc dạy toán để phát huy tác dụng của sách giáo khoa” (Nghiên cứu giáo dục – số 3, T3/1974) [10] 4 Nguyễn Xuân Trường: “Sử dụng sơ đồ trong giảng dạy hóa học” (Tập san giáo dục cấp III – số 5/1978) [12] Trần Trọng Dương: “Áp dụng phương pháp Graph để nghiên cứu cấu trúc và phương pháp giải, xây dựng hệ thống bài toán về lập công thức hóa học ở trường phổ thông” (Tiểu luận khoa học cấp I – Khoa Hóa ĐHSP Hà Nội I, 1980) [3]. Nguyễn Ngọc Quang: “Lí luận dạy học – khoa học về trí dục và dạy học” (Trường ĐHSP Hà Nội II, 1979) [7]. Phương pháp Graph trong dạy học (Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 4 và 5/1981) [8]. Sự chuyển hóa phương pháp khoa học thành phương pháp dạy học (Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 2/1983) [9]. Phạm Tư, Nguyễn Ngọc Quang, Nguyễn Đình Am, Nguyễn Cương: “Một thực nghiệm dùng phương pháp Graph trong dạy học hóa học” (Báo cáo tại hội nghị giáo dục toàn quốc lần II – 2/1982) [15] Phạm Tư: “Dùng Graph trong giảng dạy hóa học ở trường THPT” (Tập san cấp III, số 3/1982) [14]. “Dạy học bằng phương pháp Graph góp phần nâng cao chất lượng giờ giảng” (Báo giáo dục và thời đại, số 124/2003) [13]. Ngoài ra còn phải kể đến các công trình nghiên cứu: “Vận dụng lý thuyết Graph trong việc lập chương trình môn học tối ưu và cải tiến phương pháp dạy học” của Nguyễn Tiến Trung [11]. “Vận dụng phương pháp Graph trong dạy học các bộ môn khoa học xã hội – nhân văn ở Đại học Quân sự” của Nguyễn Văn Phán [5]. Qua đó, ta thấy việc vận dụng lý thuyết Graph vào quá trình dạy học ở Việt Nam từ lâu đã được các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu, và đưa vào ứng dụng trong thực tế giảng dạy. Những nghiên cứu trên đều đã khẳng định tác dụng của việc sử dụng Graph trong việc nắm vững kiến thức, phát triển tư duy độc lập của học sinh và việc nên sử dụng phương pháp này trong dạy và học. Mặc dù vậy, đến nay việc sử dụng phương pháp Graph trong dạy học vẫn chưa được ứng dụng ở diện rộng và chưa thực sự trở thành phương pháp dạy học phổ biến. Đặc biệt, việc vận dụng lý thuyết Graph vào dạy học văn và tiếng Việt ở nước ta chưa được bàn luận, trao đổi nhiều, dù trên thực tế, chúng ta sử 5 dụng không ít những sơ đồ mạng phục vụ cho việc giảng dạy. Tới năm 1996, tại cuộc hội thảo toàn quốc về đổi mới phương pháp dạy học văn – tiếng Việt, tác giả Nguyễn Quang Ninh mới có bài giới thiệu Sử dụng phương pháp Graph trong dạy học tiếng Việt. Bài viết này đã giới thiệu sơ lược về phương pháp Graph, những yêu cầu và cách tiến hành nội Graph nội dung một bài tiếng Việt. Tuy vậy, bài viết này cũng chỉ mang tính chất của một bài giới thiệu, gợi mở một hướng nghiên cứu khi ứng dụng vào dạy học tiếng Việt. Như vậy chúng ta có thể khẳng định: việc vận dụng lý thuyết Graph vào dạy học tiếng Việt nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh không còn là vấn đề mới mẻ. Nhưng để cụ thể hóa phương pháp này trong giảng dạy tiếng Việt và ứng dụng, triển khai nó trong việc dạy học tiếng Việt ở diện rộng là vấn đề cần được tiếp tục bàn luận, trao đổi. Những nghiên cứu trên, có một mặt đã gợi mở, định hướng cho chúng tôi chọn đề tài này để tiếp tục nghiên cứu. Mặt khác, tất cả nghiên cứu đó đã góp phần quan trọng tạo nên nội dung khóa luận, giúp chúng tôi có điều kiện nhìn lại một số vấn đề cũ. Trên cái nền ấy, chúng tôi nghiên cứu và đề xuất thêm vấn đề mới, triển khai những vấn đề được đạt ra trong khóa luận. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích Đến nay, lí thuyết Graph vẫn còn tương đối mới mẻ và xa lạ đối với giáo viên dạy những bộ môn khoa học xã hội nói chung và dạy ngữ văn, tiếng Việt nói riêng. Vì vậy, để đạt hiểu quả tối ưu nhất cần đạt được những mục đích sau: Thứ nhất: khóa luận hướng đến việc hệ thống hóa những nội dung lí thuyết cơ bản của Graph, trên cơ sở đó đề xuất quy trình sử dụng lí thuyết như là một phương pháp nghiên cứu khoa học thông qua xử lí sư phạm để chuyển thành phương pháp dạy học, nhằm giúp giáo viên nắm được cách tiến hành lập Graph cho nội dung bài học lên lớp. Thứ hai: Với việc sử dụng Graph sẽ khẳng định khả năng và hiệu quả của nó trong dạy học tiếng Việt. 6 Tóm lại, việc sử dụng phương pháp dùng Graph để dạy bài về phong cách chức năng giúp học sinh có cái nhìn trực quan, khái quát những kiến thức cơ bản của bài học. Qua đó, xây dựng cho học sinh phương pháp tự học hợp lí, hiệu quả. Giúp giáo viên có một phương pháp dạy học mới nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện người học sinh. 3.2. Nhiệm vụ Nghiên cứu lý thuyết Graph và việc vận dụng lý thuyết này vào thực tiễn giảng dạy bài về phong cách chức năng tiếng Việt lớp 12. Xây dựng quy trình sử dụng Graph trong dạy học bài về phong cách chức năng. Quy trình đó cần phải phù hợp với những đặc điểm của phong cách chức năng tiếng Việt, đơn giản và dễ sử dụng để giáo viên có thể thực hiện một cách thuận lợi trong những giờ lên lớp. Bước đầu đánh giá hiệu quả của việc dùng Graph để dạy học tiếng Việt thông qua kiểm tra thực nghiệm. Chỉ qua thực nghiệm như vậy, chúng tôi mới có điều kiện nhận ra chỗ được hay chưa được, chỗ đúng hay chỗ sai trong những ý kiến của mình để điều chỉnh, sửa chữa hoặc thay đổi những nội dung cần thiết và trên cơ sở mới có được những kết luận chính xác về những ứng dụng của Graph mà chúng tôi đã đặt ra. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích và thực hiện được những nhiệm vụ mà luận án đạt ra, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau: 4.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp Chúng tôi đã sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp để xem xét, tìm hiểu những vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài như: Một số vấn đề cơ bản của lý thuyết Graph Vận dụng lý thuyết Graph vào dạy học phong cách chức năng tiếng Việt Kết quả của sự phân tích giúp chúng ta nhận thức được từng cái riêng lẻ, bộ phận mang tính chất độc lập. Tổng hợp nhằm mục đích xâu chuỗi và khái quát những cái có được khi phân tích. Phân tích – tổng hợp là hai thao tác có liên quan mật thiết với nhau. Chính việc sử dụng phương pháp phân tích – tích hợp sẽ 7 giúp chúng tôi tìm hiểu rõ hơn và phát hiện được bản chất của Graph cũng như khả năng sử dụng Graph vào dạy học các bài về phong cách chức năng tiếng Việt. 4.2. Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu Bên cạnh phương pháp phân tích – tổng hợp, chúng tôi đã sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu. Những phương pháp này chủ yếu dùng vào việc điều tra, khảo sát và xử lý các kết quả thu nhận được trong quá trình thực nghiệm. Đây là những phương pháp giúp chúng tôi có điều kiện nhìn nhận những vấn đề được nghiên cứu trong sự so sánh, đối chiếu lẫn nhau (cụ thể là lớp thực nghiệm và lớp đối chiếu). Từ đó, có thể rút ra những kết luận hợp lý, vừa có cơ sở lý luận, vừa có cơ sở thực tiễn. Tuy những con số thống kê đưa ra trong khóa luận chưa phải đã đạt đến độ chính xác tuyệt đối, nhưng với các số liệu ấy, người đọc sẽ có phần tin cậy hơn về tính khả thi của vấn đề đưa ra trong khóa luận. 4.3. Phương pháp thực nghiệm Thực nghiệm là một trong những nội dung quan trọng của khóa luận. Chỉ qua thực nghiệm mới có thể kết luận được giá trị thực tiễn và tính khả thi của những vấn đề được đặt ra trong khóa luận. Phương pháp này được thể hiện ngay khi chúng tôi đề xuất những mặt của lý thuyết. Có thể nói rằng: thực nghiệm vừa là phương pháp nghiên cứu vừa là mảng nội dung không thể thiếu được của khóa luận này. Chính những thực nghiệm cũng đã góp phần giúp chúng tôi trả lời câu hỏi luôn được đặt ra trong lí luận dạy tiếng: tại sao lại đề xuất một phương pháp dạy học như thế? 5. Giới hạn đề tài Với đề tài “Sử dụng Graph để dạy những bài về phong cách chức năng tiếng Việt”, phạm vi nghiên cứu của khóa luận giới hạn trong việc dạy học các bài về phong cách chức năng tiếng Việt. Chúng ta biết rằng, hiện ngành giáo dục và đào tạo đã tiến hành cải cách sách giáo khoa. Khóa luận của tôi được viết vào thời điểm việc thay sách đã hoàn thiện như vậy nên để tăng tính khả thi và giá trị thực tiễn của khóa luận, tôi lấy phạm vi nghiên cứu của mình là những vấn đề có liên quan đến việc dạy và 8 học bộ sách giáo khoa Ngữ văn. Trong đó, bài về phong cách chức năng tiếng Việt lớp 12 bao gồm: Phong cách ngôn ngữ hành chính (lớp 12) Phong cách ngôn ngữ khoa học (lớp 12) Có thể nói, dạy học phong cách chức năng tiếng Việt là một bộ phận không thể thiếu trong chương trình tiếng việt ở trường phổ thông. Nó không những giúp học sinh phân biệt được đặc điểm của mỗi loại phong cách chức năng để sử dụng thích hợp với những điều kiện giao tiếp nhất định mà còn là cơ sở không thể thiếu để giáo dục thẩm mỹ, rèn luyện tư duy… cho học sinh. 6. Kết cấu của khóa luận Khóa luận của chúng tôi gồm 3 phần, với những nội dung cơ bản như sau: Phần mở đầu: phần này dành để trình bày những vấn đề chung bao gồm: Lý do chọn đề tài Lịch sử vấn đề Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Phương pháp nghiên cứu Giới hạn đề tài Phần nội dung: gồm ba chương: Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài Đây là chương chúng tôi tập trung đi sâu vào tìm hiểu lý thuyết về Graph, cơ sở ngôn ngữ học và cơ sở tâm lý học của học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức. Ngoài ra cũng đề cập một cách khái quát về khả năng ứng dụng của Graph trong quá trình dạy học như: khảo sát việc dùng Graph trong dạy học của giáo viên hiện nay… Chương II: Sử dụng Graph để dạy bài về phong cách chức năng tiếng Việt lớp 12 Đây là chương thể hiện cụ thể và rõ nhất sự đóng góp của khóa luận vào việc đổi mới phương pháp day học. Trong chương này chúng tôi đi vào tìm hiểu việc lập Graph cho các bài về phong cách chức năng tiếng Việt như kiểu bài về lý thuyết, thực hành luyện tập và kiểm tra đánh giá. 9 Chương III: Thực nghiệm Là chương tôi tập trung mô tả quá trình tiến hành thực nghiệm để có được những kết luận cần thiết về nội dung nghiên cứu và qua đó bước đầu đánh giá được tính khả thi của những vấn đề nêu trong khóa luận. Phần kết luận Ngoài việc tóm tắt những nội dung cơ bản đã trình bày trong khóa luận, tôi khẳng định việc có thể thực thi những vấn đề lý thuyết của Graph nêu trong khóa luận vào thực tế giảng dạy. Phần thư mục những tài liệu tham khảo chính: phần này dành để thống kê lại những tài liệu tham khảo chính đã được tôi sử dụng như những gợi ý hoặc trích dẫn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. 10 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một vài nét khái quát về lý thuyết Graph 1.11.1. Khái niệm Graph Trước đây, khi mới xuất hiện, Graph là một thuật ngữ toán học, nhưng đến thời điểm hiện nay đã được sử dụng rông rãi và trở thành một tên gọi chung, khá quen thuộc với nhiều ngành khoa học. Trong tiếng Anh, khi là danh từ (noun) có nghĩa là: Sơ đồ, đồ thị Mạng, mạch Để không có sự nhầm lẫn “đồ thị” (là đường biểu diễn của các quan hệ giữa các đại lượng trong đại số học) tôi dùng nguyên từ “Graph” của tiếng Anh chứ không dịch sang tiếng Việt. Khi là động từ, Graph (verb) có nghĩa là: Vẽ sơ đồ, vẽ đồ thị; minh họa bằng đồ thị Vẽ mạng, vẽ mạch Khi là tính từ, Graphic (adjective) có nghĩa là: Thuộc về sơ đồ, thuộc về đồ thị Thuộc về mạng, thuộc về mạch Khi vào Việt Nam, tùy theo từng chuyên môn mà chúng ta chọn nghĩa dùng cụ thể. Trong đời sống hàng ngày, nhiều khi chúng ta phải vẽ một sơ đồ để biểu thị mối quan hệ giữa các yếu tố, các đối tượng một cách trực quan bằng hình ảnh, bằng đường nét. Để vẽ được nó, chúng ta phải dùng ký hiệu nào đó để thay thế cho đối tượng cần xem xét. Những lúc ấy ta thường dùng các điểm (hoặc các ô vuông, các đường tròn hay những hình chữ nhật…) để biểu thị cho đối tượng, trong đó mỗi điểm (hoặc mỗi ô vuông, mỗi đường tròn hay mỗi hình chữ nhật…) ứng với một đối tượng hay một yếu tố. 11 Nhưng nếu dừng ở đây, ta mới chỉ có được số lượng các yếu tố, các đối tượng cần nghiên cứu mà chưa thấy được mối quan hệ giữa chúng. Bởi thế khi lập sơ đồ, chúng ta có thể dùng những đoạn thẳng, đoạn cong hay cũng có thể là đoạn gấp khúc để nối chúng lại. Các đoạn này chính là đoạn thể hiện một quan hệ giữa các đối tượng trong sơ đồ. Tập hợp các điểm, các đoạn lại, chúng ta sẽ lập thành một Graph. Khi đó, đường nối các điểm lại gọi là cạnh (hoặc cung) và các điểm trở thành các đỉnh của Graph. Như vậy, các đỉnh của Graph biểu thị các đối tượng xem xét nghiên cứu và các cạnh của Graph bộc lộ mối quan hệ giữa các đỉnh trong một Graph. Ví dụ: Lập Graph tóm tắt toàn bộ từ loại tiếng Việt TỪ LOẠI DANH TỪ DANH TỪ RIÊNG DANH TỪ CHUNG ĐẠI TỪ ĐẠI TỪ THAY THẾ ĐỘNG TỪ ĐẠI TỪ CHỈ NGÔI ĐỘNG TỪ NGOẠI ĐỘNG ĐỘNG TỪ NỘI ĐỘNG TÍNH TỪ TÍNH TỪ KHÔNG KÈM MỨC ĐỘ TÍNH TỪ CHỈ MỨC ĐỘ CAO Nhìn vào Graph này, ta có thể thấy khá nhiều thông tin, nội dung phong phú. Đây là điều không dễ dàng khi thực hiện việc tổng kết bằng lời. Từ đó, ta có thể định nghĩa Graph như sau: Graph là một tập hợp số lượng hữu hạn các điểm và các cạnh có đầu mút tại các đỉnh đó. 1.1.1.2. Bản chất của Graph Qua cách trình bày trên, chúng ta thấy Graph được định nghĩa dựa trên hai tập hợp. Trước hết, đó là tập hợp của các đỉnh, và sau nữa là tập hợp của các cung 12 Tập hợp của các đỉnh Tập hợp của các cạnh (cung) Trước hết, xét về tập hợp các đỉnh: Đỉnh của Graph được kí hiệu theo cách nào không quan trọng, không quyết định bản chất của nó. Đỉnh đó có thể kí hiệu bằng một dấu chấm, cũng có thể là một vòng tròn, một ô vuông hay một hình chữ nhật. Cái quyết định bản chất của Graph là số lượng các đỉnh có trong Graph đó. Một Graph có bốn đỉnh sẽ khác về bản chất với Graph có ba, có năm hoặc sáu đỉnh. Với số lượng khác nhau, ta sẽ có những Graph khác nhau. Ví dụ, hai Graph dưới đây khác nhau về bản chất vì số lượng đỉnh trong hai Graph này khác nhau. A B A B E D C D C Tuy vậy, nếu chúng ta dừng ở số lượng các đỉnh như vậy để đánh giá ban chất của một Graph, hay sự khác nhau của hai Graph thì chưa đủ. Bởi số lượng đỉnh của hai Graph có thể bằng nhau, nhưng bậc ở đỉnh của chúng khác nhau thì bản chất của hai Graph đó cũng sẽ khác nhau. Bậc của đỉnh Graph được xác định bằng số lượng đầu mút các cung đó tại đỉnh đó. Bậc này dùng để thể hiện các mối quan hệ nhiều hay ít của đỉnh đó, yếu tố đó với các đỉnh khác, yếu tố khác trong Graph. Khi đỉnh của Graph càng thấp thì mối quan hệ giữa nó với các yếu tố khác càng ít, càng thưa. Bậc của đỉnh là yếu tố tham gia vào việc quyết định bản chất của Graph, chẳng hạn: B D B A C A Graph 1 D C Graph 2 13 Với ví dụ ta có ở trên, ta có hai Graph với số lượng đỉnh như nhau. Nhưng ở Graph 1, đỉnh A chỉ có quan hệ với đỉnh B, đỉnh D chỉ có quan hệ với đỉnh C, nên đỉnh A và đỉnh D này được gọi là đỉnh bậc một. Tương tự như vậy, đỉnh A, C, D trong Graph 2 cũng là đỉnh bậc một. Trong khi đó, đỉnh B, C trong Graph 1 là những đỉnh bậc hai (có quan hệ với hai đỉnh khác, cũng tức là với hai yếu tố khác trong Graph); và đỉnh B trong Graph 2 là đỉnh bậc ba (có quan hệ với ba yếu tố khác trong Graph). Thứ hai, tập hợp của các cung: Cũng như cách thể hiện đỉnh, cách thể hiện cạnh trong Graph tương đối tự do. Cạnh có thể biểu diễn bằng một đoạn thẳng, cũng có thể bằng một đoạn gấp khúc hay đường cong. Cạnh cũng có thể ngắn, dài, to nhỏ khác nhau. Dù cạnh có được biểu diễn theo kiểu nào, cách nào cũng không làm thay đổi bản chất của Graph. Cái khiến cho Graph thay đổi lại là ở chỗ trong Graph đó có bao nhiêu cạnh, và cạnh đó nối đỉnh nào với nhau. Nói một cách khác, bản chất của Graph được xác định bằng số lượng cạnh và đặc điểm của đỉnh tạo nên cạnh ấy. Điều này cho thấy: thay đổi số lượng cạnh của một Graph hoặc thay đổi đỉnh tạo cạnh của một Graph, chúng ta sẽ làm thay đổi bản chất của Graph đó. Ví dụ, hai Graph dưới đây thoạt nhìn tưởng giống nhau, nhưng thực ra chúng khác nhau về bản chất, bởi lẽ tuy có số lượng cạnh giống nhau nhưng các cạnh tạo được ra bởi những đỉnh khác nhau: A B D A C Graph 1 C B D Graph 2 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan