MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ca cao là loại cây trồng thích bóng râm nên có thể trồng xen với nhiều
loại cây trồng khác. Hiện nay phát triển cây ca cao thuận lợi vì thị trường ngày
càng lớn do Brazil và Malaysia đang giảm diện tích trồng, giá cả có chiều hướng
gia tăng. Thực tế cho thấy các mô hình trồng xen ca cao với dừa, nhãn, điều… và
các cây lấy gỗ khác đã làm tăng thu nhập cho người dân. Ca cao trồng xen với
một số loại cây trồng khác là sự kết hợp hài hòa về mặt nông học và mang lại
hiệu quả kinh tế. Nhờ đó cây ca cao không bị nắng chiếu trực tiếp, tạo điều kiện
cho cây sinh trưởng, phát triển và cho năng suất cao.
Ngoài ra, cây ca cao có thể trồng được trên nhiều loại đất như: đất đỏ
bazan, đất feralit vàng phát triển trên đá trầm tích, đất tro núi lửa, đất cát…và
không đòi hỏi đầu tư quá cao. Nhìn chung, cây ca cao thích hợp với loại đất có
tầng canh tác dày, ít nhất là 1,5 m, dễ thoát nước, có cấu trúc tốt, giữ và thoát
nước tốt, giàu chất dinh dưỡng [9]. Điều này phù hợp với chủ trương chung của
Nhà nước về đa dạng hóa và chuyển đổi cơ cấu cây trồng để tăng tính bền vững
trong sản xuất nông nghiệp.
Tùy điều kiện thời tiết khí hậu mà chọn thời vụ trồng cho thích hợp, tốt
nhất là trong mùa mưa. Ở Tây Nguyên thời vụ trồng tốt nhất bắt đầu từ tháng 6,
các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ thời vụ trồng vào tháng 10.
Ở Việt Nam, cây ca cao được trồng đầu tiên vào năm 1878 ở làng Vĩnh
Thành, Cái Mơn, Bến Tre với diện tích khoảng 6 ha. Tháng 9 năm 1998, Chính
phủ đã phê duyệt Dự án trồng ca cao đến năm 2010 là 100.000 ha tập trung 4
vùng trọng điểm: Tây Nguyên (28.500 ha), miền Đông Nam bộ (20.500 ha),
duyên hải miền Trung (13.000 ha) và đồng bằng sông Cửu Long (918.500 ha)
Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, tháng 10 năm 1998. [1]
Năm 2011 thế giới sản xuất khoảng 3,6 triệu tấn ca cao, trong khi nhu cầu
hơn 5 triệu tấn. Vì vậy, trong tương lai Việt Nam là một trong những quốc gia có
tiềm năng phát triển ca cao. Theo Bộ NN & PTNT đến cuối năm 2011 cả nước
1
có khoảng 20.500 ha ca cao. Chính phủ hi vọng nâng diện tích ca cao toàn quốc
lên 60.000 ha vào năm 2015 và 80.000 ha năm 2020. [13]
Trong quy trình trồng cây ca cao, việc bón phân cho cây ca cao là một
trong những biện pháp kỹ thuật không thể thiếu được trong hệ thống thâm canh
tổng hợp để cải tạo đất, không ngừng bổ sung dinh dưỡng, cải thiện và nâng cao
độ phì đất. Góp phần tăng năng suất, chất lượng và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Phần lớn các hộ nông dân trồng ca cao ở Đắk Lắk bón phân không theo
qui trình nào cả, chủ yếu phụ thuộc vào khả năng đầu tư của từng hộ nên không
đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của cây ca cao. Mặt khác, việc bón phân
không cân đối sẽ làm ô nhiễm môi trường, đất bạc màu thoái hóa nghiêm trọng.
Do đó, sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng ca cao.
Trong khi đó, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về phân bón cho cây
ca cao tại Đắk Lắk chưa nhiều và cũng chưa có công trình nào công bố trên địa
bàn nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu sử dụng phân bón hợp lý và mang lại
hiệu quả kinh tế cho người dân địa phương là một vấn đề có tính cấp thiết hiện
nay. Xuất phát từ thực trạng trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu xây dựng công thức phân bón thích hợp cho cây ca cao tại huyện Buôn
Đôn, tỉnh Đắk Lắk".
2. Mục tiêu của đề tài
Xác định được công thức phân bón thích hợp cho cây ca cao thời kỳ kiến
thiết cơ bản và thời kỳ kinh doanh. Góp phần nâng cao năng suất, tăng thu nhập
và mang lại hiệu quả kinh tế cho người trồng ca cao tại huyện Buôn Đôn - tỉnh
Đắk Lắk.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp những dẫn liệu khoa học về
ảnh hưởng của phân bón đến khả năng sinh trưởng, năng suất, chống chịu sâu
bệnh và phẩm cấp hạt ca cao. Làm cơ sở cho việc xây dựng công thức phân bón
hợp lý cho cây ca cao tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
2
- Góp phần bổ sung thêm những tài liệu khoa học phục vụ cho những
nghiên cứu tiếp theo về cây ca cao tại tỉnh Đắk Lắk nói chung và huyện Buôn
Đôn nói riêng.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Bón phân cho cây ca cao của nông dân chủ yếu dựa vào cảm tính nên
năng suất và chất lượng nông sản không ổn định, hiệu quả kinh tế chưa cao. Do
vậy, việc nghiên cứu công thức phân bón hợp lý cho cây ca cao như là một biện
pháp quan trọng, vừa tiết kiệm được chi phí sản xuất, vừa tăng năng suất. Góp
phần bảo vệ và nâng cao độ phì của đất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong
điều kiện sản xuất hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở cho việc xây dựng quy trình kỹ
thuật thâm canh ca cao tại địa phương. Góp phần tăng thu nhập và mang lại hiệu
quả kinh tế cho người dân.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài được tiến hành trong thời gian ngắn nên chỉ tập trung nghiên cứu
trên dòng ca cao TD3 trong giai đoạn kiến thiết cơ bản và kinh doanh.
- Đề tài được thực hiện tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk từ tháng
10/2012 đến tháng 10/2013.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Giới thiệu về cây ca cao
Cây ca cao (Theobroma cacao) thuộc:
- Thứ Theobroma cacao .L
- Họ Sterculiaceae
Thứ Theobroma gồm 20 loài, trong đó chỉ có loài Theobroma cacao là có
giá trị kinh tế. Theobroma cacao được chia làm 2 loại phụ: Criollo và
Forastero.[2]
- Criollo: trái đỏ, kích thước lớn, có nhiều ở vùng Nam Mỹ (Venezuela,
Ecuado, Clombia).
- Forastero: có màu vàng đỏ, có nhiều ở Châu Phi (Ivory Coast, Ghana,
Nigeria).
- Trinitario (cây lai của Criollo và Forastero): trái vàng nhỏ có nhiều ở
vùng Trung Mỹ (Trinidad, Jamaica).
1.1.1 Nguồn gốc
Cây ca cao có nguồn gốc từ lưu vực sông Amazon và các vùng nhiệt đới
ẩm lân cận. Đây là loài nhị bội (2n = 20). Trong số khoảng 20 loài của chi
Theobroma thì ca cao là loài duy nhất được trồng rộng rãi trong sản xuất.
Hơn 2000 năm trước, cây ca cao đã trở thành một phần không thể thiếu
trong cuộc sống của những người dân vùng Châu Mỹ Latinh. Người Mayan và
Aztec đã trồng cây ca cao từ rất lâu, trước khi những nhà thám hiểm Châu Âu
tìm tới lục địa này. Theo như nhiều nhà nghiên cứu thì cây ca cao có thể bắt
nguồn từ những cánh rừng mưa Amazone thung lũng Orinoco ở Venezuela hay
vùng Chiapa của Mexico. [14]
Người Mayan tin rằng cây ca cao là của Thượng Đế và hạt ca cao là ân
sủng của Chúa cho con người. Người Mayan là những người đầu tiên trên trái
đất này sử dụng ca cao làm thực phẩm, họ đã làm đồ uống với những hạt ca cao
4
được nướng lên, nghiền nhuyễn và pha với bột ngô nhằm tạo độ sánh khi uống,
tuy nhiên khi ấy cách thức chế biến rất đơn giản. Colombus có thể là người châu
Âu đầu tiên biết đến ca cao, nhưng khi ông ta mang những hạt ca cao về cho Vua
Ferdinand và Hoàng hậu Isabella thì họ đã chưa hiểu rằng thứ “vàng nâu” này
tuyệt vời đến dường nào và chỉ đến khi người Tây Ban Nha tới Mehico, nhà
thám hiểm Cortes được Hoàng đế Montezuma mời dùng thử loại đồ uống đặc
biệt này thì ca cao mới bắt đầu một hành trình mới: chinh phục châu Âu. Cotes
đã mang rất nhiều ca cao về Tây Ban Nha vào năm 1528, tuy nhiên hương vị của
món này quá đắng so với khẩu vị của người Tây Ban Nha, do vậy họ đã cho
thêm đường và dùng nóng. Đôi khi những người Tây Ban Nha còn cho thêm
quế, hồi, vỏ chanh, bột hoa hồng khô… để tạo nên những hương vị mới vô cùng
độc đáo và ca cao đã trở thành thứ đồ uống thông dụng của giới nghệ sĩ và hoàng
gia Tây Ban Nha. Trong gần 1 thế kỷ, ca cao được coi là thức uống đặc trưng và
là điều bí mật của những người Tây Ban Nha. Tuy nhiên, do giá cả quá đắt đỏ
nên những người Tây Ban Nha thực dụng và nhạy bén đã ngay lập tức trồng cây
ca cao trên các thuộc địa của họ để xuất khẩu tới những quốc gia khác trong châu
lục và thu lại khoản lợi nhuận khổng lồ. Ca cao đã lan truyền khắp châu Âu, việc
uống bột ca cao thành một trào lưu ở Pháp, dưới thời Vua Louis 14 và 15 thức
uống ca cao rất được ưa chuộng tại Versailles. Và rồi ca cao đã tới Anh, cũng
giống như ở Pháp, nó nhanh chóng chinh phục nước Anh. Kể từ khi quán bán
thức uống ca cao đầu tiên được khai trương năm 1657, tới đầu thế kỉ 18 những
nhà máy sản xuất thức uống ca cao và sôcôla đầu tiên đã được thành lập. Đến
1730, ca cao sụt giá mạnh cùng với những máy móc chế tạo thức uống ca cao và
sôcôla được phát minh trong cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo tiền đề cho một
nền công nghiệp sản xuất ca cao với số lượng lớn và giá thành rẻ. Phát minh ra
cách ép hạt ca cao mới làm giảm giá, nhưng lại tăng chất lượng thành phẩm lên
rất nhiều, cùng lúc đó giá đường giảm mạnh và đời sống người dân trên khắp
Châu Âu tăng lên đáng kể, đến đầu thế kỷ 20 thức uống ca cao đã trở thành một
nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của toàn châu Âu. [14]
5
1.1.2 Đặc điểm thực vật học
Ca cao là loài cây thân gỗ, có thể cao đến 10 - 20 m nếu để mọc tự nhiên.
Trong sản xuất, do trồng mật độ dày và chiều cao được khống chế thông qua
việc tỉa cành nên cây thường có độ cao khoảng 4 - 8m. Ca cao sinh trưởng tốt
trong điều kiện có bóng che, chu kỳ sinh trưởng trên 40 năm và thời gian cho
hiệu quả kinh tế có thể kéo dài 20 - 25 năm. [10]
1.1.2.1 Rễ
Hạt sau khi nảy mầm, rễ trụ mọc rất nhanh và có nhiều rễ ngang mọc
thẳng góc quanh trụ. Ba tháng đầu rễ phát triển rất nhanh (có thể hơn 25cm), để
tránh rễ bị cong khi ươm cây, cần chọn túi đủ dài để rễ phát triển trong 3 - 4
tháng đầu.
Rễ trụ vẫn tiếp tục phát triển khi bị cắt ngang phần đuôi, nên khi trồng ta
cắt bỏ phần rễ cong trong bầu đất mà không ảnh hưởng đến sinh trưởng của rễ.
Khi cây được 3 năm tuổi, rễ trụ dài khoảng 1 - 1,5m, có nhiều rễ ngang mọc ra,
phân nhánh và có nhiều rễ con tập trung ở vùng phía dưới cổ rễ 20cm (vùng đất
mặt). Giữ ẩm vào mùa khô rất quan trọng để duy trì hoạt động của rễ ngang
trong quá trình hấp thu dinh dưỡng và nước.
1.1.2.2 Thân
Là chiều cao từ cổ rễ đến điểm phân cành đầu tiên. Có 2 loại thân: thân
phát triển từ hạt và thân phát triển từ cành ghép.
Thân phát triển từ hạt: theo hướng thẳng đứng và khi thân phát triển trung
bình được từ 1 - 1,5m sẽ tự phân làm 3 - 5 cành ngang (chiều cao điểm phân
cành có thể cao hay thấp tùy thuộc vào sinh trưởng ban đầu của cây và mức độ
bóng che). Sự phát triển của tầng cành sẽ được lặp lại tạo cho cây ca cao phát
triển từ hạt có 3 - 5 tầng cành.
Thân phát triển từ cành ghép: là phần phát triển từ mầm của cành ghép
được nối liền với phần thân phát triển từ gốc ghép. Trường hợp cành ghép mọc 2
- 3 mầm thì cây ghép có thể có 2 - 3 thân. Trong sản xuất thường chỉ giữ lại 1
6
thân, thường trên vị trí các nách lá đều có thể phát triển cành ngang tạo nên cây
có dạng thân bụi.
1.1.2.3 Lá
Lá non có màu sắc khác nhau tùy giống và phát triển theo từng đợt, sau
mỗi đợt ra lá, đỉnh cành đi vào trạng thái ngủ, thời gian ngủ tùy theo điều kiện
môi trường, thường khoảng 4 - 6 tuần lễ. Sự phát triển lá liên quan đến mức độ
chiếu sáng và tình trạng nước của cây, ca cao trồng trong điều kiện không che
bóng các đợt ra lá nhanh hơn là trồng trong điều kiện có bóng che, do sự biến
động hàm lượng nước trong cây xảy ra thường xuyên và nhiệt độ môi trường bên
ngoài cao kích thích chồi lá phát triển.
Cây cần dinh dưỡng khi đợt lá mới phát triển. Nếu cây thiếu dinh dưỡng
sẽ có sự vận chuyển dinh dưỡng từ lá già sang lá non mới ra và dẫn đến việc lá
già bị rụng sớm. Do đó, số lá già hiện diện trên thân giúp người trồng có thể hiểu
được phần nào hiện trạng dinh dưỡng của cây ca cao.
Màu sắc lá non thay đổi tuỳ theo giống, từ màu xanh nhạt đến vàng, từ
màu hồng đến đỏ đậm. Khi trưởng thành lá có màu xanh thẫm, cứng cáp hơn và
nằm ngang. Khí khổng chỉ có ở mặt dưới phiến lá nên khi phun phân và thuốc
phải phun từ dưới lên mới có hiệu quả cao. Lá dưới bóng che có phiến rộng và
xanh hơn ngoài nắng. Lá trên thân mọc từ hạt hoặc cành vượt có cuống dài từ 7 9cm và mọc theo hình xoắn ốc. Lá trên cành ngang hay trên cây ghép có cuống
ngắn từ 2 - 3cm, mọc đối cách trên cành và chịu được cường độ ánh sáng cao
hơn lá trên thân chính.
1.1.2.4 Hoa
Hoa mọc cố định trên phần sẹo lá của cành và thân, do đó cần tránh làm
tổn thương vị trí ra hoa. Cây ca cao có thể ra hoa đợt đầu tiên vào khoảng 14 20 tháng sau khi trồng, cây ghép hay cành giâm có thể ra hoa sớm hơn từ 9 - 18
tháng khi sau khi trồng. Hoa ra tập trung vào mùa mưa, những nơi có đủ nước
cây ra hoa quanh năm. Hoa ca cao thụ phấn chéo nhờ côn trùng, hoa ra rất nhiều
7
nhưng tỉ lệ đậu trái khoảng 3 - 5% và số trái cây giữ lại trên cây khoảng 80% số
trái đã đậu, khoảng 20% sẽ bị héo đi (héo sinh lý tự nhiên của cây).
1.1.2.5 Trái
Từ khi hoa nở đến trái chín khoảng 5 - 6 tháng, thời gian này khác nhau
tuỳ theo giống. Trái có hình dạng, kích thước và màu sắc khá đa dạng. Trái chưa
chín có màu xanh, tím hoặc xanh phơn phớt tím khi chín chuyển sang màu vàng,
vàng cam hoặc đỏ cam.
1.1.2.6 Hạt
Mỗi trái chứa từ 30 - 50 hạt. Hạt được bao chung quanh bởi lớp cơm
nhầy. Hạt là do sự khép kín của 2 lá mầm, lá mầm có màu tím hoặc trắng, trắng
ngà và chuyển sang màu nâu sau khi lên men. Kích thước hạt thay đổi tùy giống
và mùa vụ. Hạt ca cao càng để lâu càng mất sức nẩy mầm, nếu ươm cây từ hạt
cần gieo ngay khi mới tách vỏ từ trái chín.
1.1.3 Giá trị của cây ca cao
1.1.3.1 Đối với sức khoẻ con nguời
Hạt ca cao chứa nhiều nhóm chất chống oxy hóa flavanol (Epicatechin,
Catechin, Procianidin). Chất chống oxy hóa có vai trò quan trọng trong việc duy
trì giúp hệ thống tim mạch hoạt động tốt. Chất chống oxy hóa giới hạn sự oxy
hoá của Cholesterol nên giữ cho mạch máu luôn khoẻ mạnh.
Trong thành phần bơ ca cao có 3 loại: acid béo chính là acid palmitic, acid
stearic (chất béo no) và acid oleic (chất béo không no). Ngoài ra, còn có acid
linoleic là chất béo không no. Các acid béo không no chiếm 1/3 của thành phần
bơ ca cao và có tác dụng làm giảm lượng Cholesterol trong máu. Acid béo no,
acid stearic cho thấy chúng không có ảnh hưởng đến lượng Cholesterol trong
máu, mặc dù thông thường các acid béo no sẽ làm tăng lượng Cholesterol có hại
cho sức khoẻ.
1.1.3.2 Giá trị sử dụng
Bộ phận chính được sử dụng là hạt. Hạt sau khi rang được xay nhuyễn
trong điều kiện gia nhiệt đến 50 - 600C thành dung dịch sền sệt màu nâu sôcôla
8
gọi là bột nhão ca cao. Ở nhiệt độ này dung dịch có dạng lỏng, còn trong điều
kiện bình thường bột nhão này bị đông cứng. Khi ép bột nhão ra tách được bơ và
bánh dầu ca cao. Xay nhuyễn bánh dầu ca cao cho ra bột ca cao. Hạt ca cao có
hàm lượng chất béo từ 50 - 60% trọng lượng hạt.
Bột nhão, bơ và bột ca cao là những nguyên liệu chính cho công nghiệp
bánh kẹo, thực phẩm. Sôcôla là sự pha trộn giữa bột nhão, bơ, đường và các
nguyên liệu khác tuỳ theo công thức riêng của mỗi nhà sản xuất.
Bột ca cao và sôcôla có các thành phần hydratecarbon, protein, chất béo
cùng với một số vitamin B tổng hợp.
Vỏ quả ca cao cũng là một trong những thành phần quan trọng chứa rất
nhiều chất dinh dưỡng tính theo % trọng lượng khô như: protein: 6,25%; chất
xơ: 27,3%; tro: 8,1%; Na: 0,01%; K: 3,2%; Ca: 0,44%: P: 0,09% (Wood và
Lass, 1985) [8].
Vỏ ca cao chứa 3 - 4% Kali so với trọng lượng chất khô, là nguồn phân
bón giàu Kali. Tro đốt từ vỏ được dùng để làm xà phòng.
Vỏ quả ca cao xay nhỏ có thể trộn vào thức ăn cho bò, cừu, dê với tỷ lệ
lên tới 50%, cho heo 30%, cho gà 20%. Bò có thể ăn trực tiếp được vỏ tươi thay
thế cho khẩu phần cỏ voi (Wood và Lass, 1985) [8]. Theo D. paulin, A.B. Eskes,
1995 [6] bột vỏ ca cao có thể thay thế bắp và trộn với tỷ lệ 35% vẫn không thay
đổi mức tăng trọng của heo. Nếu dùng vỏ quả làm thức ăn gia súc thì phải phơi
khô ngay sau khi thu hoạch, sau đó xay thành bột trộn vào thức ăn hoặc vo viên.
Hạt ca cao được bao bọc bởi lớp áo dạng cơm mềm, ướt, mùi rất thơm.
Lớp cơm chứa nhiều đường (10 - 13%), pentosan (2 - 3%), acid citric (1 - 2%)
và muối (7 - 10%). Có thể dùng lớp cơm này làm nước sinh tố hoặc cô đặc làm
nước trái cây.
Trong kỹ thuật canh tác, lá ca cao thường xuyên được tỉa bỏ để tạo hình
dạng thích hợp và tăng độ thông thoáng cho cây. Lá ca cao tỉa bỏ là nguồn thức
ăn ổn định tốt cho dê, bò và thỏ.
9
Các hạt ca cao được gắn vào cơ quan thai tòa, khi tách hạt ca cao để lên
men thai tòa được loại bỏ và là nguồn thức ăn cho cá và heo.
Dịch thu từ quá trình lên men được dùng để chế biến rượu với hương vị
rất đặc trưng của ca cao. Ngoài ra, dịch cũng có thể sử dụng như nguyên liệu để
sản xuất thạch thay thế nước dừa trong kỹ thuật sản xuất thạch dừa.
1.1.3.3 Giá trị kinh tế
Ca cao là cây ưa bóng nên thường trồng xen, do đó đáp ứng được xu
hướng hiện nay là đa dạng hoá cây trồng nhằm phá vỡ thế độc canh mang nhiều
rủi ro. Quả ca cao chín sau khi hái về tách hạt đem ủ lên men, xung quanh hạt có
lớp cơm nhầy màu trắng trong khi ủ hạt lớp cơm này được lên men thành rượu.
Rượu ca cao uống rất ngon và tốt, có giá trị và là sản phẩm rất được ưa chuộng.
Bộ phận chính được sử dụng là hạt, hạt ca cao có hàm lượng chất béo 50 - 60 %
trọng lượng hạt. Bột nhão, bơ và bột ca cao là những nguyên liệu chính cho
ngành công nghiệp bánh kẹo, thực phẩm. Ngoài thị trường tiêu thụ trong nước,
hạt ca cao được sử dụng để xuất khẩu và thu về nguồn ngoại tệ rất cao. Theo Bo
Gohl (1981) bột vỏ ca cao có thể thay thế bắp và trộn với tỷ lệ 35 % và vẫn
không làm thay đổi mức tăng trọng của heo. Cứ 100 kg vỏ trái ca cao nghiền
thành bột nhuyễn có giá trị ngang bằng 97 kg bột bắp (Nguyễn Văn Uyển,
Nguyễn Tài Sum, 1996).[5]
10
Bảng 1.1: Thành phần của bột ca cao
Thành phần dinh dưõng (g/100g)
Khoáng chất (mg/100g)
Protein
18,5
Na
Chất
21,7
K
Carbohydrates
11,5
Ca
130
Mg
520
Fe
10,5
Co
3,9
P
660
Cl
460
Năng lượng
Kcal
312
KJ
1.031
950
1.500
(Nguồn: Paul và Southgate (1978). Trích theo Wood và Lass (2001) [7]
Bảng 1.2: Thành phần hoá học của vỏ trái ca cao
Thành phần
Vỏ trái ca cao (%)
Nước
57,75
Tổng số chất khô
42,25
Protein thô
9,69
Chất béo
0,15
Tro (SiO2 tự do)
10,08
Chất xơ
33,90
Nitơ tự do
42,21
Glucose
1,16
Sucrose
0,18
Pectin
5,30
Theobromine
0,20
(Nguồn: Opeke, 1982. Trích theo Phạm Hồng Đức Phước, 2005)
Cây ca cao có rất nhiều lá, lá ca cao có thể sử dụng làm nguồn thức ăn tốt
cho dê, bò và thỏ. Hạt ca cao được gắn vào cơ quan gọi là thai tòa. Khi tách hạt
11
ca cao để lên men, thai tòa được loại bỏ. Thai tòa có thể sử dụng làm thức ăn cho
cá và heo.
Lớp cơm nhầy chứa nhiều đường (10-13 %), pentosan (2-3 %) acid citric
(1-2 %) và muối 7-10 %) (Lopez, 1986). Có thể sử dụng lớp cơm này làm nước
sinh tố, kem hoặc cô đặc làm nước cốt trái cây. Lên men lớp cơm nhầy thu được
dịch để chế biến rượu, nguyên liệu sản xuất ra thay thế nước dừa trong sản xuất
thạch dừa. Vì vậy, để nâng cao giá trị của ca cao cần có những đầu tư và chính
sách phù hợp, tăng cường mở rộng diện tích cây ca cao với việc chọn ra những
giống tốt, tiến hành trồng xen canh hợp lý, có chế độ chăm sóc tốt. Đồng thời
chế biến các sản phẩm từ ca cao, đặc biệt là rượu ca cao, từng bước tiến tới công
nghệ chế biến bột ca cao, bơ và chocolate.
Hiện nay ca cao được chế biến rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm.
Nhiều nhất là bánh kẹo và các thức uống. Nói đến bánh kẹo có nguồn gốc từ ca
cao người ta thường nghĩ ngay đến sôcôla, nổi tiếng nhất là nhiều loại sôcôla
được sản xuất từ Thụy Sỹ, Ðức… Người châu Âu rất thích ăn sôcôla, tính bình
quân mỗi người tiêu thụ khoảng 11,9 kg/năm (trong số đó đàn bà 35 %, đàn ông
25 %, phần còn lại là trẻ em). Do nhu cầu tiêu thụ càng ngày càng cao nên ca cao
trong tương lai vẫn là mặt hàng nông sản có giá, ít bị biến động về giá cả như cà
phê hoặc tiêu.
1.2 Phân bón đối với cây ca cao
1.2.1 Nhu cầu
Cây ca cao cần được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, trung và vi lượng,
thiếu hoặc thừa một trong những yếu tố này đều ảnh hưởng đến sinh trưởng và
phát triển của cây. Nhu cầu phân bón của ca cao tùy theo tuổi cây và năng suất.
Ca cao giai đoạn kinh doanh cần bón nhiều phân hơn ca cao kiến thiết cơ bản.
Năng suất ca cao càng cao, càng cần phải bón nhiều phân hơn.
Cây hút nhiều dinh dưỡng, nhiều nhất là K, tiếp đến là N, Ca, Mg, P. Nhu
cầu dinh dưỡng của cây ca cao cũng thay đổi theo điều kiện che bóng.
12
Do đặc điểm bộ rễ cây ca cao ăn nông (80% rễ tập trung ở tầng 0 - 30 cm)
nên cần bón phân ở tầng đất mặt. Rải phân theo đường chiếu của tán rồi lấp đất
để giảm bớt thất thoát do bay hơi, rửa trôi. Vào thời kỳ kinh doanh, cây đã giao
tán, có thể chịu hạn và cho năng suất khá ổn định.
Qua thực nghiệm ở Việt Nam cho thấy, trong năm đầu tiên tổng lượng
phân cung cấp cho mỗi cây khoảng 150 - 200g phân tổng hợp NPK (16:16:8).
Đến năm thứ hai lượng phân cần tăng lên khoảng từ 300 - 400g/cây; năm thứ 3
là 500 - 600g/cây. Từ năm thứ tư trở đi, cây vào giai đoạn cho nhiều trái, lượng
phân bón cần dựa vào điều kiện đất đai và sản lượng ca cao thu hoạch để cân đối
với lượng dinh dưỡng do cây trồng lấy đi để tạo quả, hạt, cùng với sự mất mát do
các yếu tố môi trường.
Bảng 1.3: Lượng dinh dưỡng (kg) cây lấy đi để tạo ra 1.000kg hạt
ca cao khô/ha
Dinh dưỡng
N
P
K
Ca++
Mg++
Hạt
21,3
4,0
9,5
1,0
3,0
Vỏ
14,5
1,8
63,0
6,0
3,1
35,8
5,8
72,5
7,0
6,1
Tổng số
(Nguồn: Wood & Lass (2001). Trích theo Phạm Hồng Đức Phước, 2005)
Lượng phân bón được chia ra bón nhiều lần trong mùa mưa. Tuy nhiên,
có 2 thời điểm cây cần nhiều phân là lúc vừa hình thành trái và trước khi thu
hoạch 2 tháng. Trong những năm đầu, phân bón cần bón quanh gốc, nhưng khi
cây đã giao tán chỉ cần rải phân trên mặt đất, sau đó phủ bằng lớp lá mục vốn có
sẵn trong vườn ca cao.
1.2.2 Vai trò của một số chất khoáng đối với cây ca cao
Phân bón có vai trò hết sức quan trọng giúp ổn định và tăng năng suất cho
cây. Hàng năm, các nguyên tố trong lượng phân bón luôn bị mất đi do rửa trôi và
do cây lấy đi. Chính vì vậy mà ta phải cung cấp thêm phân bón cho cây. Sau đây
là vai trò của các nguyên tố N, P, K và S đối với ca cao.
13
* Đạm (N): đây là thành phần quan trọng cho tất cả bộ phận của cây và
đặc biệt cần thiết cho sự sinh trưởng dinh dưỡng. Việc lá rụng rồi lại mọc lá mới
của cây ca cao cần sự hiện diện thường xuyên của đạm trong đất. Đối với trái
cũng vậy, đạm cần thiết cho trái phát triển và việc này xảy ra quanh năm.
Thiếu đạm lá có màu xanh vàng hay xanh nõn chuối. Thiếu nặng lá rụng
nhiều, năng suất giảm. Hiện tượng thiếu đạm thường xảy ra trên đất nghèo dinh
dưỡng và bón không đủ lượng đạm cây cần.
* Lân (P): ca cao cần lân tương đối ít. Dạng lân dễ tiêu trong đất thường
bị giới hạn bởi việc cố định do các phản ứng hóa học, đặc biệt là ở đất chua. Nên
thường xuyên bón phân lân với lượng nhỏ. Cần bón lót phân lân trong hố trước
khi trồng để giúp cây tăng trưởng trong giai đoạn đầu.
Thiếu lân lá chuyển màu xỉn, mép lá non ửng đỏ, thiếu nặng lá rụng và
cành chết.
* Kali (K): kali rất quan trọng khi cây ra trái, lượng kali trong trái rất lớn.
Bón thường xuyên phân kali rất cần thiết để duy trì năng suất cao. Với đất nhiều
Kali sẽ cản trở sự hấp thu Ca++ và Mg++. Trong trường hợp này cần bón Ca và
Mg nhưng không bón kali.
Thiếu kali mép lá chuyển màu vàng cam sau chuyển màu xám nâu và khô,
lá rụng nhiều.
* Lưu huỳnh (S): thiếu lưu huỳnh, hầu hết lá trên cây chuyển sang màu
vàng, xuất hiện những vết như vết bệnh trên lá già.
Ở lá non, lúc đầu có màu vàng sáng, sau đó chuyển sang màu vàng nhạt,
tương tự triệu chứng ở lá già. Lưu huỳnh được bón thông qua phân SA (chứa
khoảng 24 % S); phân Super lân (Super lân chứa khoảng 14 % S).
14
Bảng 1.4: Dinh dưỡng cây ca cao hút, lấy đi
Giai
đoạn
Dinh dưỡng cho cả cây (kg/ha)
Tháng
tuổi
N
Vườn ươm
P2O5
K2 O
MgO
CaO
5 - 12
2,5
1,4
30
1,9
0,04
Cây con
28
140
33
188
80
4,0
Thu bói
39
219
54
400
122
7,3
50 - 87
543
114
788
221
7,0
K.Doanh
(Nguồn: Thong va Ng. 1978 in Wessel, 1987) [4]
Bảng 1.5: Dinh dưỡng cho ca cao trồng mới
Lượng dinh dưỡng cho mỗi cây (g)
Tháng
sau trồng
Urê
Supe lân
Sulphate kali
Tổng số
1
13,9
40,0
12,8
66,7
4
18,4
53,1
17,0
88,6
8
18,4
53,1
17,0
88,6
12
27,8
80,0
25,6
133,4
18
36,9
106,2
34,0
177,2
24
59,3
170,6
77,0
306,9
(Nguồn: Phạm Hồng Đức Phước, 2006) [3]
15
1.3 Tình hình sản xuất và tiêu thụ ca cao trên thế giới và Việt Nam
1.3.1 Trên thế giới
1.3.1.1 Tình hình sản xuất
Bảng 1.6: Sản lượng của các nước sản xuất ca cao chính trên thế giới
ĐVT: 1.000 tấn
Các nước
04/05
05/06
06/07
07/08
1-3/09
3-6/09
08/09
Africa
2,414
2,647
2,378
2,602
695
194
2,372
190
172
170
188
64
11
195
1,426
1,557
1,422
1,431
370
128
1,200
Ghana
552
660
555
730
165
36
700
Nigeria
206
214
185
200
75
12
210
Các nước khác
39
44
46
55
20
10
67
Asia & Oceania
569
681
635
614
147
184
607
Indonesia
470
575
525
500
119
149
490
Malaysia
26
27
28
32
7
9
32
Các nước khác
73
79
82
82
21
26
85
America
437
434
409
447
93
106
451
Brazil
171
162
126
160
30
31
165
Ecuador
114
113
115
115
32
29
112
Các nước khác
152
160
167
172
31
46
176
Cameroon
Cote d’Ivoire
(Nguồn: theo ICCO, 6/2009)
Yếu tố chính đẩy giá ca cao tăng trong năm 2009 là nguồn cung khan
hiếm ở những nước sản xuất lớn, nhất là Bờ Biển Ngà (nước sản xuất ca cao
hàng đầu thế giới). Ngoài ra, việc đồng USD suy yếu cũng thu hút các nhà đầu tư
vào thị trường nông sản.
16
Sản lượng ca cao của Bờ Biển Ngà giảm 12% xuống còn 1,2 triệu tấn
trong niên vụ 2009 - 2010, là mức thấp nhất trong 10 năm qua. Ghana, nước sản
xuất ca cao lớn thứ hai thế giới, sau Bờ Biển Ngà sẽ không đạt được mục tiêu
sản xuất 1 triệu tấn vào năm 2010 - 2011. Côđivoa chiếm khoảng 40% tổng sản
lượng toàn cầu. Tổ chức ca cao Quốc tế (ICCO) ước tính nhu cầu ca cao thế giới
vượt khoảng 73.000 tấn so với sản lượng trong năm 2009. Năm 2010 thị trường
này sẽ bước vào năm thứ 4 liên tiếp thiếu cung - dài nhất trong lịch sử kể từ năm
1969.
Theo tính toán của tổ chức ca cao Quốc tế (ICCO): châu Âu tiếp tục là
khu vực sử dụng nhiều ca cao nhất thế giới, chiếm 40% tổng tiêu thụ ca cao toàn
cầu, với tiêu thụ dự kiến sẽ tăng 1,7% và đạt 1,4 triệu tấn. Không chỉ sôcôla, ca
cao còn là nguyên liệu sản xuất nhiều sản phẩm rất được ưa chuộng khác như bơ
ca cao. Bắc Mỹ, khu vực tiêu thụ lớn thứ 2 thế giới, tăng tiêu thụ thêm 3,6%
trong năm 2010 lên 703.000 tấn. Ở Liên xô cũ, tiêu thụ sẽ tăng 0,8% từ mức
65.000 tấn lên 71.000 tấn. Trong khi đó, tiêu thụ ở Nhật Bản dự kiến tăng từ
48.000 tấn lên 56.000 tấn. Ở các nước đang phát triển, các sản phẩm ca cao cũng
ngày càng trở nên phổ biến, với tiêu thụ tăng lên 1,3 triệu tấn (năm 2010), tức là
tăng 1,8% (so với năm 2009). Châu Phi, nơi nhu cầu của người dân tăng rất
mạnh trong thập kỷ qua, sẽ vẫn là khu vực tiêu thụ lớn nhất nhóm các quốc gia
đang phát triển, với 35%. Mỹ Latinh và Caribê trong nhóm giảm từ 32% (năm
2009) xuống 28% (năm 2010) bởi chi phí xay nghiền cao hơn so với châu Phi.
Tại Viễn Đông, mặc dù mức tiêu thụ còn rất khiêm tốn, song tốc độ tăng khá
nhanh nên thị phần cũng tăng từ 31% lên 34%. Năm 2010, thị trường ca cao thế
giới vẫn không đủ. Hạt ca cao sẽ tiếp tục chiếm phần lớn trong tổng xuất khẩu,
mặc dù một số quốc gia tăng công suất chế biến, nhất là ở châu Phi.[11]
Một cuộc xung đột 5 tháng tại Bờ biển Ngà, sau một cuộc bầu cử Tổng
thống gây tranh cãi vào tháng 11/2010, dẫn đến lệnh cấm xuất khẩu ca cao nên
đẩy giá ca cao lên mức cao nhất trong 32 năm (vào tháng 3/2011). Sản lượng ca
cao ở Bờ biển Ngà giảm còn khoảng 1,3 triệu tấn (niên vụ 2011/2012) sau khi
17
đạt mức cao kỷ lục 1,56 triệu tấn (niên vụ 2010/2011). Sản lượng ca cao ở
Ghana đạt 970.000 tấn, sản lượng ca cao ở Indonesia (nước sản xuất ca cao lớn
thứ ba thế giới) đạt 500.000 tấn. [15]
Diện tích ca cao cũng có xu hướng giảm ở một số nước như: Malaysia,
Philipin, Brazil, sản lượng ca cao khó có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thế
giới (liên tục tăng từ 90.000 đến 120.000 tấn hạt/năm). Theo Tổ chức ca cao thế
giới (ICCO) đến 2015 toàn cầu sẽ thiếu 102.000 tấn. Trong khi các nước có diện
tích ca cao lớn bị thiên tai, tình hình chính trị không ổn định, cây già cỗi, sâu
bệnh gây thiệt hại lớn.
1.3.1.2 Tình hình tiêu thụ
Sản lượng ca cao toàn cầu những năm qua tăng không đáng kể. Bờ Biển
Ngà giảm 38% sản lượng vì nội chiến, Ghana giảm 19%. Riêng Indonesia, nước
sản xuất ca cao lớn ở châu Á khoảng 20% sản lượng. Malaysia, một trong những
nước trồng ca cao hàng đầu thế giới, đang chặt bỏ khoảng 200.000 ha ca cao để
chuyển sang trồng cọ dừa. Đây là nguyên nhân góp phần đẩy giá ca cao thế giới
tăng cao.
Sản lượng giảm nhưng nhu cầu sử dụng hạt ca cao của Hoa Kỳ, Nhật Bản
và châu Âu vẫn rất lớn (chiếm 76% lượng tiêu thụ ca cao toàn cầu). Nhu cầu của
các nước Brazil, Nga, Ukraina, vùng Trung Đông cũng tăng nhanh, dẫn đến cung
không đủ cầu. Trong bối cảnh đó, một số công ty chế biến ca cao lớn thế giới:
Hà Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Malaysia... đang quan tâm tới ca cao Việt Nam.
1.3.2 Ở Việt Nam
Ca cao Việt Nam được xuất khẩu dưới 2 dạng: thô và thành phẩm. Trong
đó, xuất khẩu thành phẩm thu được lợi nhuận lớn hơn. Nếu bán ca cao sơ chế chỉ
có thể lãi 15%, trong khi đó, sản phẩm từ ca cao như: kẹo, bột... có thể lãi đến
400%. Chính vì vậy, một số công ty đẩy mạnh việc đầu tư dây chuyền sản xuất
tại thị trường Việt Nam như Grand Place hay Vinacacao. Ngay từ năm 2007,
Vinacacao đã đầu tư nhà máy sản xuất tại Bến Tre để sản xuất 15 loại sản phẩm
tiêu thụ trong nước với kinh phí đầu tư 40 triệu USD. Tuy nhiên, công ty này
18
phải nhập khẩu gần 70% nguyên liệu từ Malaysia với giá cao hơn trong nước
đến 10% để sản xuất.
Công ty Grand Palace Vietnam sử dụng nguyên liệu là hạt ca cao Việt
Nam để chế biến sôcôla xuất khẩu và xuất vào thị trường Mỹ. Ông Gricha
Safarian, Tổng Giám đốc công ty Grand Palace Vietnam, đánh giá rất cao ca cao
Việt Nam: “Nếu so sánh sôcôla Việt Nam, chế biến từ hạt ca cao Việt Nam và
sôcôla châu Phi, chế biến từ hạt ca cao của Ghana thì sẽ thấy hương ca cao trong
sôcôla Việt Nam là 3+, trong khi sôcôla châu Phi là 4+; nhưng hương trái cây
trong sôcôla châu Phi chỉ 1+, trong khi của Việt Nam là 3+. Độ thoát hương của
sôcôla Việt Nam là 2+, trong khi của châu Phi là âm (-). Theo đánh giá từ các
chuyên gia sôcôla, một thanh sôcôla ngon là thanh sôcôla có hương trái cây và
độ thoát hương cao.” [12]
Cùng với sự phát triển của đời sống, nhu cầu của con người ngày càng
tăng cao, đặc biệt các sản phẩm từ ca cao ngày càng được ưa chuộng. Do đó, đến
cuối năm 2010, diện tích trồng ca cao ở Việt Nam là 16.725 ha, tăng 3.580 ha so
với năm 2009. Tổng số có 2.100 ha ca cao trồng thuần, số còn lại là diện tích
trồng xen với một số cây (dừa, điều, cà phê và cây ăn quả). Diện tích ca cao thu
hoạch đến nay khoảng 7.300 ha, chiếm 43,6% tổng diện tích trồng.
Bảng 1.7: Chất lượng hạt ca cao (2006/2007 - 2009/2010) (%)
Độ
ẩm
Số hạt/
100gr
Mốc
Chai
xám
Nẩy mầm,
côn trùng
Tạp
chất
2006/2007
7,4
117
0,68
0,9
1,0
2,8
2007/2008
7,5
107
0,60
0,3
0,3
0,9
2008/2009
7,3
96
0,44
0,2
0,3
0,8
2009/2010
7,3
94
0,30
0,2
0,2
0,90
Năm
(Nguồn: theo ICCO, 6/2010)
19
Bảng 1.8: Tình hình xuất khẩu hạt ca cao của Việt Nam
Công ty
Công ty
Cargill
ED& Man
(tấn)
(tấn)
Niên vụ 2005/2006
15,0
17,0
32,0
48.000
Niên vụ 2006/2007
180,0
70,0
240,0
520.000
195,0
87,0
272,0
568.000
Niên vụ
Tổng cộng
Tổng số
(tấn)
Giá trị
ước tính
(USD)
(Nguồn: Báo cáo Công ty Cargill và ED& Fman)
Hiện nay các giống được trồng chủ yếu là: các dòng ca cao vô tính nhập
nội bước đầu đã qua khảo nghiệm chiếm 82,2%. Trong đó, có 8 dòng TD1, TD2,
TD3, TD5, TD6, TD8, TD10 và TD14 của trường Đại học Nông Lâm TP.HCM
và 5 cây ca cao đầu dòng của Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây
Nguyên đã được bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận và cho
phép phát triển ở các tỉnh phía Nam. Các cây lai từ các cặp lai đã biết trước bố,
mẹ (chiếm 17,8 %). Ngoài ra, có một số ít cây trồng từ việc gieo ươm hạt của
trái ca cao thương phẩm.
1.3.3 Ở Đắk Lắk
1.3.3.1 Tình hình sản xuất
Cây ca cao được trồng ở Đắk Lắk từ những năm cuối thập kỷ 50 của thế
kỷ XX tại một số đồn điền cà phê, cao su trên đất bazan; cây sinh trưởng nhanh,
năm thứ 3 - 4 cho thu bói. Năm 1956, chương trình khảo nghiệm ca cao được
đưa vào miền Nam Việt Nam và Cao nguyên trung phần, hiện nay còn một số
cây ca cao tại huyện Lắk, Krông Bông vẫn còn cho quả, cây sinh trưởng tốt.
Năm 1977, Viện khoa học kỹ thuật NLN Tây Nguyên trồng 2 ha. Năm
1978 có vườn thực nghiệm giống khoảng 500 cây, gần 40 giống. Năm 1989
20
- Xem thêm -