Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ tố hữu (2016)...

Tài liệu Những phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ tố hữu (2016)

.PDF
61
239
99

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN ************** NGUYỄN THỊ HẠNH NHỮNG PHƯƠNG TIỆN TỪ VỰNG BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH THÁI TRONG THƠ TỐ HỮU KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Ngôn ngữ Người hướng dẫn khoa học TS. LÊ THỊ THÙY VINH HÀ NỘI – 2016 LỜI CẢM ƠN Đối với sinh viên cuối cấp khi được làm khóa luận tốt nghiệp là điều vô cùng vinh dự. Nhưng để có thể hoàn thành khóa luận đòi hỏi sự cố gắng rất lớn của bản thân và quan trọng hơn đó là sự chỉ bảo của các thầy cô giáo trong trường, thầy cô hướng dẫn, sự giúp đỡ, động viên của gia đình, bạn bè và người thân. Em xin chân thành cảm ơn quí thầy cô giáo trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và quí thầy cô giáo trong Tổ Ngôn ngữ đã truyền đạt những kiến thức chuyên ngành, chỉ dạy em trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt là cô giáo TS. Lê Thị Thùy Vinh là người đã giúp em định hướng đề tài và hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em một cách tận tình để em hoàn thành khóa luận của mình. Em cũng xin gửi tới những người thân yêu, bạn bè lòng biết ơn chân thành nhất, vì đã luôn ở bên em, động viên, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Tuy nhiên, với những kiến thức và kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế. Do vậy, khóa luận này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Thị Thùy Vinh. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ việc khảo sát, thống kê, phân loại ngữ liệu. Ngoài ra, một số nhận xét, đánh giá khác trong khóa luận đều được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được công bố. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung khóa luận của mình. Hà Nội, tháng 05 năm 2016 Tác giả Nguyễn Thị Hạnh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1 1.1. Cơ sở lí luận .........................................................................................................1 1.2. Cơ sở thực tiễn .....................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................3 3. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................5 5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................5 6. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ........................................................5 7. Đóng góp của khóa luận ..........................................................................................6 8. Bố cục khóa luận .....................................................................................................6 NỘI DUNG ................................................................................................................7 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................7 1.1. Khái quát về nghĩa tình thái .................................................................................7 1.1.1. Khái niệm nghĩa tình thái ..................................................................................7 1.1.2. Phân loại nghĩa tình thái ....................................................................................9 1.1.2.1. Các quan niệm phân loại ................................................................................9 1.1.2.2. Tình thái của hành động ngôn ngữ (tình thái của hành động nói) ...............13 1.1.2.3. Tình thái của câu (phát ngôn) ......................................................................13 1.1.3. Những phương tiện ngôn ngữ biểu thị tình thái trong tiếng Việt ...................14 1.1.3.1. Phương tiện ngữ âm .....................................................................................14 1.1.3.2. Phương tiện từ vựng .....................................................................................15 1.2. Khái quát chung về nhà thơ Tố Hữu ..................................................................22 1.2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp thơ của Tố Hữu ..........................................22 1.2.1.1. Cuộc đời .......................................................................................................22 1.2.1.2. Sự nghiệp......................................................................................................22 1.2.2. Vài nét về phong cách ngôn ngữ thơ Tố Hữu .................................................23 1.2.2.1. Về nội dung ..................................................................................................23 1.2.2.2. Về nghệ thuật ...............................................................................................24 CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT NHƯNG PHƯƠNG TIỆN TỪ VỰNG BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH THÁI TRONG THƠ TỐ HỮU ....................................................25 2.1. Tình hình khảo sát, thống kê ngữ liệu ................................................................25 2.1.1. Kết quả thống kê, phân loại.............................................................................25 2.1.2. Nhận xét chung ...............................................................................................27 2.2. Phân tích kết quả thống kê, phân loại ................................................................28 2.2.1. Trợ từ ...............................................................................................................28 2.2.2. Thán từ ............................................................................................................30 2.2.3. Động từ tình thái .............................................................................................33 2.2.4. Tiểu từ tình thái cuối câu. ...............................................................................34 2.2.5. Quán ngữ .........................................................................................................35 2.2.6. Kết từ phối hợp ...............................................................................................37 2.2.7. Phụ từ ..............................................................................................................38 2.3. Hiệu quả của cách dùng các phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ Tố Hữu ................................................................................................................51 2.3.1. Về nội dung .....................................................................................................51 2.3.2. Về nghệ thuật ..................................................................................................52 KẾT LUẬN ..............................................................................................................54 TÀI LIỆU THAM KHẢO DẪN LIỆU MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Cơ sở lí luận Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người. Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên con người tư duy và giao tiếp với nhau không phải bằng những đơn vị ngôn ngữ cô lập mà bằng lời, đơn vị cơ bản của lời nói. Nghĩa của lời tức là nghĩa của “câu được ngôn cảnh hóa” không chỉ là nội dung mệnh đề của câu mà còn có những yếu tố khác. Những yếu tố ấy được khái quát thành nghĩa tình thái – một phạm trù ngữ nghĩa chức năng tồn tại trong bất kì ngôn ngữ nào. Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, một sự tình có thể phản ánh đúng hoặc khác thế giới thực tại khách quan, điều này phụ thuộc vào chủ đích của chủ thể phát ngôn, vào ngôn/văn cảnh và năng lực tiếp thụ của chủ thể tiếp nhận. Vấn đề này liên quan đến một số phương tiện ngôn ngữ, trong đó có những phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái. Trong những năm gần đây, giới Việt ngữ học quan tâm nhiều đến tình thái và đã có nhiều nghiên cứu bàn về vấn đề này. Các tác giả hiểu và tiếp cận vấn đề tình thái với nhiều cách khác nhau (dựa trên những quan điểm rộng hẹp), phổ biến nhất là quan điểm xem tình thái là tình cảm và cảm xúc của người nói, tình thái của hành động phát ngôn, tình thái của nội dung mệnh đề,… Việc nghiên cứu ý nghĩa tình thái, đặc biệt là những phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong tác phẩm văn chương càng có ý nghĩa đặc biệt. Nó giúp người đọc nhận biết sâu sắc tính đa giọng điệu, nhận ra giọng điệu riêng, phong cách riêng của từng nhà văn, nhà thơ. 1.2. Cơ sở thực tiễn Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, Tố Hữu là một tác gia có vị trí đặc biệt quan trọng. Suốt nhiều thập kỉ qua, Tố Hữu luôn được coi là “cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng”. Trên sáu mươi năm hoạt động và sáng tác, Tố Hữu đã dành 1 trọn vẹn sự nghiệp thơ ca của mình phục vụ cách mạng, phục vụ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự nghiệp thơ Tố Hữu luôn gắn với những chặng đường cách mạng, những giai đoạn lịch sử của dân tộc. Những tập thơ “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”, “Một tiếng đờn”, “Ta với ta”… không chỉ đơn giản là những đỉnh cao, những dấu mốc quan trọng trong bước đường thơ Tố Hữu , mà còn tái hiện lại những sự kiện vĩ đại vẻ vang nhưng cũng không ít gian khổ, thăng trầm của cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu được nhiều thế hệ độc giả yêu mến, trân trọng. Có được thành công bởi vì thơ ông không chỉ nói lên được khát vọng của cả dân tộc; là tiếng hát ân tình, thủy chung của nhân dân; là lời tâm tình đằm thắm của những người đồng chí, đồng đội; là kết tinh những giá trị văn hóa của dân tộc…mà còn do Tố Hữu đã sử dụng những phương tiện nghệ thuật độc đáo, trong đó phải kể đến các phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong các sáng tác của ông. Có thể nói các phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ Tố Hữu được sử dụng như một biện pháp nghệ thuật và trở thành ngôn ngữ nghệ thuật. Điều này không phải nhà thơ nào cũng làm được. Cho nên nghiên cứu việc sử dụng các phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ Tố Hữu sẽ góp phần hiểu rõ về quan điểm nghệ thuật và phong cách sáng tác của nhà thơ, cũng như giúp ta thấy được giá trị của nó đối với việc biểu hiện tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Ngoài ra, đây cũng là tác giả có vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn THPT với nhiều tác phẩm được chọn giảng. Do đó việc đi sâu tìm hiểu những phương tiện từ vựng biểu thị tình thái trong thơ Tố Hữu sẽ mở ra một hướng tiếp cận mới khi tìm hiểu tác phẩm, đồng thời điều này càng có ý nghĩa lớn trong việc phục vụ, trau dồi kiến thức, bồi dưỡng nghiệp vụ của bản thân người viết nói riêng, góp một phần nhỏ vào giảng dạy ở trường phổ thông nói chung. Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Những phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ Tố Hữu để nghiên cứu. 2 2. Lịch sử vấn đề Tình thái (modality), một vấn đề rất rộng và phức tạp, đã được rất nhiều các nhà ngôn ngữ học qua tâm, nghiên cứu. Đặc biệt, việc xem xét các phương tiện ngôn ngữ biểu thị nghĩa tình thái trong tiếng Việt đã được các nhà Việt ngữ học đề cập ở mức độ rộng hẹp khác nhau. Tình thái là loại ý nghĩa thường trực của tín hiệu ngôn ngữ. Đặc biệt khi ngôn ngữ học mở rộng đối tượng và phạm vi nghiên cứu sang hoạt động hành chức thì việc tình thái càng trở nên quan trọng. Việc nghiên cứu phương tiện ngôn ngữ biểu thị ý nghĩa tình thái đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu. Có thể kể ra các tác giả và các công trình nghiên cứu về tình thái trong ngôn ngữ như: Ch.Bally với“Ngôn ngữ học đại cương và ngôn ngữ học Pháp” (Bản dịch của Phan Ngọc - Tài liệu đánh máy của Viện ngôn ngữ học Việt Nam), Cao Xuân Hạo “Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng”, Nguyễn Minh Thuyết “Thành phần câu tiếng Việt”, Đỗ Hữu Châu “Đại cương ngôn ngữ học”, Diệp Quang Ban “Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông”,v.v… Tuy nhiên, ở những công trình nghiên cứu nêu trên, các tác giả đã đưa ra các khái niệm và cách phân loại về tình thái chưa thực sự thống nhất. Hơn nữa, do mục đích nghiên cứu riêng của các công trình nên các tác giả mới chỉ đề cập đến vấn đề tình thái ở mức độ sơ lược và khái quát. Trong các công trình nghiên cứu, chúng tôi đặc biệt chú ý đến công trình “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” của Nguyễn Văn Hiệp. Trong đó tác giả đã làm rõ những vấn đề về nghĩa tình thái và đặc biệt nhấn mạnh đến những phương tiện biểu thị biểu thị tình thái trong tiếng Việt. Bên cạnh đó phải kể đến luận văn “Các phương tiện từ ngữ biểu thị tình thái chủ quan trong tác phẩm của Nam Cao” của Dương Thị Thúy Vinh (2006) – luận văn thạc sĩ ĐHSP Hà Nội, luận văn “Tiểu từ tình thái trong tác phẩm của Nam Cao từ góc nhìn ngôn ngữ học” của Nguyễn Thị Kim Chi (2009) – Luận văn thạc sĩ ĐHSP Thái Nguyên và khóa luận “Những phương tiện ngôn ngữ biểu thị tình thái chủ quan trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan” của Nguyễn Thị Thúy Ngân (2011) – khóa luận tốt nghiệp đại học ĐHPS Hà 3 Nội 2. Đây là những gợi ý quan trọng để những người làm ngôn ngữ tiếp tục nghiên cứu. Thơ Tố Hữu luôn là đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nước. Xuất phát từ những góc độ, khía cạnh tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đều gặp gỡ và thống nhất trong đánh giá: Tố Hữu là một phong cách lớn trong sự phát triển của nền văn học dân tộc. Thơ ông không chỉ đặc sắc ở nội dung, tư tưởng mà còn có giá trị đặc sắc về nghệ thuật trên các phương diện về phong cách và ngôn ngữ thơ. Chính vì thế, cho đến nay đã có rất nhiều công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông. Trong đó nổi bật nhất là các công trình: “Thơ Tố Hữu” của Lê Đình Kị (1979), “Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí” của Nguyễn Văn Hạnh (1985), và “Thi pháp thơ Tố Hữu” của TrầnĐình Sử (1987). Nghiên cứu về thơ Tố Hữu từ phương diện ngôn ngữ đã có các công trình của tác giả như: “Về cách dùng từ chỉ mầu sắc trong thơ Tố Hữu” của Lê Anh Hiền (Tạp chí Ngôn ngữ số 4- 1976 ), “Tính dân tộc hiện đại của ngôn từ thơ Tố Hữu” của Trần Đình Sử (Báo Văn nghệ số 36 – 1985), “Nhạc điệu thơ Tố Hữu” của Nguyễn Trung Thu (Tạp chí văn học số 6 – 1968) và nhiều công trình khác. Tuy nhiên những nghiên cứu về việc sử dụng các phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ Tố Hữu thì chưa có nhiều tác giả quan tâm. Như vậy, có thể nói rằng đây là một vấn đề rất thú vị, hấp dẫn và có phần mới mẻ. Trên cơ sở lí thuyết về nghĩa tình thái, phương tiện biểu thị nghĩa tình thái trong tiếng Việt và cơ sở thực tiễn về những nghiên cứu trong thơ Tố Hữu, ở đề tài này chúng tôi đi sâu xem xét những phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ Tố Hữu để thấy được bản chất của ngôn ngữ với tư cách là công cụ phản ánh thế giới trong hoạt động nhận thức và tương tác xã hội, đồng thời làm nổi rõ phong cách Tố Hữu trong thơ ca cách mạng nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. 3. Mục đích nghiên cứu - Khắng định, củng cố một vấn đề lý thuyết của ngôn ngữ học: vấn đề các phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong tác phẩm văn học 4 - Góp phần khẳng định sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Tố Hữu qua tìm hiểu các phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ ca của ông. - Góp phần phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu tác phẩm văn học của Tố Hữu nói riêng và các tác phấm văn học nói chung. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu lí luận về vấn đề nghĩa tình thái và tình hình nghiên cứu về nghĩa tình thái trong tiếng Việt hiện nay. - Tiến hành khảo sát, thống kê, phân loại tư liệu về những phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ Tố Hữu ở giới hạn nghiên cứu. - Phân tích, đánh giá các phương tiện từ vựng theo nhóm để rút ra kết luận về ý nghĩa tình thái khi tiếp nhận tác phấm văn học. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi vận dụng các phương pháp, thủ pháp sau: - Phương pháp miêu tả. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích ngôn ngữ học. - Thủ pháp phân loại. - Thủ pháp so sánh, đối chiếu. 6. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Trong đề tài này chúng tôi chỉ xem xét những phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái trong thơ của Tố Hữu. - Phạm vi nghiên cứu: Nguồn ngữ liệu mà chúng tôi khảo sát là các tập thơ “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”, “Một tiếng đờn”, “Ta với ta” trong “Toàn tập thơ Tố Hữu” – NXB văn học (2011). 5 7. Đóng góp của khóa luận - Về phương diện lí luận: Khóa luận góp phần làm rõ bản chất của ngôn ngữ với tư cách là công cụ của con người dùng để phản ánh thế giới trong hoạt động nhận thức và tương tác xã hội. - Về mặt thực tiễn: Khóa luận có giá trị thực tiễn trong quá trình xem xét và thẩm định các tác phẩm văn chương của Tố Hữu trong nhà trường phổ thông. 8. Bố cục khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liêu tham khảo, khóa luận được cấu trúc thành 2 chương. - Chương 1: Cơ sở lí thuyết. - Chương 2: Khảo sát những phương tiện từ vựng biểu thị tình thái trong thơ Tố Hữu. 6 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Khái quát về nghĩa tình thái 1.1.1. Khái niệm nghĩa tình thái Trong lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ học, mặc dù còn là một vấn đề khá mới so với các vấn đề ngôn ngữ khác, nhưng tình thái lại được các nhà nghiên cứu quan tâm một cách đặc biệt bằng những công trình nghiên cứu chuyên sâu, tiếp cận theo nhiều hướng với những phương diện khác nhau. Chính sự quan đặc biệt của các nhà ngôn ngữ đã khiến cho lĩnh vực nghiên cứu nghĩa tình thái ngày một phát triển. Nghĩa tình thái là một thành phần nghĩa phức tạp, bởi vậy nó được hiểu theo nhiều cách khác nhau và quan niệm về nó chưa có sự nhất quán trong các nhà ngôn ngữ học. Điều đó được thể hiện như sau: - Quan niệm của một số nhà ngôn ngữ học nước ngoài: + Vinogradov xem tình thái như phạm trù ngữ pháp độc lập, tồn tại song song với phạm trù vị tính và định nghĩa nó như sau: “Mỗi câu đều mang một ý nghĩa tình thái như dấu hiệu cấu trúc cơ bản, tức chỉ ra quan hệ đối với hiện thực”. + Ch. Bally cũng là một trong những người đầu tiên đề cập đến vấn đề tình thái một cách hệ thống. Ông chủ trương phân biệt trong cấu trúc nghĩa của phát ngôn hai thành phần cơ bản tương ứng là dictum (tình thái) và modus (ngôn liệu). Xuất phát từ hai thuật ngữ dictum và modus trên, Ch. Bally đã đưa ra định nghĩa như sau: “Tình thái là thái độ của người nói được biểu thị đối với sự việc hay trạng thái diễn đạt trong câu”. + Liapol quan niệm: “Tình thái là phạm trù ngữ nghĩa chức năng thể hiện các dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn với thực tế cũng như các dạng đánh giá chủ quan khác nhau với điều được thông báo”. (Liapol, 1990, T30) + Palmer định nghĩa: “Tình thái là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến của người nói đối với điều được nói đến trong câu”. (Palmer, 1986, T14) 7 + Theo Lyons: “ Tình thái là thái độ của người nói với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay sự tình mà mệnh đề miêu tả”. (Lyons, 1977, T125) - Quan niệm của một số nhà ngôn ngữ học Việt Nam: + Hoàng Trọng Phiến cho tình thái là một điều kiện để tạo câu (cùng với tính vị ngữ: “Câu bao giờ cũng mang tính tình thái nhất định. (…). Nó có tác dụng thông báo một điều gì mới mẻ. Qua câu, người nhận hiểu rõ người nói có thái độ như thế nào đối với hiện thực, người nói trình bày hiện thực với sự đánh giá của mình” (đúng hay sai, tin hay ngờ, ước đoán hay đã tồn tại thực, khuyên bảo hay ra lệnh…). [dẫn theo 34, 105]. + Cao Xuân Hạo phân biệt: “Trong lôgic học, nội dung của một mệnh đề được chia làm hai phần. Phần thứ nhất gọi là ngôn liệu (lexis hay dictum), tức cái tập hợp gồm sở thuyết (vị ngữ lôgic) và các tham tố của nó được xét như một mối liên hệ tiềm năng, và phần thứ hai gọi là tình thái (modalité), là cách thực hiện mối quan hệ ấy, cho biết mối liên hệ ấy là có thật (hiện thực) hay là không có (phủ định nó, coi nó là phi hiện thực), là tất yếu hay là không tất yếu, là có thể có được hay không thể có được” [dẫn theo 34, 105 - 106]. + Theo Diệp Quang Ban thì câu có nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái. Nghĩa miêu tả phản ánh vật, việc, hiện tượng được nói đến trong câu. Nghĩa tình thái chỉ ý định (ý chí, ý muốn), thái độ, tình cảm của người nói đối với điều được nói ra (còn được gọi là nghĩa liên nhân, nghĩa bộc lộ). Ngoài ra, phần nghĩa chỉ quan hệ của người nói đối với người nghe cũng có thể xếp vào nghĩa tình thái. [1, 181]. + Nguyễn Văn Hiệp cho rằng “Nghĩa tình thái là phạm trù ngữ nghĩa bao gồm những quan điểm, thái độ khác nhau của người nói, được hiểu như là những thông tin kèm theo, có tác dụng định tính cho nội dung được miêu tả trong câu, xét trong mối quan hệ với người nghe, với hoàn cảnh giao tiếp” [22, 84]. + Nguyễn Thiện Giáp đã phân biệt tình thái trong lô gích và trong ngôn ngữ. Lô gích học quan tâm tới tình thái khách quan, chỉ quan tâm tới giá trị chân lí của mệnh đề. Tình thái trong ngôn ngữ liên quan đến thái độ chủ quan của người nói. Đó là thái độ của người nói với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay tình trạng mà 8 mệnh đề đó miêu tả, là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến của người nói đối với điều được nói ra. [17, 334 - 335]. + Nguyễn Thị Lương định nghĩa: “Tình thái là một phần nghĩa của câu thể hiện thái độ, ý định, mục đích hay quan hệ giữa người nói với người nghe, giữa người nói với hiện thực (sự tình) được phản ánh trong câu, giữa nội dung được phản ánh trong câu với hiện thực ngoài thực tế khách quan” [27, 178]. Tổng hợp những quan niệm của các nhà ngôn ngữ học về khái niệm nghĩa tình thái từ trước đến nay, chúng tôi thấy rằng: Tình thái là một phạm trù phức tạp và chưa thể thống nhất. 1.1.2. Phân loại nghĩa tình thái 1.1.2.1. Các quan niệm phân loại Như chúng ta đã biết, hiện nay một trong những trọng tâm mà ngữ pháp chức năng - khuynh hướng ngữ pháp thiên về ngữ nghĩa đang theo đuổi là nghiên cứu tình thái của câu. Cũng như những quan niệm về định nghĩa, khái niệm tình thái thì việc phân loại nghĩa tình thái cũng trở nên vô cùng phức tạp khi ngành ngôn ngữ học đón nhận rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Việc phân loại nghĩa tình thái cũng đã có nhiều ý kiến, quan điểm không thống nhất và có sự khác nhau tương đối: - Cách phân loại của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài + V.N. Bondrenko cho rằng chỉ có hai nhóm ý nghĩa dưới đây mới đúng là các ý nghĩa tình thái: Nhóm 1: Tính khả năng, tính thực tế và tính cần yếu. Nhóm ý nghĩa này là cơ sở cho tình thái khách quan. Nhóm 2: Sự nghi ngờ, tính không chắc chắn (giả định khả năng) và tính dứt khoát. Nhóm ý nghĩa này là cơ sở chính cho tình thái chủ quan. + J. Lyons nêu lên hai loại ý nghĩa tình thái là tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa. Cả hai tình thái này đều có thể mang tính khách quan hoặc chủ quan. Tính khách quan có ở “tình thái được trình bày như một cái gì đó hiện tồn trong thế 9 giới khả hữu mang tính nhận thức hay đạo nghĩa nào đó, vốn ở bên ngoài bất kì ai nói câu đó trong những trường hợp phát ngôn cụ thể” [29, 340]. Tính chủ quan thể hiện “khi phát ngôn câu này, người nói (khái quát hơn, tác thể tạo lời) có thể biểu đạt hoặc niềm tin và thái độ riêng, hoặc mong muốn và thẩm quyền riêng của mình chứ không phải chỉ là tường thuật sự tồn tại của một sự tình này nọ, với tư cách của một người quan sát trung dung. Tình thái chủ quan phổ biến hơn rất nhiều so với tình thái khách quan trong hầu hết những trường hợp sử dụng ngôn ngữ thường ngày” [29, 340]. + F. Pamer cũng nói tới tình thái nhận thức và đạo nghĩa. Trong đó, tình thái nhận thức “cần được xem là dùng để chỉ ra vị thế hiểu hay biết của người nói”, nó “không chỉ liên quan đến tính khả năng hay tất yếu mà còn liên quan đến mức độ cam kết của người nói đối với điều anh ta nói ra”. Còn “tình thái đạo nghĩa lại liên quan đến tính hợp thức về đạo lý của hành động do một người nào đó hay chính người nói thực hiện” [47, 16]. + M. Liapon có cách chia khác như sau: Ông chia ý nghĩa tình thái thành hai loại là tình thái khách quan và tình thái chủ quan. Tình thái khách quan là dấu hiệu tất yếu của một phát ngôn bất kì, biểu thị mối quan hệ giữa cái được thông báo với thực tế ở bình diện hiện thực tính và phi hiện thực tính. Tình thái chủ quan là dấu hiệu không bắt buộc của một phát ngôn, biểu thị quan hệ của người nói với điều được thông báo. Khái niệm “đánh giá” làm nên cơ sở ngữ nghĩa cho “tình thái chủ quan” nó bao gồm không chỉ các đánh giá lô gich (lí tính, duy lí) mà cả các dạng khác nhau về phản ứng có tính cảm giác (phi lí tính). Như vậy, các nhà ngôn ngữ học nước ngoài thường phân biệt giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa (ở các mức độ khác nhau) khi nói tới tình thái. Họ đều dựa trên hai tiêu chí là tính chủ quan và tính khách quan trong mối quan hệ với hành động và ý nghĩa ngôn từ. - Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam + Cao Xuân Hạo trước hết phân biệt hai loại tình thái: tình thái của hành động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Tình thái của hành động phát ngôn 10 thuộc bình diện dụng pháp, phân biệt các lời về phương diện mục tiêu, tác dụng của giao tế. Tình thái của lời phát ngôn thuộc bình diện nghĩa học, gắn với nội dung được truyền đạt, thái độ của người nói với điều được nói ra, quan hệ giữa sở đề và sở thuyết của mệnh đề. Tình thái của lời phát ngôn lại được chia thành: tình thái của câu (thái độ của người nói với điều nói ra, tính hiện thực, xác thực, tất yếu, khả năng,…); tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt nhân (dạng thức của hành động, tính chất, trạng thái do phần thuyết biểu thị). [dẫn theo 34, 110]. + Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý chủ biên) phân biệt tình thái khách quan với tình thái chủ quan. Tình thái khách quan “biểu hiện mối quan hệ của điều được thông báo đối với hiện thực khách quan (có thật hay không có thật, có thể hay không có thể, tất yếu hay ngẫu nhiên) bằng các phạm trù thức, phạm trù thời, các loại ngữ điệu khác nhau v.v…” [48, 297]. Tình thái chủ quan “biểu hiện thái độ (quan hệ) của người nói đối với điều được thông báo (tin hay không tin, đồng ý hay không đồng ý, đánh giá, biểu cảm) bằng trật tự từ, ngữ điệu, phép kí từ, từ tình thái, tiểu từ, từ cảm, từ xen, v.v…” [48, 297]. + Nguyễn Văn Hiệp cho rằng, phải qua những đối lập thì bức tranh về tình thái mới hiện ra một cách rõ ràng nhất, đúng bản chất nhất. Tác giả đã đưa ra các thể đối lập: tình thái trong logic và tình thái trong ngôn ngữ; trong ngôn ngữ lại có đối lập giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa, đối lập giữa tình thái nhận thức và tình thái căn bản, đối lập giữa tình thái hướng tác thể và tình thái hướng người nói, đối lập giữa tình thái của mục đích phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn và cuối cùng là những đối lập tình thái mang tính “lập trường” thuộc chủ quan của người nói. [22, 96 - 127]. + Diệp Quang Ban cũng phân biệt tình thái của hành động nói và tình thái của phát ngôn: “Tình thái của hành động nói là ý định (ý chí, ý muốn, còn gọi là cái đích, mục đích) thực hiện một hành động nào đó của người nói khi nói ra một lời. Tình thái của phát ngôn là cách đánh giá, thái độ của người nói đối với sự thể (vật, việc, hiện tượng) được nói đến trong phát ngôn”. [1, 183]. Tình thái của phát ngôn gồm tình thái khách quan và tình thái chủ quan. Tình thái khách quan có thể kiểm 11 tra được tính đúng sai, gồm tình thái khẳng định và tình thái phủ định. Tình thái chủ quan là thứ tình thái không kiểm tra được tính đúng sai, chỉ thái độ, cách đánh giá của người nói đối với vật, việc, hiện tượng được nói đến. Ngoài ra, tình thái chỉ ý kiến và tình thái chỉ quan hệ của người nói đối với người nghe cũng có thể xếp vào phạm trù tình thái trong câu. [1, 201-204]. + Nguyễn Thị Nhung, trên cơ sở hai công trình Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp (Nguyễn Văn Hiệp, 2007, 74 - 186) và Ngữ pháp tiếng Việt (Diệp Quang BanHoàng Dân, 2000, 196 - 206) đã đưa ra những nhận định và có cách nhìn bao quát về các thành phần NTT. Tác giả cho rằng, trong tình thái của lời phát ngôn cần phân biệt nghĩa tình thái hướng về sự việc và nghĩa tình thái hướng về người nghe. Ở nghĩa tình thái hướng về sự việc có hai nhóm: nhóm tình thái khách quan và nhóm tình thái chủ quan. Nhóm tình thái khách quan gồm tình thái khẳng định, tình thái phủ định, tình thái của sự tình được truyền đạt. Nhóm tình thái chủ quan lại gồm tình thái biểu thị nhận thức, ý kiến, tình thái biểu thị đạo nghĩa, tình thái biểu thị thái độ, tình cảm và tình thái đánh giá”. [34, 112]. Tóm lại, các tác giả trên đã có cách nhìn nhận các thành phần nghĩa tình thái không chỉ trong quan hệ đẳng lập mà cả trong quan hệ cấp độ. Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, thật khó mà có được một sự phân biệt thật rõ ràng, bao quát cho tất cả các ý nghĩa thuộc phạm trù tình thái. Bởi trong ngôn ngữ tự nhiên, các phương tiện biểu hiện tính tình thái là rất đa dạng. Tuy vậy, để bức tranh về nghĩa trong câu tiếng Việt hiện lên một cách sáng rõ thì việc phân loại vẫn là một yêu cầu bắt buộc đối với người nghiên cứu. Xuất phát từ cách phân loại về nghĩa tình thái của các tác giả trên, chúng tôi có thể tổng hợp và đưa ra những bộ phận nghĩa tình thái cụ thể như sau: Đầu tiên, chúng tôi chia nghĩa tình thái thành hai bộ phận lớn: Tình thái của hành động ngôn ngữ (tình thái của hành động nói) và tình thái của câu (phát ngôn). Trong tình thái của câu gồm có: Tình thái khách quan và tình thái chủ quan. 12 1.1.2.2. Tình thái của hành động ngôn ngữ (tình thái của hành động nói) Khi ta nói ra một câu nghĩa là đã thực hiện một hành động ngôn ngữ như: hỏi, trả lời, khẳng định, phủ định, bác bỏ, ra lệnh, mời chào… Trong câu những hành động được thực hiện bằng ngôn ngữ như vậy được gọi là hành động ngôn ngữ. Những hành động này không được thực hiện một cách ngẫu nhiên hoặc tự phát mà nhìn chung do ý định (ý chí, ý muốn) của người nói đó là tình thái của hành động ngôn ngữ (hành động nói). Việc diễn đạt hành động ngôn ngữ có thể được thực hiện bằng nhiều cách: có thể dùng câu ngôn hành, dùng câu phân loại theo mục đích nói theo lối trực tiếp, dùng câu phân loại theo mục đích nói gián tiếp. 1.1.2.3. Tình thái của câu (phát ngôn) Tình thái của câu là tình thái chỉ quan hệ, thái độ, cách đánh giá của người nói đối với cái được nói đến trong câu (tức là đối với phần nghĩa miêu tả của câu). Tình thái của phát ngôn được phân biệt thành tình thái khách quan và tình thái chủ quan. a. Tình thái khách quan Là tình thái được xác định dựa trên mối quan hệ của sự việc nêu lên trong câu với hiện thực khách quan (thời gian, cách thức diễn ra hành động…). Tình thái khách quan là tình thái có thể kiểm tra được tính đúng sai. Nó được phân biệt thành: tình thái khẳng định và tình thái phủ định. Tình thái khẳng định là tình thái nêu sự thừa nhận là có, là đúng sự tồn tại của sự vật, việc, hiện tượng được nói đến. Ví dụ: Đúng bài văn này do tôi làm Tình thái phủ định gồm: Phủ định miêu tả và phủ định bác bỏ. Phủ định miêu tả là trường hợp sử dụng yếu tố phủ định vào việc xác nhận sự vắng mặt của vật, việc, hiện tượng hay đặc trưng, quan hệ của chúng. Ví dụ: Tôi chưa làm bài tập. 13 Phủ định bác bỏ là trường hợp dùng yếu tố phủ định vào việc không thừa nhận, phản bác một ý kiến, một nhận định nào đó. Các yếu tố phủ định trong trường hợp này đánh dấu tình thái hành động bác bỏ được diễn đạt bằng câu đó. Ví dụ: Tôi không thể hát hay được. b. Tình thái chủ quan Là ý nghĩa tình thái chỉ thái độ, cách đánh giá của con người đối với sự việc nêu lên trong câu và thái độ, cách đánh giá của người nói đối với người nghe. Tình thái chủ quan là tình thái không thể kiểm tra được tính đúng – sai và được bộc lộ ở 2 phương diện: Quan hệ của người nói với nội dung của câu: Ví dụ: “Có lẽ nhiều mỏm đá với phong ba Sẽ đánh đắm một đôi tàu mỏng mảnh” (Như những con tàu – Tố Hữu) “Có lẽ” biểu thị ý phỏng đoán của tác giả về những khó khăn, trở ngại trên con đường cách mạng. Quan hệ của người nói với người nghe: Ví dụ: “Anh ạ, quê ta lại khá rồi” (Lá thư bến tre – Tố Hữu) Từ “ạ” cho thấy thái độ lễ phép của người nói với người nghe. Đồng thời người nói thực hiện được vai giao tiếp của mình là bề dưới đối với bề trên. Việc phân loại tình thái như trên cho thấy nghĩa tình thái rất phong phú, đa dạng và phức tạp. 1.1.3. Những phương tiện ngôn ngữ biểu thị tình thái trong tiếng Việt 1.1.3.1. Phương tiện ngữ âm a. Âm vị âm đoạn tính Âm vị đoạn tính là những âm vị được thể hiện riêng rẽ hoặc kế tiếp nhau theo thời gian. Nguyên âm, phụ âm, bán nguyên âm/bán phụ âm là những âm vị đoạn tính. 14 b. Âm vị siêu đoạn tính Âm vị siêu đoạn tính là những âm vị không được thể hiện riêng rẽ hoặc kế tiếp nhau theo thời gian mà luôn luôn được thể hiện đồng thời với âm tố hoặc toàn bộ âm tiết. Trọng âm, thanh điệu và ngữ điệu là những âm vị siêu đoạn tính. 1.1.3.2. Phương tiện từ vựng a. Trợ từ Trợ từ dùng trong câu biểu thị ý nghĩa tình thái bằng cách nhấn mạnh vào từ, kết hợp từ…có nội dung phản ánh liên quan với thực tại mà người nói muốn lưu ý người nghe. Trợ từ không có khả năng làm trung tâm của cụm từ, thành phần chủ ngữ hay vị ngữ của câu. Vị trí của trợ từ thường tương ứng với chỗ ngừng hay chố ngắt đoạn khi phát ngôn câu. Do đó trợ từ có thể có tác dụng phân tác thành phần câu. Một số trợ từ thường gặp: - “Thì” dùng nhấn mạnh với ý nghĩa khẳng định chủ đề hoặc khẳng định quan hệ giữa các sự vật hay sựu kiện được nêu trong câu. Ví dụ: “Học thì biết thế nào cho đủ.” ( THƯ, II, 182) - “Ngay, ngay cả” nhằm nhấn mạnh với sắc thái khẳng định là không bình thường. Ví dụ: “Ngay từ lúc ông ta thoạt vào, Duyện đã chột dạ.” (VTT, I, 388) - “Đúng, đúng là, đích, chính” dùng nhấn mạnh với sắc thái xác nhận. Ví dụ: “Đúng là tụi giặc đuổi theo rồi.” (HPH, I, 331) - “Những” dùng nhấn mạnh với sắc thái không bình thường về số lượng. Ví dụ: “Đôi giày này những một triệu đồng” - “Chỉ, chỉ là” dùng nhấn mạnh với sắc thái khẳng định có giới hạn. Ví dụ: “Chỉ cần một số để nhân giống.” ( NVB, II, 15) - “Thật, thật ra, thực ra” nhấn mạnh với sắc thái khẳng định bản chất. Ví dụ: “Thực ra tôi rất mệt” 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan