Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu và ứng dụng dịch ngâm hạt, lá xoan neem và chế phẩm vineem 1500ec tro...

Tài liệu Nghiên cứu và ứng dụng dịch ngâm hạt, lá xoan neem và chế phẩm vineem 1500ec trong phòng trừ sâu hại rau bắp cải vụ đông xuân sớm năm 2010 tại đồng hỷ thái nguyên

.PDF
61
99
96

Mô tả:

1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu được trong mỗi bữa ăn hàng ngày của con người, vì rau cung cấp các chất dinh dưỡng thiết yếu như: vitamin, lipit, protein và các chất khoáng quan trọng như: canxi, phốt pho, sắt,… cần thiết cho sự phát triển của cơ thể. Ngoài ra rau còn cung cấp một lượng lớn các chất xơ có khả năng làm tăng nhu mô ruột và hệ tiêu hóa, là thành phần hỗ trợ sự di chuyển thức ăn qua đường tiêu hóa giúp cho hoạt động co bóp của đường ruột được dễ dàng. Rau là nguyên liệu quan trọng trong ngành chế biến, đồng thời là mặt hàng xuất khẩu có giá trị, góp phần làm tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân. Khi đời sống phát triển thì nhu cầu về rau ngày càng cao, vì nó không những chỉ cung cấp những chất dinh dưỡng và khoáng chất cần thiết cho sự phát triển cơ thể, mà rau còn là nguồn thức ăn giúp ngon miệng, dễ hấp thụ. Trong mâm cơm, rau quả tươi góp phần quan trọng để tăng sức hấp dẫn của các món ăn. Các nhà khoa học và nhiều bậc cao niên đã cho rằng: để sống lâu, con người cần hạn chế ăn thịt mỡ mà nên ăn nhiều rau quả. Những người béo phì, mỡ không chỉ tích luỹ ở dưới da mà còn bám vào các phủ tạng gây nên các bệnh về tim, mạch. Người Nhật, với cơ cấu bữa ăn chủ yếu là ngũ cốc, cá và rau quả đã có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới. Chính vì vậy việc sản xuất ra nhiều loại rau với số lượng lớn và đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm là một nhiệm vụ quan trọng. Trong những năm gần đây, cùng với việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng tạo ra những sản phẩm hàng hóa có giá trị cao, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu thì diện tích trồng rau không 2 ngừng được mở rộng, mặt khác chủng loại rau cũng đa dạng và phong phú. Trên cơ sở áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, làm tăng năng suất, chất lượng rau xanh, nhưng càng thâm canh thì sâu hại càng nhiều, để bảo toàn năng suất, người nông dân nông dân sử dụng rất nhiều các loại thuốc hoá học để phòng trừ, vì thuốc hoá học có hiệu quả diệt trừ nhanh, giá thành rẻ, hiệu quả cao và tiêu diệt được nhiều dịch hại. Bên cạnh những ưu điểm đó, thuốc hoá học có rất nhiều nhược điểm mà người dân chưa nhận thức được nên đã lạm dụng, sử dụng thuốc hoá học BVTV một cách tuỳ tiện (nhiều nơi chỉ trong 1 vụ phun tới 10-12 lần, thậm chí có khi lên tới 20-24 lần) gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người vật nuôi, làm mất cân bằng sinh thái đồng thời tạo ra tính kháng thuốc, chống thuốc của dịch hại. Thực tế cho thấy, kết quả là sâu hại đã phát sinh, phát triển ngày một nhiều hơn, chúng đã phá hại nhanh hơn và gây thiệt hại đáng kể. Có nhiều loài sâu hại trước đây chỉ là thứ yếu thì nay trở lại thành chủ yếu là do chúng đã phát sinh với số lượng lớn, rộng khắp trên toàn diện tích trồng trọt và phá hại rất mạnh. Chính điều đó đã gây tổn thất và làm mùa màng thiệt hại nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến năng suất và phẩm chất của rau và đáng lo ngại nhất là trong sản phẩm rau có chứa hàm lượng nitrat, dư lượng thuốc trừ sâu, kim loại nặng và vi sinh vật gây hại quá ngưỡng cho phép, chúng đã gây ngộ độc cho con người. Ở Việt Nam, vấn đề ngộ độc rau quả trên diện rộng đã ngày càng khiến người tiêu dùng phải băn khoăn, cảnh giác. Trong khi vụ ngộ độc do ăn rau muống được mua tại chợ Hôm (Hà Nội) khiến 18 người phải đi cấp cứu đang còn là vấn đề thời sự, thì ngày 17 và 18/4/2002 đã xảy ra vụ ngộ độc do ăn cà muối tại xã Tam Cường (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) khiến 45 người phải đi bệnh viện. Nguyên nhân của cả 2 vụ ngộ độc trên đều là do dư lượng thuốc trừ sâu tồn đọng trong rau quả. Một số vụ ngộ độc khác lại do rau bị nhiễm thuốc 3 chuột... Theo thống kê chưa đầy đủ thì trong 2 năm (2000 - 2001) cả nước đã xảy ra 440 vụ ngộ độc thực phẩm khiến 8047 người mắc trong đó có 122 người bị tử vong. Theo Thống kê của Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm (Bộ Y tế) cho biết, trong năm 2008, cả nước xảy ra 205 vụ ngộ độc thực phẩm làm 7.828 người mắc, 61 người tử vong. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm Việt nam có khoảng 8 triệu người ngộ độc thực phẩm. Tuy nhiên chỉ có 8.000 người được thống kê, phát hiện, bằng 1% số người ngộ độc thực phẩm trên thực tế. Đó là chưa kể đến các trường hợp ngộ độc mãn tính do dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật được tích luỹ dần trong cơ thể, dẫn đến nguy cơ mắc bệnh ung thư. Trước thực tế đó, nền sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam đòi hỏi công tác BVTV phải đảm bảo và ổn định lâu dài về hiệu quả phòng trừ dịch hại cũng như ngăn ngừa được dư lượng thuốc BVTV trong nông sản phẩm, đồng thời bảo vệ được môi trường sống thì công tác BVTV phải nhanh chóng từng bước chuyển dần sang một chiến lược mới, đó là hệ thống chiến lược bao gồm nhiều biện pháp phòng trừ tổng hợp, trong đó lấy biện pháp sinh học và sinh thái học làm trọng tâm, kết hợp hài hoà sử dụng thuốc hoá học với liều lượng thấp một cách hợp lý mà vẫn đạt hiệu quả phòng trừ cao, nhằm khắc phục dần những hiện tượng tiêu cực do thuốc hoá học gây ra. Để góp phần tạo dựng và thiết lập nên một nền nông nghiệp sạch, an toàn, ổn định và bền vững; đồng thời góp phần nâng cao ý thức mọi người về vệ sinh an toàn thực phẩm, hạn chế sử dụng thuốc hóa học BVTV, bảo vệ sức khỏe con người và môi trường sống,.. và đáp ứng nhu cầu rau sạch phục vụ nhu cầu cuộc sống người dân Thái Nguyên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu và ứng dụng dịch ngâm hạt, lá xoan Neem và chế phẩm Vineem 1500EC trong phòng trừ sâu hại rau bắp cải vụ đông xuân sớm năm 2010 tại Đồng Hỷ Thái Nguyên”. 4 1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài * Mục đích - Xác định thành phần, diễn biến sâu hại trên rau bắp cải. - Thử nghiệm khả năng (hiệu lực) trừ sâu hại của dịch ngâm hạt, lá xoan Neem và chế phẩm Vineem 1500EC trên rau bắp cải vụ đông xuân sớm năm 2010 tại Đồng Hỷ - Thái Nguyên. * Yêu cầu - Xác định được thành phần các loài sâu hại rau bắp cải. Từ đó xác định được thành phần và diễn biến của một số loài sâu hại chính trên rau bắp cải. - Xác định hiệu lực trừ sâu của dịch ngâm hạt, lá xoan Neem và chế phẩm Vineem 1500EC trên rau bắp cải. - Đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng cây xoan Neem đến năng suất của rau bắp cải. 5 Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Tình hình sản xuất rau trên thế giới và ở Việt Nam 2.1.1. Tình hình sản xuất rau trên thế giới Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều chủng loại rau được gieo trồng, diện tích rau ngày càng gia tăng để đáp ứng nhu cầu về rau của người dân (Mai Phương Anh, Trần Văn Lài, Trần Khắc Thi, 1996) [2]. Năm 1961 - 1965, tổng lượng rau của thế giới là 200.234 tấn; từ năm 1971 - 1975 tổng lượng rau đạt 293.657 tấn và từ năm 1981 - 1985 là 392.060 tấn; đến năm 1996 tổng lượng rau đã lên đến 565.523 tấn. Sản lượng rau trên thế giới tăng lên rất nhanh, điều đó chứng tỏ nhu cầu rau của con người ngày càng tăng. Trên thế giới, những nước có sản lượng rau tăng nhanh nhất là Ý, năm 1961 đạt 9.859 nghìn tấn; đến năm 1996 sản lượng tăng đạt 13.555 nghìn tấn. Ở Hà Lan, năm 1985 bình quân 84 kg/người/năm; đến năm 1990 đạt 202 kg/người/năm. Ở Canada, mức tiêu thu rau bình quân là 70 kg/người/năm (Tạ T. Thu Cúc, 2000) [3]. Cho đến nay, tình hình sản xuất rau trên thế giới không ngừng phát triển cả về diện tích và sản lượng thể hiện qua bảng sau. Bảng 2.1: Tình hình sản xuất rau trên thế giới qua các năm Năm Diện tích (ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (tấn) 2004 15.937.621 14,3413 228.567.064 2005 16.478642 14,2494 234.811.143 2006 16.882.868 14,3506 242.279601 2007 17.022.433 14,4379 245.079.950 (Nguồn: FAO - 2009) 6 Qua bảng 2.1 ta thấy: Tình hình sản xuất rau trên thế giới từ năm 2004 trở lại đây có nhiều biến động cả về diện tích, năng suất và sản lượng. - Về diện tích: Từ năm 2004- 2007 diện tích trồng rau trên thế giới dã tăng lên nhanh chóng. Năm 2004 diện tích trồng rau trên thế giới chỉ có 15.937.621 ha nhưng đến năm 2007 đã lên tới 17.022.433 ha. Như vậy chỉ sau 3 năm diện tích trồng rau trên thế giới đã tăng 1.084.812 ha (trung bình tăng 634.330,6 ha/năm). Qua đó ta thấy được cây rau chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong nền sản xuất nông nghiệp thế giới. - Về năng suất: Nhìn chung trong những năm gần đây tương đối ổn định dao động nhẹ từ 14,3413- 14,4379 tấn/ha. - Về sản lượng: Từ năm 2004 trở lại đây tuy năng suất rau không tăng nhưng do diện tích tăng qua các năm nên sản lượng rau trên thế giới đã tăng rõ rệt, bình quân hàng năm tăng 6.307.889,4 tấn/năm. Điều đó chứng tỏ nghề trồng rau trên thế giới đang có xu hướng phát triển nhanh chóng, rau xanh trở thành nhu cầu thiết yếu và ngày càng tăng lên với đời sống của con người. Cây rau phân bố không đều giữa các nước và châu lục trên thế giới, qua tìm hiểu chúng tôi thu được kết quả sau thể hiện ở bảng sau: Bảng 2.2: Tình hình sản xuất rau ở một số khu vực trong năm 2007 Khu vực Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn) Thế giới 17.022.433 144,397 245.079.950 Châu Âu 675.040 167,677 11.318.921 Châu Á 13.719.615 155,018 212.678.906 Châu Mĩ 513.876 130,097 6.685.405 Châu Phi 2.077.157 66,732 1.386.148 Châu Úc 36.745 145,524 534.730 (Nguồn FAO, 2009) 7 Qua bảng số liệu trên ta thấy: Trong các châu, châu Á có diện tích trồng rau lớn nhất chiếm tới 80,54% (13.719.615 ha) diện tích rau của thế giới trong khi đó châu Úc chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ bằng 5,88% (36.745 ha) diện tích rau của thế giới. - Về năng suất: châu Âu là châu lục có năng suất rau cao nhất thế giới và cao hơn năng suất bình quân của thế giới đạt 167,677 tạ/ha. Đứng thứ hai là châu Á có năng suất bình quân lớn hơn thế giới là 10,621 tạ/ha (155,018 tạ/ha), tiếp theo là châu Úc và Châu Mĩ, thấp nhất là châu Phi có năng suất là 66,732 tạ/ha, thấp hơn năng suất trung bình của thế giới 2,16 lần. - Về sản lượng: Châu Úc có sản lượng rau thấp nhất đạt 534,730 và cao nhất là châu Á với sản lượng 212.678.906 tấn rau chiếm tới 85,47% sản lượng rau thế giới. Trong đó, riêng Trung Quốc có sản lượng rau đạt 147.212.000 tấn, cao hơn rất nhiều so với Mỹ, Nhật, Pháp, Thái Lan, Việt Nam và nhiều nước khác. Sau Trung Quốc là Ấn Độ có sản lượng rau đạt 29.117.400 tấn; Philippin đạt 4.500.000 tấn. Bên cạnh sự gia tăng về năng suất và sản lượng thì chất lượng rau cũng được nhiều nước trên thế giới quan tâm, nhiều công nghệ tiên tiến ra đời và việc kiểm soát dư lượng hóa chất tồn đọng trong rau ngày càng được thực hiện triệt để hơn (Faostat, 2009). 2.1.2. Tình hình sản xuất rau ở Việt nam Nước ta có lịch sử trồng rau từ lâu đời. Ngay từ đời vua Hùng, người ta đã phát hiện thấy bầu, bí được trồng trong vườn gia đình. Theo sổ sách ghi chép thì cây rau được nhập vào nước ta từ thế kỷ thử X. Thế kỷ thử XVIII, Lê Quý Đôn đã tổng kết các vùng phân bố rau trong cả nước. Vào giữa thế kỷ IXX, nhân dân ta đã biết trồng cải trắng và cải bẹ đông dư. Cuối thế kỷ IXX, nhân dân đã biết trồng rất nhiều loại rau có nguồn gốc từ Châu Âu như: cải bắp, su hào, súp lơ, cà rốt, hành tây,… Thế kỷ XX ở nước ta đã hình thành và phát triển các vùng chuyên canh. Mặc dù, nghề trồng rau ở nước ta ra đời từ 8 rất sớm, trước cả nghề trồng lúa nước nhưng sản xuất rau còn manh mún, các chủng loại rau còn nghèo nàn, diện tích và sản lượng thấp so với tiềm năng đất đai, khí hậu Việt Nam.(Tạ T. Thu Cúc, 2000) [3]. Theo Bùi Hoàn Hảo, Đào Thanh Vân, (2000) [6] cho đến nay chúng ta có khoảng 70 loài thực vật được sử dụng làm rau hoặc chế biến thành rau. Riêng rau trồng có hơn 30 loài trong đó có 15 loài là rau chủ lực. Trong số này có hơn 80% là rau ăn lá. Theo Trần Khắc Thi (2003) [11], năm 1995 cả nước có diện tích trồng rau là 368,5 ha, sản lượng là 4.145,56 triệu tấn. Nếu so với năm 1985 thì diện tích rau tăng 46,4%, bình quân mỗi năm tăng 10.000 ha. Diện tích trồng rau trong cả nước tính đến năm 2000 là 445.000 ha, tăng 261.090 ha, tăng khoảng 70% so với năm 1990. Bình quân hàng năm tăng 18,4% nghìn ha (mức trung bình 7%/năm). Trong đó, các tỉnh phía Bắc là 249.200 ha, chiếm 56%, còn các tỉnh phía Nam là 196.000 ha, chiếm 44% diện tích canh tác. Theo số liệu thống kê của FAO (2006), những năm gần đây, diện tích rau của ta ngày càng được mở rộng từ 494.500 ha năm 2001 lên 525.000 ha năm 2005, bình quân mỗi năm tăng 7.625 ha (mức tăng 1,5%/năm). Theo Phạm Thị Thùy (2006) [10], năng suất rau xanh ở nước ta còn thấp và bấp bênh. Năm 1998, năng suất cao nhất cũng chỉ đạt 144,8 tạ/ha bằng 80% so với mức trung bình của toàn thế giới (xấp xỉ 80 tạ/ha). Nếu so với năm 1990 là 123,5 tạ thì năng suất bình quân trong cả nước trong 10 năm cũng chỉ tăng 11,5 tạ/ha. Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Đà Lạt là các tỉnh có năng suất rau cao hơn cả nhưng cũng chỉ đạt năng suất bình quân ở mức 160 tạ/ha. Năng suất trung bình thấp nhất là ở các tỉnh miền trung, chỉ bằng một nửa so với năng suất trung bình cả nước. Theo số liệu thống kê, những năm gần đây năng suất tương đối ổn định, năm 2005 đạt 125,714 tạ/ha (Faostat, 2006). 9 Sản lượng rau có chiều hướng gia tăng, năm 2000 đạt hơn 6 triệu tấn, tăng 81% so với năm 1990, mức tăng sản lượng trung bình hằng năm đạt từ 1990 - 2000 là xấp xỉ 260.000 tấn (Trần Khắc Thi, 2003) [11]. Do diện tích tăng nhanh làm cho sản lượng rau ở nước ta tăng đáng kể, từ 5.632.100 tấn năm 2000 tăng lên 6.600.000 tấn năm 2005. Như vậy, chỉ trong 4 năm sản lượng rau tăng 967.900 tấn, chủ yếu từ hai vùng chuyên rau chuyên canh ven thành phố và vùng rau luân canh với cây lương thực (FAO, 2006). Đánh giá về thực trạng sản xuất rau ở nước ta trong thời gian qua, nhiều tác giả cho rằng: hiện nay sản lượng và năng suất rau ở nước ta còn thấp, qui mô còn phân tán, chất lượng không ổn định, phần lớn rau không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu tươi và chế biến công nghiệp. Mức tiêu thụ nội địa còn thấp, chỉ số bình quân đầu người đạt 60 - 65 kg/năm. Sở dĩ có những hạn chế đó là do, việc quản lý, thiếu cải tiến kỹ thuật, canh tác chủ yếu thiên về năng suất, chưa chú trọng đến chất lượng sản phẩm cho nên rau tươi Việt Nam chưa đảm bảo an toàn cho người sử dụng. Mặt khác, xuất khẩu rau còn quá ít, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém. Rau quả của ta tuy đa dạng và phong phú, nhưng sản xuất chưa gắn với thị trường, chất lượng thấp, bao bì mẫu mã chưa thích hợp, thị trường rau còn đơn điệu và nghèo nàn. Hiện nay Việt Nam có 40 nước là thị trường xuất khẩu rau nhưng chúng ta lại không đủ điều kiện, mới chỉ xuất khẩu được khoảng 1 - 2% sản lượng. rau nước ta không thể cạnh tranh được với thị trường Quốc tế mà ngay cả trong nước vì rau tươi của chúng ta đang bị các sản phẩm nhập khẩu lấn át (Cục chế biến nông lâm sản và ngành nghề nông thôn, 2000; Đường Hồng Dật, 1971; Đường Hồng Dật, 2002; Nguyễn Văn Miện, Nguyễn Trọng Hùng, Ngô Văn Công, 2001) [16]. 10 Thời gian qua, một số địa phương đã triển khai sản xuất rau an toàn, bước đầu đạt được một số thành tựu, điển hình là các thành phố như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Lạt. Tính đến năm 1999, diện tích trồng rau an toàn của cả nước đạt 1.082,5 ha, với sản lượng đạt khoảng 14.000 tấn/năm (Phạm Thị Thùy, 2005). Rau trồng chủng loại đa dạng và phong phú, đến nay đã có hơn 30 loại với 15 loại rau chủ lực. Trong số đó có hơn 80% là rau ăn lá (Mai Phương Anh, Trần Văn Lài, Trần Khắc Thi, 1996; Cục chế biến Nông lâm sản và ngành nghề nông thôn, 2000) [2]. 2.2. Giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế của cây rau 2.2.1. Giá trị dinh dưỡng của cây rau Rau là thực phẩm không thể thay thế được trong bữa ăn hàng ngày của con người, trong thức ăn hàng ngày cơ thể hấp thu nhiều nguồn dinh dưỡng từ các nguồn thức ăn như: thức ăn từ động vật (thịt, tôm, cá,…) cung cấp chủ yếu protein và lipit, thức ăn từ thực vật (lúa, ngô, khoai, sắn,rau,…) cung cấp chủ yếu các loại vitamin A, B, C, D, E các loại muối khoáng, chất xơ là những chất dinh dưỡng không thể thiếu được đối với các hoạt động sinh lý của cơ thể. Theo quan điểm của các nhà dinh dưỡng học, để đáp ứng cho sự bình thường mỗi người cần từ 250- 300g rau xanh/ngày trong khi đó thống kê của Việt Nam mới cung cấp được 60g/người/ngày (Trần Khắc Thi - 2003)[11], như vậy mới đáp ứng được 20 -30% nhu cầu về rau. Hiện nay, trong khẩu phần ăn của con người, rau xanh cung cấp khoảng 90-99% nguồn vitamin A, 60-70% vitamin B2 và gần 100% vitamin C. Vitamin đã giúp cho các hoạt động sinh lý trong cơ thể diễn ra một cách bình thường, mỗi loại vitamin có một chức năng khác nhau, nếu thiếu bất kỳ một loại vitamin nào sẽ gây rối loạn chức năng hoạt động sống của con người, ví dụ: nếu thiếu vitamin A sẽ bị bệnh quáng gà, hoặc mắt không có khả năng 11 thích nghi với ánh sáng mờ, nếu bị nặng sẽ phát triển thành bệnh Xeropthlmia làm hỏng thị lực. Thiếu vitamin B sẽ gây mệt mỏi, kém ăn, cơ thể tê phù. Thiếu vitamin C gây chảy máu chân răng, chân tay mệt mỏi, cơ thể suy nhược. Thiếu vitamin D làm cho trẻ chậm lớn, còi xương,… Như vậy, nếu thiếu các loại vitamin sẽ làm giảm sức dẻo dai, giảm hiệu suất làm việc, dễ phát sinh bệnh tật. Do đó, trong lao động, học tập và sinh hoạt hàng ngày, mỗi người phải cần một lượng vitamin nhất định (Bùi Bảo Hoàn & Đào Thanh Vân, 2000; Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội, 2000) [6]. Ngoài việc cung cấp vitamin rau còn cung cấp cho con người một lượng chất khoáng đáng kể như Ca, P, Na, K, Fe,…các chất này có nhiều tác dụng trong việc bồi bổ sức khoẻ, chống thiếu máu, tăng sự dẻo dai và sức chống đỡ bệnh tật. Các loại muối khoáng còn có tác dụng trung hoà độ chua do dạ dày tiết ra khi tiêu hoá thức ăn, làm tăng khả năng đồng hoá protein. Chất xơ trong rau giúp sự tiêu hoá được điều hoà, chống táo bón, giữ được cảm giác no. Ngoài ra chất xơ ảnh hưởng có lợi đến hàm lượng cholesterol trong máu, do vậy ảnh hưởng tốt đến huyết áp và tim, ngăn ngừa được sỏi mật và ung thư ruột. Số lượng chất xơ lớn có trong rau và với giá trị năng lượng thấp của nó sẽ có tác dụng ngăn ngừa bệnh béo phì (Trần Văn Lài, Lê Thị Hà, 2002) [7]. 2.2.2. Giá trị kinh tế của cây rau Ngoài giá trị dinh dưỡng rất cao rau xanh còn là một loại cây trồng mang lai hiệu quả kinh tế khá lớn cho người nông dân. Theo số liệu chính thức của tổng cục hải quan kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam tháng 6/2009 đạt 46,02 triệu USD tăng 30% so với tháng trước và tăng đến 73,8% so với tháng 6/2008. Tính chung 6 tháng đầu năm tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang các thị trường đạt 209.61 nghìn USD tăng 13,69% so với cùng kì năm 2008 (Tổng cục hải quan, 2009) 12 Rau là nguyên liệu của các ngành công nghiệp thực phẩm như: - Công nghiệp đồ hộp (dưa chuột, cà chua, ngô rau,…) - Công nghiệp bánh kẹo (bí xanh, cà rốt, khoai tây,…) - Công nghiệp sản xuất nước giải khát (cà chua, cà rốt,..) - Công ngiệp chế biến thuốc, dược liệu (tỏi, hành, rau gia vị,…) - Làm hương liệu (hạt mùi, ớt,…) Rau góp phần phát triển các ngành kinh tế khác như ngành chăn nuôi (rau là nguồn thức ăn cho ngành chăn nuôi). Rau là cây trồng quan trọng trong ngành trồng trọt, được trồng ở nhiều vùng sinh thái khác nhau với lợi thế là thời gian sinh trưởng ngắn và có thể trồng được nhiều vụ trong năm, do vậy rau được coi là cây trồng chủ lực trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xóa đói giảm nghèo cho nông dân Việt nam. Mặt khác, rau có đặc điểm là kích thước nhỏ nên cây rau rất thích hợp trồng xen hay gối vụ với những cây trồng khác, như vậy trồng rau sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng đất (Bùi Bảo Hoàn, Đào Thanh Vân, 2000) [6]. Trồng rau có hiệu quả hơn so với các cây trồng khác về khả năng khai thác năng suất/một đơn vị diện tích/một đơn vị thời gian, vì chúng có đặc điểm là sinh trưởng và phát triển nhanh trong một thời gian ngắn. Theo Cẩm nang trồng rau, cứ 1 ha khoai tây có thể cung cấp lượng calo nhiều hơn 1 - 1,5 lần so với 1 ha lúa hoặc lúa mì, năng suất đậu có thể lên tới 20 30 tấn/ha trong đó 5 - 6 tháng, chỉ trong 20 - 30 ngày năng suất rau dền và rau muống đạt tới 10 tấn/ha (Trần Văn Lài, Lê Thị Hà, 2002) [7]. Theo Tô Thị Thu Hà và Nguyễn Văn Hiền (2005)[4], tại vùng ven đô Hà Nội, thu nhập của việc trồng rau cao gấp 4 lần so với các cây lương thực, trong khi chi phí chỉ gấp 2 lần. Điều này dẫn tới lãi thuần của cây rau cao hơn 14 lần so với cây lương thực. 13 Cây rau đã góp phần cải thiện được đời sồng của người nông dân trong những năm gần đây, góp phần xoá đói giảm nghèo, điển hình: Ở Hưng Yên diện tích rau màu của huyện Yên Mỹ chỉ được trồng với diện tích nhỏ nhưng hiện nay cây rau đã trở thành cây trồng có giá trị kinh tế cao cho thu nhập 5 - 7 triệu đồng/sào. (website Hội nông dân Việt Nam). Xã Xuân Bắc (huyện Xuân Lộc) tỉnh Đồng Nai là một vùng thuần nông trước đây người dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nên đời sống hết sức khó khăn. Vài năm gần đây nhiều nông dân đã chuyển diện tích tròng lúa sang trông rau, đậu các loại năng suất 3,5 tấn/sào mang lai thu nhập cao hơn trồng lúa 6 - 7 lần. (Theo báo Đồng Nai, 14/2/2008). Người dân xóm 7 xã Yên Khánh (Ninh Bình) đã thành công trong phát triển rau trái vụ với gần 100 hộ tham gia, bình quân các hộ trong xã đều đạt thu nhập từ 20 - 30 triệu đồng nhờ trồng rau trái vụ.(Báo Ninh Bình điện tử năm 2009). Như vậy so với các cây trồng khác cây rau là cây có giá tri kinh tế cao, cho thu nhập vượt trội hơn so với lúa và một số loại cây trồng khác, điều này đã được thực tiễn chứng minh và công nhận. 2.3. Thực trạng sản xuất rau tại Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng 2.3.1. Thực trạng sản xuất rau tại Việt Nam Ở nước ta do cấu trúc địa hình phức tạp nằm trong vùng nhiệt đới có gió mùa, ngoài hai đồng bằng chính là Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long còn lại đại bộ phận chiếm 2/3 là đồi núi gây nên nhiều vùng khí hậu khác nhau từ đó gây ra không ít khó khăn cho việc sản xuất rau ở nước ta. Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều điều kiện tót cho sâu bệnh phát triển và diển biến hết sức phức tạp. Mặt khác người dân thì chạy theo lợi nhuận nên một số loại rau trong quá trình sản xuất để loại trừ sâu bệnh hại, người sản 14 xuất đã sử dụng bừa bãi các loại thuốc BVTV gây hiện tượng nhờn thuốc, dẫn đến việc bệnh phát triển ngày càng mạnh hơn… Sản xuất rau ở nước ta còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thường xuyên xảy ra bão lụt thiên tai, gây nhiều rủi ro cho người sản xuất. Môi trường sống bị ô nhiễm, hệ sinh thái mất cân bằng đặc biệt là nguồn nước sinh hoạt của con người bị nhiễm độc sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người và các thế hệ trong tương lai. Mặc dù nghề trồng rau trong những năm vừa qua có những bước tiến đáng kể, nhưng mới tập trung ở khu vực chuyên canh ven thành phố, lượng hạt giống mới nhập về còn hạn chế chưa có một nền sản xuất lớn tập trung chưa đáp ứng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Do đó năng suất rau còn thấp, giá thành lại cao, chưa coi trọng quản lý kỹ thuật canh tác chủ yếu tập chung vào năng xuất chưa chú trọng đến chất lượng sản phẩm do đó rau tươi ở Việt Nam chưa đảm bảo an toàn cho người sử dụng dẫn đến hạn chế rất nhiều cho xuất khẩu. * Phương hướng khắc phục Để đảm bảo có rau sạch cung cấp cho thị trường, an toàn cho người sử dụng, môi trường sống và vật nuôi không bị ảnh hưởng thì đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải tìm ra các biện pháp kỹ thuật mới có thể đáp ứng nhu cầu sản xuất rau sạch. Vì thế hiện nay vấn đề về rau sạch được những người nghiên cứu người sản xuất, và đông đảo người tiêu dùng quan tâm nhiều hơn. Như trồng rau trong nhà lưới, phương pháp luân canh, thủy canh, chon và tạo giống rau chế biến rau trái vụ bước đầu các công nghệ sản xuất rau sạch (có hàm lượng nitrat dư lượng thuốc hóa học, kim loại nặng và sinh vật dưới ngưỡng cho phép), tập trung phát triển các giống tốt cho sản xuất. Do đó để hạn chế và khắc phục những nhược điểm khi dùng thuốc hóa học, xu hướng chung hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta nhiều tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu các loại ký sinh thiên địch, các loại thuốc có nguồn gốc thảo mộc, 15 đặc biệt chú trọng đến các chế phẩm sinh học có nguồn gốc từ vi sinh vật, côn trùng như các chế phẩm Bt, vius và nấm ký sinh các loại côn trùng gây hại, bởi các chế phẩm trên không độc hại đối với người và gia súc giảm bớt hoặc giảm hoàn toàn thuốc hóa học giữ được quần thể sâu hại phát triển, sau hại ở mức thấp nhất tránh bộc phát thành dịch, bảo vệ các côn trùng có ích và các vi sinh vật có ích… Bảo vệ được sức khỏe con người góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, lấy lại sự cân bằng trong hệ sinh thái. 2.3.2. Thực trạng sản xuất rau tại Thái Nguyên giai đoạn từ 2006 - 2010 Theo thống kê của cục thống kê Thái Nguyên từ năm 2006 - 2010, diện tích gieo trồng và sản lượng rau được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.3. Diện tích, sản lượng rau ở một số địa phương trong tỉnh. Diện tích (ha) Địa điểm Sản lượng (tấn) 2006 2007 2008 2009 2010 2006 2007 2008 2009 2010 Toàn tỉnh 7176 7982 8047 7724 8920 8523 99879 116745 117798 139635 TP Thái Nguyên 801 782 709 776 815 14774 14567 12492 13745 15382 Sông Công 276 300 349 381 421 2779 3147 4603 5455 6133 Định Hóa 664 684 725 651 778 5913 6059 8140 8983 10497 Võ Nhai 324 348 333 426 324 2667 3145 4175 5436 4448 Phú Lương 536 529 521 392 290 5952 5460 6520 4656 3718 Đồng Hỷ 1013 1211 1270 1055 1071 14758 18160 21908 18359 19469 Đại Từ 1002 1460 1572 1699 2417 10318 17470 22548 25158 36182 Phú Bình 1185 1220 1231 1178 1381 10931 13585 17010 17477 21326 Phổ Yên 1375 1448 1337 1166 1423 17140 18286 19349 18460 22480 (Nguồn: Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên tháng 3/2011) Qua bảng 2.3 cho thấy từ năm 2006 đến nay (năm 2010) tình hình sản xuất rau ở Thái Nguyên đã tăng theo hướng sản xuất hàng hóa. Nhìn chung toàn tỉnh về cả diện tích và sản lượng rau đều tăng lên, cụ thể vào năm 2006 diện tích rau toàn tỉnh là 7.176 ha cho đến năm 2010 diện tích đạt 8.920 ha tăng 1,24 lần so với năm 2006. Về sản lượng năm 2006 đạt 8.523 tấn nhưng 16 đến năm 2010 sản lượng đã đạt tới 139.635 tấn tăng 1,36 lần so với năm 2006. Tuy nhiên diện tích trồng rau ở các huyện còn có sự chênh lệch khá rõ ràng như ở huyện Đại Từ vào năm 2010 là vùng có diện tích trồng rau lớn nhất là 2.417 ha gấp 8,33 lấn so với huyện trồng rau ít nhất là huyện Phú Lương chỉ đạt 290 ha (2010). Riêng về huyện Đồng Hỷ đây cũng là một vùng trồng rau lớn của tỉnh. Diện tích trồng rau của huyện đứng thứ 4 trong tỉnh (2010) chiếm 12% so với diện tích trồng rau toàn tỉnh. Tuy nhiên diện tích trồng rau của huyện qua các năm lại có xu hướng giảm xuống cụ thể năm 2008 diện tích trồng rau của huyện là 1270 ha nhưng đến năm 2010 diện tích chỉ còn 1.071 ha. Sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất rau nói riêng chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện thời tiết khí hậu, những biến động bất thường của tự nhiên như nhiệt độ xuống quá thấp vào mùa đông, khô hạn kéo dài… làm ảnh hưởng sấu tới sản xuất rau. Thêm vào đó là sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng của địa phương, sử dụng đất nông nghiệp vào các mục đích khác làm cho diện tích trồng rau giảm. Tuy diện tích rau có giảm nhưng tổng sản lượng rau của huyện vẫn tương đối ổn định. Có được điều đó là do sự đầu tư của người dân trong quá trình chăm sóc, sử dụng những giống rau có năng suất cao… Về sản lượng rau của huyện năm 2010 đạt 19.469 tấn đứng thứ 4 trong toàn tỉnh và chiếm 14% so với tổng sản lượng rau của toàn tỉnh. Từ đó có thể khẳng định rằng Đồng Hỷ là một huyện có đủ điều kiện sản xuất rau, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của huyện và một phần tỉnh Thái Nguyên. Điều đó cho thấy sản xuất rau chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của huyện nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Về năng suất và sản lượng của một số loại rau chính ở Thái Nguyên được thể hiện qua bảng 2.4: 17 Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lượng của một số loại rau chính của tỉnh Thái Nguyên qua các năm. Năm Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 2.231 2.482 2.502 2.394 2.790 1.040 1.157 1.172 1.125 1.290 958 1.066 1.054 1.012 1.194 124,29 131,63 152,62 160,34 164,42 Năng suất Bắp cải 133,87 141,78 164,38 172,70 177,09 Su hào 43,22 151,68 175,86 184,76 189,46 Rau muống 27.728 33.666 38.182 38.386 45.873 Sản lượng Bắp cải 13.922 16.401 19.266 19.428 22.845 Su hào 13.720 16.163 8.536 18.692 22.622 Tên rau Rau muống Diện tích Bắp cải Su hào Rau muống (Nguồn: Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên tháng 3/2011) Qua bảng 2.4 cho thấy diện tích trồng rau của tỉnh tuy không nhỏ nhưng do chưa tập trung, chưa có sự đầu tư lớn, các chủng loại rau chưa có sự đa dạng mới chỉ sản xuất ở một số loại rau phổ biến như rau muống, bắp cải, su hào. Vì vậy, hiệu quả kinh tế còn chưa cao. Tùy vào mùa vụ mà diện tích của các loại rau thay đổi, các loại rau chủ yếu trong vụ đông xuân là su hào, bắp cải trong đó diện tích trồng bắp cải là lớn nhất và tăng dần qua các năm cụ thể: ở năm 2006 diện tích bắp cải là 1.040 ha gấp 1,1 lần so với su hào 958 ha, đến năm 2010 diện tích rau bắp cải tăng lên 1.290 ha gấp 1,2 lần so với năm 2006. Về sản lượng rau bắp cải vẫn là loại rau có sản lượng lớn nhất trong vụ này cụ thể là năm 2010 sản lượng rau bắp cải là 22.845 tấn còn su hào đạt 22.622 tấn. Qua các năm cùng với sự tăng lên về diện tích và nhận thấy sự quan trọng của cây bắp cải trong vụ Đông Xuân, cùng với kinh nghiệm và kiến 18 thức trồng rau của người dân ngày càng cao nên sản lượng rau bắp cải và một số loại rau khác đều được nâng cao. Từ đó cho thấy rau bắp cải là loại rau chủ lực và được trồng chủ yếu trong vụ này. 2.4. Tình hình nghiên cứu về các loại thực vật nói chung và cây xoan Neem nói riêng trong phòng trừ sâu hại trên thế giới và Việt Nam 2.4.1. Tình hình nghiên cứu về các loại thực vật trong phòng trừ sâu hại Từ xa xưa, trong quá trình phát triển con người đã biết khai thác, sử dụng những cây hoang dại có tính độc để săn bắn, duốc cá. Dần dần, con người còn biết dùng những cây dại để trừ chấy rận, rệp, bọ hại người và gia súc. Từ 300 năm trước công nguyên, khi học giả Theopharastus nhận thấy, cấy đậu Chikpea gây ức chế cây trồng thông qua việc tiết vào đất vào mottj chất nào đó. Nhiều năm sau Pliny II và các nhà khoa học Culpeper, Young và De Candol (thế kỷ I sau công nguyên) cũng đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên đó chỉ là những nhận xét trực quan chứ không phải là những thí nghiệm so sánh (Rice, 1984). Vào đầu thế kỷ XIX, nhà phân loại thực vật nổi tiếng De Candole đã gây được sự chú ý, khi ông quan sát thấy các chất tiết ra từ rễ của một loại cây đã gây ra được hiện tượng “đất ốm ” và điều này có thể khắc phục được nếu có chế độ luân canh thích hợp (De Candone, 1832). Sự quan sát của ông mới chỉ dựa trên các thí nghiệm đơn giản. Vì thế, giả thiết của ông đã bị nhiều học giả bác bỏ. Vào đầu thế kỷ XX, vấn đề này lại được quan tâm và xới xáo lên bởi các nghiên cứu của Schreiner & các cộng sự ở Mỹ (Schreiner & Reed, 1907, 1908) và Pickering cùng các cộng sự ở Anh (Willis, 1997). Từ năm 1960 đến nay, những nghiên cứu về những loại thực vật có khả năng phòng trừ dịch hại cây trồng đã thực sự thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp và những nghiên cứu này đã 19 được tiến hành trong phòng thí nghiệm, nhà kính, đồng ruộng và từ đó người ta đã bắt đầu khai thác các hợp chất độc thiên nhiên để diệt trừ sâu hại, bảo vệ mùa màng. Trong đó, ba hợp chất nicotine, rotenone và pyrethrin là ba loại thuốc trừ sâu điển hình phổ biến nhất thế giới từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XX. Hàng năm, có hàng ngàn, thậm trí hàng chục ngàn tấn được khai thác. Đồng thời với 3 loại thuốc chủ yếu trên, nhiều loài cây độc khác cũng được chú ý nghiên cứu và khai thác. Đặc biệt, từ khi thuốc hóa học đã bộc lộ những mặt tiêu cực của nó, người ta đã chú ý tới thuốc thảo mộc và các loại thuốc sinh học khác. Nhiều nước đã liên tiếp công bố các loài cây độc có khả năng trừ sâu hại ở nước mình. Điển hình là công trình đồ sộ của Grainge et.al. (1984) và Jacobson (1990) đã giới thiệu hàng ngàn cây độc có khả năng trừ sâu, bệnh hại cây trồng và cơ chế tác động của nó. Từ năm 1970 trở lại đây, thế giới chú ý tới cây neem - một loại Xoan Ấn Độ có khả năng trừ sâu lý tưởng và đã có nhiều hội nghị Quốc Tế tổng kết, trao đổi, giới thiệu và xu hướng sử dụng cây neem làm thuốc trừ sâu thảo mộc. Những hiểu biết về những loài thực vật có khả năng phòng trừ dịch hại cây trồng được tích lũy nhiều hơn và có chế tác động của những loài thực vật đó đã dần dần được làm sáng tỏ. Rất nhiều nghiên cứu được tập trung vào việc sử dụng những loài thực vật đó để trừ cỏ, trừ sâu và bệnh hại cây trồng. Ngày nay, cùng với sự phát triển của kỹ thuật phân tích như: Nguyên tử đánh dấu sắc khí, quang phổ… thì việc nghiên cứu xác định, chọn lựa những loài cây trồng có khả năng phòng trừ dịch hại cây trồng ngày càng được quan tâm một cách có hiệu quả. Những nghiên cứu này đã và đang tạo tiền đề cho việc phân lập, chiết xuất và sản xuất các thuốc thảo mộc để phòng trừ dịch hại cấy trồng nhằm góp phần vào việc ứng dụng bảo về cây trồng theo hướng bền vững để đáp ứng nông sản thực phẩm an toàn cho cuộc sống chung của con người. 20 Ở Việt Nam, ngay từ năm 1960 Lê Trường và cộng sự đã đề cập đến hiệu lực trừ sâu của một số cây độc chính ở dạng đơn giản, nhưng ngay sau đó thuốc trừ sâu hóa học tràn vào, thuốc thảo mộc bị quyên dần. Cho đến năm 1980, thuốc thảo mộc lại được đề cập đến. trong các loài thực vật được nghiên cứu, cây ruốc cá được nghiên cứu đầy đủ nhất. Lúc đó, cây ruốc cá được dùng nhiều để trừ cá dữ ở những vùng nuôi tôm cá. Tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn trong việc chế biến bảo quản sản phẩm vì sản phẩm rotenone mất hiệu lực nhanh. (Trần Quang Hùng và CS, 1985; Lê Trường, 1987; Nguyễn Quốc Tuấn & Nguyễn Xuân Dũng, 1994) [15]. Sau đó nhiều tác giả đề cập đến khía cạnh khác nhau của thuốc thảo mộc như: Thí nghiệm thăm dò tính độc của cây đối với sâu hại của Bùi Văn Ngạc (1979); Đinh Xuân Hưởng và các (1987); Trần Minh Tâm (1992); Trương Thị Ngọc Chi (1992); Vũ Quang Côn và cs (1993 - 1994). Giới thiệu kinh nghiệm dân gian (Dương Minh Tú, 1985; Nguyễn Xuân Dũng, 1993). Từ năm 2001 đến nay cả nước mới có thêm nhiều luận án tiến sỹ làm về vấn đề này nhưng chủ yếu là nghiên cứu ở nước ngoài (Trần Đăng Xuân, Trần Hữu Hồng, Đỗ Ngọc Oanh của trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Nguyễn Văn Chín của Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long, Nguyễn Thị Me, Nguyễn Trường Thành, Nguyễn Hồng Vân của Viện Bảo vệ thực vật…) Những kết quả nghiên cứu trên đều thống nhất đánh giá về sự cần thiết trong nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu về những loài thực vật có khả năng phòng trừ địch hại nói chung và trong lĩnh vực bảo vệ thực vật, y dược và bảo quản… nói riêng. Từ năm 2004 - 2006 TS.Phan Phước Hiền - Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh đã chủ trì thực hiện đề tài “ Nghiên cứu chiết xuất và sử dụng các hoạt chất thứ cấp từ một số cây của Việt Nam phục vụ sản xuất nông nghiệp, thực phẩm và y dược”. Đề tài đã khảo sát thu thập, nghiên cứu đặc điểm sinh hóa của cây Dewis trifoliata, Hibercus sabda. Đồng thời ngâm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan