VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG
LOẠT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỤ TINH NHÂN TẠO NHẰM
TĂNG NĂNG SUẤT ĐÀN BÒ TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN
CNĐT : LÊ VĂN TY
8149
HÀ NỘI – 2010
MỤC LỤC
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................... 3
MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI .................................................................................. 7
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU................................................................... 8
1.
TẠI SAO NÊN PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI BÒ Ở ĐIÊN BIÊN............... 9
2.
TÍNH PHÙ HỢP CỦA ĐỀ TÀI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
XÃ HỘI CỦA TỈNH ĐIỆN BIÊN............................................................. 10
3.
TẠI SAO PHẢI ÁP DỤNG GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG LOẠT VÀ THỤ
TINH NHÂN TẠO ĐỂ CẢI TẠO ĐÀN BÒ ĐIỆN BIÊN ........................ 13
4.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA VIỆC GÂY ĐỘNG ĐỘNG LOẠT CHO BÒ ĐỂ
THỤ TINH NHÂN TẠO........................................................................... 14
5.
CƠ SỞ THỰC NGHIỆM CỦA VIỆC GÂY ĐỘNG DỤC VÀ RỤNG
TRỨNG ĐỒNG LOẠT ĐỒNG LOẠT VÀ THỤ TINH NHÂN TẠO Ở BÒ30
6.
HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG LOẠT VÀ THỤ
TINH NHÂN TẠO.................................................................................... 35
7.
HIỆN TRẠNG NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI CÁC KỸ THUẬT GÂY
ĐỘNG DỤC CHO BÒ TẠI VIỆT NAM................................................... 35
8.
ĐỀ TÀI LÀM GÌ VÀ CÓ KHẢ NĂNG ĐÓNG GÓP ĐƯỢC GÌ.............. 37
PHẦN III. CÁC NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ................................................. 39
NỘI DUNG I. ĐIỀU TRA HIỆN TRẠNG SINH SẢN ĐÀN BÒ ĐIỆN BIÊN40
1.
Đặt vấn đề ............................................................................................. 40
2.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................... 40
3.
Kết quả .................................................................................................. 41
4.
Thảo luận............................................................................................... 46
5.
Tiểu kết .................................................................................................. 48
6.
Kiến nghị đối với nội dung này ............................................................. 48
NỘI DUNG II. ĐÀO TẠO VÀ TẬP HUẤN KỸ THUẬT SINH SẢN ............ 49
LỚP ĐÀO TẠO ............................................................................................. 49
1.
Đăt vấn đề ............................................................................................. 49
2.
Phương thức tiến hành .......................................................................... 50
3.
Các kết quả............................................................................................ 55
LỚP TẬP HUẤN........................................................................................... 58
1.
Mục đích ................................................................................................ 58
2.
Cách tiến hành....................................................................................... 58
3.
Các kết quả............................................................................................ 59
4.
Tiểu kết:................................................................................................. 61
5.
Việc làm trong thời gian tới: ................................................................. 61
NỘI DUNG III. THỬ NGHIỆM 04 QUY TRÌNH GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG
LOẠT VÀ THỤ TINH NHÂN TẠO CHO ĐÀN BÒ ĐIỆN BIÊN........... 63
1.
Đặt vấn đề ............................................................................................. 63
2.
Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 64
3.
Kết quả ................................................................................................ 667
4.
Thảo luận............................................................................................... 75
5.
Tiểu kết .................................................................................................. 80
NỘI DUNG IV. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG QUY TRÌNH THỤ TINH CHO
BÒ VỚI TINH ĐÔNG LẠNH CỌNG RẠ TẠI ĐIỆN BIÊN.................... 82
1.
Đặt vấn đề ............................................................................................. 82
2.
Vật liệu và phương pháp sử dụng ......................................................... 83
3.
Các kết quả và thảo luận....................................................................... 83
4.
Tiểu kết .................................................................................................. 87
NỘI DUNG V. ỨNG DỤNG QUY TRÌNH KỸ THUẬT CHĂM SÓC BÒ CÓ
CHỬA VÀ BÊ LAI ................................................................................... 88
1.
Đặt vấn đề ............................................................................................. 88
2.
Cách tiến hành....................................................................................... 88
3.
Các kết quả............................................................................................ 88
4.
Tiểu kết .................................................................................................. 92
PHẦN IV. BÀN LUẬN CHUNG VÀ KẾT LUẬN ......................................... 94
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 98
KIẾN NGHỊ.................................................................................................... 100
PHẦN V. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 101
A. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT ................................................ 102
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG NƯỚC NGOÀI
102
PHẦN VI. PHỤ LỤC....................................................................................... 115
2
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
3
Chăn nuôi trâu bò kết hợp với vườn rừng và canh tác nông nghiệp đã từ
lâu hình thành nét đặc trưng trong đời sống của đồng bào các dân tộc tỉnh
Điện Biên. Chăn nuôi trâu bò không chỉ là một lợi thế còn là công cụ để xóa
đói giảm nghèo, tăng tích lũy cho người dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc
ít người. Trong kế hoạch phát triển của Điện Biên, chăn nuôi lớn thâm canh
chắc chắn sẽ là một định hướng quan trọng. Tuy nhiên ở một mức độ phát
triển như hiện nay của Điện Biên, chăn nuôi trâu bò hộ gia đình ở một quy mô
vừa phải sẽ là định hướng trong vòng 10-20 năm tới. Quy mô chăn nuôi này
vừa đảm bảo tận dụng được nguồn thức ăn tại chỗ, các phụ phẩm của canh tác
nông nghiệp, trồng rừng, lại là một kiểu tiểu-ngân-hàng giúp cho người nông
dân tích lũy và sinh lời đồng vốn của mình. Do bò là động vật nuôi lâu năm,
kiểu tích lũy này còn tránh được các biến động như suy thoái kinh tế hoặc lạm
phát.
Trong những năm gần đây, đàn bò tỉnh Điện Biên đã phát triển khá
nhanh từ 27.633 con (năm 2005) đã lên tới 32.198 con (năm 2007). Tuy nhiên
do phương thức chăn thả tự do nên tình trạng đồng huyết của đàn bò gia tăng,
một mặt làm suy giảm khối lượng của bò, mặt khác làm giảm tính thích nghi
do tích tụ các gen bất lợi. Như vậy, để tránh được các yếu tố trên và cải thiện
năng suất đàn bò, thực sự đưa việc chăn nuôi bò mang lại lợi nhuận cho người
dân thì việc cải tạo con giống là một trong những vấn đề cần giải quyết. Trên
một nền chăn nuôi bò nhỏ lẻ, mang tính tận dụng, đưa ngay đàn bò thuần có
năng suất cao vào Điện Biên trong giai đoạn này là một thách thức. Tuy nhiên
cải tạo giống bò địa phương bằng phương pháp lai tạo, tận dụng được ưu thế
về năng suất chất lượng của bò lai và tính thích nghi của bò nội sẽ là đáp án
hợp lý cho phát triển đàn bò.
Thụ tinh với tinh bò zê-bu chẳng những duy trì được đặc tính thích nghi
hiện có của đàn bò địa phương mà còn giúp phục tráng, nâng cao năng suất,
4
cải thiện chất lượng thịt bò. Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo đã được bà con các dân
tộc trong tỉnh đón nhận. Tuy nhiên do địa hình phân cắt, mạng lưới dẫn tinh
viên mỏng, bò lại động dục quanh năm, việc lưu giữ tinh đông lạnh trở nên
tốn kém do thời gian bảo quản kéo dài. Nguồn nhân lực và vật tư cho kỹ thuật
tập trung chủ yếu ở thành phố Điện Biên Phủ, còn ở các huyện và các xã là rất
ít, nên việc áp dụng thụ tinh nhân tạo hiện tại còn rất hạn chế.
Nghiên cứu chủ động gây động dục cho bò cái đã được tiến hành từ khá
lâu, ngay cả khi chưa phát hiện được tồn tại các sóng phát triển nang trong
mỗi chu kỳ sinh dục ở bò. Đến khi Ginther và CS (1989) sử dụng máy quét
siêu âm buồng trứng hàng ngày ở bò, chứng minh tồn tại 2 đến 3 sóng phát
triển nang trong mỗi chu kỳ và suy ra khoảng thời gian 3-4 ngày sau khi rụng
trứng, trong buồng trứng của bò cái chu kỳ có ít nhất một nang trứng có kích
thước phát triển >10mm sẵn sàng đáp ứng cho kích thích rụng trứng [32], thì
chủ động gây động dục cho bò để thụ tinh trở nên một kỹ thuật phổ biến để
quản lý sinh sản của đàn bò.
Kích thích rụng trứng từ các nang ở sóng nang đầu tiên, Kastelic và
Ginther (1991) đã cho thấy nếu được thụ tinh trứng phát triển thành phôi và
bò cái mang thai giống như trứng rụng cuối chu kỳ [46]. Twagiramungu và
CS, (1994) còn chứng minh rằng thể vàng hình thành do kích thích rụng trứng
ở bò không khác gì các thể vàng hình thành do động dục và rụng trứng tự
nhiên [128]. Các công trình của Purley và CS, (1997) trên bò sữa [82], Short
và CS, (1990) trên bò thịt [108] cho thấy áp dụng gây động dục đồng loạt có
thể cho tỷ lệ đậu thai từ 50-70% số bò xử lý, tiết kiệm chi phí và đặc biệt
giảm nhẹ được công sức theo dõi phát hiện động dục bỏi đàn bò động dục và
rụng trứng rải rắc quanh năm.
Cơ sở lý thuyết và thực nghiệm nêu trên cho phép chủ động gây động
dục và rụng trứng ở bò, làm cho một nhóm bò hay cả đàn bò cái cùng động
5
dục và rụng trứng vào một khoảng ngắn thời gian, động dục rụng trứng đồng
loạt, cho phép dẫn tinh đồng loạt cho bò. Điều này được ứng dụng trong thực
tế chăn nuôi bò làm giảm công theo dõi phát hiện động dục mỗi cá thể bò
cũng như chủ động quản lý đàn, chủ động thời điểm cho bò sinh con cũng
như rút ngắn được khoảng cách giữa hai lứa đẻ, nâng cao hiệu quả chăn nuôi
bò.
Ở nước ta, gây động dục đồng loạt mới chỉ được ứng dụng rất hạn chế
trong các ứng dụng cấy chuyển phôi bò (Bùi Xuân Nguyên và CS, 1990) [5]
và đối với đàn bò sữa (Lê Văn Ty và CS, 2006) [6]. Đối với tỉnh Điện Biên,
chủ động gây động dục đồng loạt cho bò chẳng những có thể rút ngắn được
khoảng cách giữa hai lứa đẻ mà còn hữu ích trong công tác cải tạo giống tại
đây khi mà tạo ra đàn lai zê-bu đang là một vấn đề chủ đạo để nâng cao năng
suất đàn bò của tỉnh.
Theo quyết định số 397/QĐ-UBND, ký ngày 20/04/2007 phê duyệt dự
án quy hoạch phát triển đàn trâu bò theo hướng sản xuất hàng hóa bền vững
giai đoạn 2006-2015 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Điện Biên thì đến 2015 toàn
tỉnh sẽ có 72.000 bò, trong đó 60% là bò lai. Căn cứ vào tình hình biến động
của đàn bò hiện có từ 2005 đến 2009 (Bảng 2), cùng với những cố gắng trong
việc nâng cao hiệu quả của công tác thú y, phòng bệnh và chính sách khuyến
khích chăn nuôi bò hộ gia đình, chỉ tiêu về mặt số lượng hoàn toàn có thể đạt
được. Tuy nhiên chỉ tiêu 60% bê lai là một thách thức, và nếu không đạt được
mức này thì mặc dù đạt tiêu chí về số lượng nhưng chất lượng đàn sẽ rất thấp
với lý do là trong suốt thời gian của kế hoạch đàn bò sẽ tự giao phối, khả năng
đồng huyết gia tăng làm cho đàn bò về tổng thể không những giảm chất lượng
mà còn giảm cả tính thích nghi.
Đề tài Nghiªn cøu øng dông kü thuËt g©y ®éng dôc ®ång lo¹t, n©ng
cao hiÖu qu¶ thô tinh nh©n t¹o nh»m t¨ng n¨ng suÊt ®µn bß t¹i tØnh §iÖn
6
Biªn, đưa ra một cách làm giải quyết được các nhu cầu tạo bò lai trước mắt,
cải tạo giống bò cho Điện Biên và chuẩn bị dần nguồn nhân lực tại chỗ cho
phát triển lâu dài. Phương thức tiến hành là dùng nguồn nhân lực gồm các
chuyên gia của Viện Công nghệ sinh học, Viện Chăn nuôi Quốc gia, kết hợp
với nguồn nhân lực của địa phương (đã đào tạo, hoặc đào tạo mới) chủ động
gây động và dẫn tinh cho đàn bò theo hình thức “cuốn chiếu”, từng xã hoặc
từng cụm xã một. Vì chủ động gây động dục nên chỉ cần bảo quản tinh trùng
đông lạnh trong một thời gian ngắn. Trong quá trình làm, kết hợp đào tạo cán
bộ tại chỗ với phương thức “cầm tay chỉ việc”. Như vậy chỉ trong khoảng 3-5
năm số bò lai sẽ có mặt áp đảo so với số bò còn lại ở các địa phương. Mở
rộng phương thức này ra toàn tỉnh, duy trì công thức lai trong vòng 5 năm thì
việc cải tiến năng suất đàn bò tỉnh Điện Biên và chỉ tiêu 60% bò lai vào năm
2015 là hoàn toàn hiện thực.
MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
• Xây dựng quy trình gây động dục và rụng trứng đồng loạt cho đàn bò Điện Biên .
Xây dựng mô hình ứng dụng cải tạo đàn bò bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo
kết hợp với gây động dục và rụng trứng đồng loạt tại Điện Biên.
Báo cáo này bao gồm 6 phần: phần I. Đặt vấn đề, giới thiệu về kỹ thuật và
khả năng ứng dụng; phần II. Tổng quan tài liệu, trình bày ngắn gọn về Cơ sở lý
thuyết và Cơ sở thực nghiệm của kỹ thuật, tính khả thi, tính phù hợp và cần thiết để
cải tạo đàn bò tỉnh Điện Biên; phần III. Các nội dung, bao gồm 5 nội dung đã
đăng ký: 1) Điều tra hiện trạng sinh sản đàn bò Điện Biên, 2) Đào tạo kỹ thuật gây
động dục và thụ tinh nhân tạo, 3) Thử nghiệm 04 quy trình gây động dục và thụ tinh
nhân tạo cho đàn bò Điện Biên, 4) Nghiên cứu ứng dụng quy trình thụ tinh nhân tạo
với tinh đông lạnh cọng rạ tại Điện Biên và 5) Ứng dụng quy trình chăm sóc bò có
chửa và bê lai; phần IV. Thảo luận chung, Kết luận và Kiến nghị, phần V. Tài
liệu tham khảo tiếng Việt, tiếng nước ngoài và phần VI. Phụ lục trình bày ảnh tư
liệu về các hoạt động của đề tài.
7
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
VỀ TÍNH CẤP THIẾT VÀ KHẢ THI CỦA ĐỀ TÀI
8
1.
TẠI SAO NÊN PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI BÒ Ở ĐIÊN BIÊN
Phát triển nền nông nghiệp bền vững là điểm tựa cơ bản của nền kinh tế
nước ta. Mỗi một địa phương trồng cây gì, nuôi con gì để mang lại hiệu quả
kinh tế cao luôn luôn là một câu hỏi đặt ra cho các nhà quản lý. Những bài
học từ thành công cũng như thất bại các mô hình phát triển cây, con từ khi
phổ biến nền kinh tế hàng hóa cho đến nay cho thấy: xuất phát từ nền tảng các
cây con sẵn có của từng vùng, từng địa phương, đưa khoa học kỹ thuật để
nâng cao năng suất chất lượng, làm thương hiệu và thương mại sản phẩm là
con đường tối ưu.
Chăn nuôi bò ở Điện Biên nói riêng và vùng Tây Bắc nói chung liệu có
phải là một lợi thế? Đúng vậy, bởi vì từ năm 2000 đến nay, giá thịt bò mặc dù
có nhiều biến động nhưng chưa khi nào giảm. Thịt bò tươi sản xuất trong
nước vẫn gần như độc chiếm thị trường. Đô thị mở rộng nhu cầu thịt bò, đặc
biệt là thịt bò tươi ngày một tăng. Thịt bò trên thị trường đa dạng về chủng
loại nhưng chưa có thương hiệu để khẳng định về chất lượng. Nếu có một loại
thịt bò chất lượng tốt, sản xuất tại Điện Biên có thương hiệu “thịt bò Điện
Biên”, giá cạnh tranh thì người tiêu dùng sẽ đón nhận. Giống như “gạo tám
Điện Biên”, “sữa bò Ba Vì”, “Cà fê Đắc Lắc”, .. chất lượng của sản phẩm
được gắn với thổ ngơi của từng vùng. Nếu gạo tám Điện Biên đặc biệt hơn
các nơi khác do biến động nhiệt độ chu kỳ ngày đêm cũng như các đặc điểm
về thổ nhưỡng thì các ảnh hưởng này cũng có thể làm nên thương hiệu “thịt
bò Điện Biên”
Chăn nuôi bò là nghề nuôi đã có từ lâu đời ở nước ta nói chung và ở
Điện Biên nói riêng. Nếu biết kết hợp tính truyền thống này với các kỹ thuật
và nguồn gen mới có thể thay đổi dần diện mạo của việc chăn nuôi theo
hướng thâm canh, nâng cao năng suất chất lượng, đáp ứng nhu cầu thịt bò
tươi ngày một tăng trong nước và xuất khẩu.
9
Thêm vào đó nuôi bò ở Điện Biên còn tận dụng lợi thế của vùng đất đồi
rộng lớn chưa khai thác cũng như vị trí gần các cửa khẩu đi Lào, đi Trung
Quốc, tiện lợi cho việc xuất khẩu bò, thịt bò, các sản phẩm từ thịt bò.
Điện Biên so với những địa phương khác của Viêt Nam, lợi thế đặc biệt
là còn nhiều diện tích rừng hoặc đất hoang để trồng rừng, nuôi bò, nuôi trâu là
một mắt xích trong các hoạt động canh tác nông nghiệp và trồng rừng, các
hoạt động này đang diễn ra sôi động ở Điên Biên và Tây Bắc nói chung.
Thảm thực vật dưới tán rừng, các phụ phẩm trồng lúa, trồng màu, trồng cây
công nghiệp tạo nguồn thức ăn cho trâu bò, phân trâu bò quay trở lại bón cho
cây trồng.
Về mặt kinh tế xã hội, Viêt Nam đang hội nhập toàn cầu, biến động giá
cả, lạm phát và suy thoái kinh tế đều có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nước
ta. Nhóm người bị ảnh hưởng đầu tiên và nặng nề nhất là nông dân, đặc biệt
là nông dân, đồng bào các dân tộc ít người ở vùng sâu vùng xa. Bò, trâu với
đặc tính là vật nuôi lâu năm, nếu đầu tư tiền vào nuôi trâu bò, người dân còn
có thể xem đây như ngân hàng tích lũy vốn của mình, đồng vốn luôn được
bảo vệ và gia tăng. Quan sát sự biến động tình hình kinh tế nước ta cho thấy
mặc dù VNĐ liên tục mất giá nhưng giá trị thịt bò luôn ổn định và gia tăng
(một kg thịt bò tươi vẫn đổi được 10-12 kg gạo). Nuôi bò cũng là cách hiệu
quả để giúp người nông dân xóa đói giảm nghèo cũng như tạo ra một khoản
tiền dự trữ cho các việc đột xuất như: chữa bệnh hay cho con đi học.
2.
TÍNH PHÙ HỢP CỦA ĐỀ TÀI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
XÃ HỘI CỦA TỈNH ĐIỆN BIÊN
Đánh giá lợi thế là một tỉnh có tài nguyên về phát triển nông nghiệp,
trồng rừng cũng như tham khảo về trình độ phát triển không đồng đều của
đồng bào các dân tộc anh em, Lãnh đạo tỉnh Điện Biên cho rằng phát triển
chăn nuôi trâu bò là một nhiệm vụ quan trọng trong sản xuất nông nghiệp
10
trước mắt và lâu dài. Ý tưởng này đã được cụ thể hóa bằng quyết định số
397/QĐ-UBND, ký ngày 20/04/2007 phê duyệt dự án quy hoạch phát triển
đàn trâu bò theo hướng sản xuất hàng hóa bền vững giai đoạn 2006-2015.
Theo đó, mục tiêu phát triển đạt mức tăng đàn trâu 2006-2015 là 3,56% / năm,
bò phải tăng 10,14% /năm. Tổng đàn trâu vào năm 2015 đạt 141.300 con, đàn
bò đạt 72.600 con, trong đó bò lai chiếm 60%. Hàng năm bán thịt 13.000 đến
17.000 con trâu, bò giai đoạn 2006-2010 và 19.000 đến 23.000 con trâu bò
giai đoạn 2011-2015.
Dự án này cũng đưa ra một loạt các giải pháp quan trọng để đạt được
các mục đích:
Về thức ăn, dự án cho rằng cần cải tạo đồng cỏ tự nhiên thành đồng cỏ
chăn nuôi. Dự kiến diện tích sản xuất nông nghiệp của Điện Biên đến 2015 là
123.825 ha. Trong đó đất canh tác 117.790 ha (trồng lúa, lúa màu: 44.475 ha,
đất trồng cỏ chăn nuôi: 6.500 ha, đất trồng các cây khác: 66.815 ha, đất trồng
cây lâu năm: 6.035 ha). Trong 6.500 ha đất đồng cỏ chăn nuôi có 2.000 ha đất
chuyên trồng cỏ và số còn lại 4.500 ha là đồng cỏ tự nhiên được cải tạo. Bên
cạnh việc mở rộng và thâm canh đồng cỏ thì tận dụng nguồn phụ phẩm nông
nghiệp như rơm, thân cây ngô, khoai, lạc để chế biến thành thức ăn cho trâu
bò cũng được quan tâm.
Về con giống, dự án đề ra ưu tiên xây dựng cơ sở chăn nuôi trâu bò
giống của tỉnh nhằm nuôi dưỡng và cung cấp giống trâu, bò tốt cho nhân dân,
sử dụng các giống bò ngoại (Sind, Bratman, Droughmaster,..), trâu ngoại
(Murah,..) để tạo ra con lai có năng suất cao, chất lượng tốt nhưng thích nghi
trong điều kiện của địa phương.
Về công tác thú y, vệ sinh phòng trừ dịch bệnh, dự án xem đây là giải
pháp quan trọng liên quan đến sản xuất hàng hóa và thị trường. Về bộ máy
cần bổ sung cán bộ làm công tác quản lý và thú y ở cấp huyện, xã cũng như
11
nâng cao năng lực của các cán bộ này cũng như tăng cường các dịch vụ thú y
ở các thôn, bản. Hỗ trợ kinh phí cho công tác phòng bệnh. Tiêm chủng phải
đạt >80% cho các bệnh: tụ huyết trùng, nhiệt thán, ung khí than, bệnh chân
miệng,..
Về nâng cao năng lực cán bộ kỹ thuật tại cơ sở và nông dân, dự án
cho rằng xây dựng kế hoạch đào tạo cho cán bộ của Trung tâm Phát triển
chăn nuôi của tỉnh để Trung tâm này trở thành đơn vị nòng cốt trong chuyển
giao các tiến bộ KHCN cho các đơn vị cơ sở và nông dân. Đầu tư trang thiết
bị và đào tạo cán bộ cho Chi cục thú y tỉnh. Hàng năm có kế hoạch hợp tác
với các Viện nghiên cứu trung ương mở các lớp tập huấn và đào tạo về các kỹ
thuật chăn nuôi tại Điện Biên và triển khai các đề tài phục vụ chăn nuôi trâu
bò.
Các giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng, về cơ chế, chính sách để
phát triển chăn nuôi trâu bò trên địa bàn tỉnh Điện Biên cũng được quan
tâm thích đáng.
Tuy không phải là thành phần của dự án phát triển đàn trâu bò của Điện
Biên nhưng đề tài: “Nghiªn cøu øng dông kü thuËt g©y ®éng dôc ®ång lo¹t,
n©ng cao hiÖu qu¶ thô tinh nh©n t¹o nh»m t¨ng n¨ng suÊt ®µn bß t¹i tØnh
§iÖn Biªn” triển khai giai đoạn 2008-2010 là hoàn toàn phù hợp, có khả năng
hỗ trợ, mặt khác lại trùng với giai đoạn triển khai dự án phát triển đàn trâu bò
của tỉnh nhà.
Trong các giải pháp của dự án thì đề tài có thể hỗ trợ cho 3 giải pháp
quan trọng: con giống, kỹ thuật và nguồn nhân lực. Về vấn đề con giống, đề
tài nghiêng về áp dụng thụ tinh nhân tạo để zê-bu hóa đàn bò. Như vậy có thể
một mặt tận dụng được lợi thế thích nghi của đàn bò địa phương, mặt khác cải
tạo năng suất và chất lượng đàn. Về kỹ thuât, gây động dục đồng loạt kết hợp
với thụ tinh nhân tạo sẽ đẩy nhanh tốc độ zê-bu hóa đàn bò, đây có thể công
12
cụ quan trọng để đạt được chỉ tiêu 60% đàn bò là bò lai vào 2015. Kỹ thuật
này hoàn toàn có thể mở rộng ra toàn đàn nếu gây động dục đồng loạt để vừa
thụ tinh nhân tạo vừa cho bò đực giống đã chọn lọc nhảy trực tiếp. Đề tài
cũng có thể là hữu ích đối với dự án của tỉnh từ khía cạnh tạo ra đàn bò đực
lai có thể trạng tốt hơn so với đàn bò đực hiện có của địa phương, dùng đàn
đực giống này cải tạo thể trạng của đàn bò hiện tại, nâng cao dần thể trạng
của toàn đàn. Ngoài ra, các hoạt động đào tạo tập huấn của đề tài sẽ giúp tạo
cho Điên Biên có nguồn nhân lực kỹ thuật cũng như có các chuyên gia về ứng
dụng các kỹ thuật sinh sản và thụ tinh nhân tạo.
3.
TẠI SAO PHẢI ÁP DỤNG GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG LOẠT VÀ THỤ TINH
NHÂN TẠO ĐỂ CẢI TẠO ĐÀN BÒ ĐIỆN BIÊN
Sin hóa đàn bò (hay đúng hơn là zê-bu hóa đàn bò) đã được chúng ta
thực hiện từ những năm 70. Đến nay nhiều địa phương ở đồng bằng sông
Hồng đã cải tạo được tầm vóc đàn bò, có nơi bò lai-zebu đã thay thế hết đàn
bò vàng giống địa phương. Phối giống bằng thụ tinh nhân tạo đã thay thế việc
cho bò nhảy trực tiếp ở nhiều địa phương.
Thụ tinh nhân tạo để ze-bu hóa đàn bò tỉnh Điện Biên vẫn còn là một
thách thức đối với Điện Biên nói riêng và các tỉnh Tây Bắc nói chung. Trước
hết do địa bàn rộng lớn, địa hình phân cắt, giao thông đến các huyện, xã còn
khó khăn, tiếp đến là chưa hình thành được mạng lưới dẫn tinh viên ở các xã
hoặc các cụm xã, thậm chí ở cấp huyện. Ở Điện Biên, thụ tinh nhân tạo mới
chỉ được Trung tâm Phát triển chăn nuôi triển khai tại ở địa bàn bán kính
khoảng 10 km cách Điện Biên Phủ.
Giống như ở các địa phương khác ở miền Bắc Việt Nam, đàn bò Điên
Biên động dục rải rắc quanh năm. Theo dõi động dục để thụ tinh nhân tạo kịp
thời là bất khả thi vì không có dẫn tinh viên và nguồn tinh tại chỗ, trong khi
bò đực, bò cái được chăn thả tập trung nên khả năng tạp giao là phổ biến. Nếu
13
như không có các biện pháp cải tạo đàn thì mặc dù đàn bò tăng từ 6-8% mỗi
năm (Bảng 1), thì đến 2015 tổng đàn bò có thể đạt được số lượng như dự kiến
72.600 con, nhưng chất lượng, khối lượng, tính thích nghi lại giảm đi do tỷ lệ
đồng huyết cao.
Như vậy, triển khai đề tài “Nghiªn cøu øng dông kü thuËt g©y ®éng
dôc ®ång lo¹t, n©ng cao hiÖu qu¶ thô tinh nh©n t¹o nh»m t¨ng n¨ng suÊt
®µn bß t¹i tØnh §iÖn Biªn” là công cụ quan trọng và là lựa chọn tốt nhất để
dự án phát triển 60% bò lai của tỉnh thành công một cách bền vững vào 2015.
4.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA VIỆC GÂY ĐỘNG DỤC ĐỒNG LOẠT CHO BÒ
ĐỂ THỤ TINH NHÂN TẠO
Đã từ rất sớm, các nghiên cứu về tổ chức học định lượng phát hiện
trong một chu kỳ của bò có 2 đến 3 sóng nang. Các sóng nang này được quyết
định bởi các yếu tố di truyền, đã hình thành ngay trong phát triển cá thể, các
giai đoạn phát triển trước dậy thì, trong thời điểm bò mang thai và ngay cả
giai đoạn bất dục sinh lý vẫn có hiện diện của các sóng nang. Điểm khác biệt
giữa các sóng nang ở bò có chu kỳ so với bò ở các giai đoạn khác là kích
thước nang độc tôn lớn hơn hình thành ở mỗi sóng nang. Bằng phương pháp
quét siêu âm hàng ngày, các nhà khoa học cho thấy có khoảng 70% quần thể
bò có 2 sóng phát triển nang trong một chu kỳ, khoảng 30% quần thể bò có
đến 3 sóng nang trong một chu kỳ. Thêm vào đó có tác giả còn thấy bò sinh
đôi chỉ xảy ra ở bò có chu kỳ 3 sóng nang. Thử nghiệm gây rụng trứng các
nang độc tôn, người ta thấy rằng ở bất cứ sóng nang nào một khi nang độc tôn
cho rụng trứng cũng tạo ra một trứng tốt có thể thụ tinh và cho đậu thai.
Nghiên cứu tương quan giữa các sóng nang ở bò, người ta thấy rằng
một sóng nang mới chỉ có thể hình thành khi nang độc tôn của sóng nang
trước đã cho rụng trứng hoặc thoái hóa. Duy trì hàm lượng progesterone cao
trong máu nhờ bổ sung liên tục từ bên ngoài hoặc đặt viên có chứa dẫn xuất
14
của progesterone vào âm đạo làm kéo dài sự tồn tại của nang độc tôn, người
ta không quan sát thấy hình thành sóng nang mới. Trong khi loại bò nang độc
tôn bằng cách làm giảm đột ngột hàm lượng progesterone trong máu, gây nên
rụng trứng nang độc tôn và hình thành sóng nang mới. Việc cản trở hình
thành sóng nang mới của nang độc tôn cũng được chứng minh khi phá hủy
nang độc tôn bằng cơ học như đốt hoặc hút bỏ.
Mặc dù nhất trí cơ bản về lý thuyết phát triển nang dạng sóng dọc theo
chu kỳ, các nhà khoa học vẫn chưa thống nhất về tỷ lệ bò có chu kỳ 2 hoặc 3
sóng nang trong quần thể bò. Nghiên cứu sâu ở quần thể bò sữa, Siroi and
Fortune (1988), Savio et al (1988), Ginther et al (1989), Gong et al (1996) cho
rằng có tới 80% bò trong quần thể có chu kỳ 2 sóng nang [33], [36], [95],
[112]. Hiện tượng này được xác lập bởi yếu tố di truyền hoặc di truyền kết
hợp với yếu tố môi trường vẫn còn là vấn đề còn bỏ ngỏ.
Khái niệm về một sóng phát triển nang ở bò được đặc trưng bởi sự lớn
lên đồng thời của một số các nang nhỏ đạt đến một kích thước nhất định
(khoảng 3-4 mm), ở giai đoạn này các nang có cùng cơ hội để phát triển thành
nang độc tôn. Một cơ chế chọn lọc của cơ thể dẫn đến sự phát triển không
đồng đều nên chỉ có một nang lớn vượt lên trở thành độc tôn duy trì tăng
trưởng, trong khi các nang khác lớn chậm dần rồi thoái hóa (Ginther et al.
1996; Knopf et al 1989) [34], [49].
Nang độc tôn đầu tiên của chu kỳ sinh dục là một nang trong tập hợp
một số nang có đường kính 2-5mm xuất hiện một ngày sau rụng trứng. Nang
được chọn lựa (lớn vượt lên) trong ngày thứ 3 và trở thành nang độc tôn ngày
thứ 5, thứ 6. Trong khi có một nang trở thành độc tôn thì các nang khác cận
kề trong tập hợp ban đầu lớn chậm đi và trở thành nang thoái hóa, trùng vào
thời điểm mức FSH trong máu giảm xuống (Irland and Roche 1983, Adams et
al., 1992, Adams 1994, Sunderland 1994). Nang độc tôn phát triển đạt kích
15
thước tối đa 13-16mm vào ngày thứ 6 đến ngày thứ 7 của chu kỳ. Nang độc
tôn có một giai đoạn phát triển với kích thước ổn định được ghi nhận từ ngày
thứ 6 đến ngày thứ 10. Sau thời điểm này nang độc tôn giảm nhanh kích
thước và không còn nhận diện được vào ngày thứ 15. Thoái hóa nang độc tôn
đầu tiên cũng trùng hợp với một sóng nang mới xuất hiện vào thời điểm gia
tăng chuyển tiếp bài tiết FSH vào máu từ tuyến yên [9], [8], [43], [121]. Ở bò
chu kỳ hai sóng nang, nang độc tôn thứ hai sẽ là nang rụng trứng. Nhưng ở bò
có 3 sóng nang thì nang độc tôn thứ 2 vẫn chưa cho rụng trứng. Nếu nang độc
tôn ở bò chu kỳ 2 sóng nang bắt đầu tăng tốc lớn vào ngày thứ 10 thì nó sẽ
cho rụng trứng 11 ngày sau đó, tức là 21 ngày sau lần rụng trứng cuối cùng.
Nang cho rụng trứng ở bò có chu kỳ 3 sóng nang xuất hiện vào ngày thứ 16
và rụng trứng 7 ngày sau đó. Như vậy, theo Pierson and Ginther (1987), Siroi
và Fortune (1988), Ginther et al (1989) thì khoảng cách giữa hai lần động dục
ở bò chu kỳ 2 sóng nang ngắn hơn ở bò chu kỳ 3 sóng nang (21 so với 23
ngày) [32], [75], [112]. Kích thước lớn nhất trung bình của nang độc tôn sóng
nang thứ 2 là tương tự như kích thước nang độc tôn ở sóng nang thứ nhất
(khoảng 16mm). Như vậy ở bò có chu kỳ hiện diện ít nhất 1 nang to (khoảng
12mm) trong tất cả các ngày của chu kỳ sau ngày thứ 4.
Sóng nang đầu tiên xuất hiện vào ngày thứ nhất của chu kỳ (sau ngày
rụng trứng), sóng nang thứ 2 ở bò chu kỳ hai sóng nang xuất hiện vào ngày
thứ 10. Ở bò chu kỳ 3 sóng nang, sóng nang thứ hai xuất hiện vào ngày thứ 9
và sóng nang thứ 3 xuất hiện vào ngày thứ 16. Adams et al. (1992) đã chứng
minh có mối tương quan chặt chẽ sự gia tăng bài tiết FSH và sự xuất hiện các
sóng nang [9]. Kết thúc mỗi một pha phát triển độc tôn luôn được báo trước
bởi sự tiêu biến các thụ quan đối với FSH và LH cùng với hoạt tính sản xuất
oestrogen của nang độc tôn (Irland and Roche 1983) [44]. Sự giảm tần suất
các xung LH cũng xuất hiện trước khi nang độc tôn thoái hóa (Savio et al
16
1990). Gong et al (1996) còn chứng minh rằng: nang trứng phát triển đến giai
đoạn có đường kính dưới 4mm không phụ thuộc vào gonadotropin nhưng phụ
thuộc sống còn vào FSH giai đoạn phát triển từ 4-9mm, vào LH giai đoạn cận
rụng trứng (>9mm) [36], [95]. Những kết quả này là quan trọng trong điều
tiết các loại hooc-môn cho mục đích gây động dục và rụng trứng đồng pha.
Liệu nang độc tôn ở sóng nang thứ nhất có thể cho rụng trứng ?
Trong chu kỳ bình thường nang độc tôn đầu tiên không cho rụng trứng.
Nang độc tôn này phát triển trong lúc hiện diện một thể vàng hoạt động, chỉ
có thể bị thoái hóa khi không có mặt các xung LH, các xung này bị ức chế bởi
mức progesterone cao trong máu. Như vậy chỉ các nang độc tôn không bị
thoái hóa có mặt vào lúc thể vàng bị thoái hóa mới có cơ hội rụng trứng. Tuy
nhiên vẫn có thể gây rụng trứng các nang phát triển giai đoạn hoàng thể nếu
áp dụng các yếu tố kích thích bởi các hóa dược.
Savio et al. (1990), Novaes et al. (1991) là những tác giả đầu tiên thử
gây rụng trứng với nang độc tôn đầu tiên khi họ dùng PGF2α, cho thấy nang
độc tôn đầu tiên cho rụng trứng và trứng rụng từ nang này thụ tinh và đậu thai
được [65], [95]. Trong khi đó Bagusi et al.(1993), Prescott et al. (1996), Gong
et al. (1995, 1996) đã dùng GnRH làm rụng trứng nang độc tôn đầu tiên [12],
[35], [36], [79]. Price and Webb (1989), Schmith et al. (1996) lại tiêm HCG
gây rụng trứng nang độc tôn đầu tiên [80], [100]. Trong tất cả các trường hợp
quan sát thấy phản ứng động dục và rụng trứng xảy ra với các thông số điển
hình giống như động dục và rụng trứng tự nhiên cuối chu kỳ, dẫn tinh các tác
giả đều thầy các rụng trứng này tốt vì dẫn tinh bò đậu thai.
Điều này về lý thuyết đã mở ra một khả năng mới: không nhất thiết
phải chờ sự phát triển của nang độc tôn cuối chu kỳ, động dục và rụng trứng
có thể xảy ra với bất cứ nang độc tôn nào hình thành trong chu kỳ. Về mặt
thời gian, mỗi chu kỳ cách nhau 21-23 ngày trong khi đó mỗi sóng nang chỉ
17
cách nhau 7-8 ngày. Đây chính là cơ sở để người ta có thể rút ngắn khoảng
cách giữa 2 lần xử lý, và hệ quả là rút ngắn được khoảng cách từ lúc bò đẻ
đến lần phối giống đầu tiên, dẫn tới rút ngắn khoảng cách giữa hai lứa đẻ.
Phát triển nang trứng giai đoạn sau khi bò đẻ con (post-partum)
Sau khi đẻ, giai đoạn tái phục hồi tử cung xảy ra ở tất cả các động vật
có vú. Trong giai đoạn này xảy ra đồng thời việc tái thiết lập tính chu kỳ. Giai
đoạn này nhanh hay chậm phụ thuộc và rất nhiều yếu tố: bản thân con vật và
môi trường. Tái phục hồi các sóng nang càng sớm, con vật càng nhanh chóng
có khả năng thụ thai lại. Nghiên cứu kỹ giai đoạn này chính là chìa khóa để
áp dụng kích thích động dục và rụng trứng sớm, rút ngắn khoảng cách giữa
hai lứa đẻ.
Thể vàng của quá trình mang thai thoái hóa làm đột ngột giảm lượng
progesterone trong máu là một trong các cơ chế quan trọng dẫn đến đẻ con.
Tồn tại sau khi đẻ một khoảng rất giao động gọi là giai đoạn bất thụ sau khi
sinh. Khoảng này phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố sinh lý, môi trường,
bệnh lý như: dinh dưỡng, thể trạng, cho con bú, bệnh dystocia, giống bò, tuổi
bò, tháng bò đẻ, bệnh lý tử cung và các bệnh mãn tính.
Giảm lượng progesterone, estradiol trong máu kích thích hệ trục
Hypothalumus-Hypophys-Gonads theo cơ chế điều khiển âm tính ngược
(feedback) là gia tăng hàm lượng FSH trong máu trong vòng từ 5-14 ngày sau
khi bò đẻ (Peters et al. 1981) [73], tạo nên sóng nang đầu tiên trong giai đoạn
bất dục sau khi sinh. Các sóng nang không bị mất đi trong quá trình bò mang
thai nhưng kích thước các nang độc tôn của các sóng này thấp và bị thoái hóa
do mức progesterone quá lớn trong quả trình mang thai. Lúc FSH gia tăng
trong máu cũng là lúc sóng nang đầu tiên hình thành với các nang độc tôn có
kích thước điển hình (Roche and Mihm 1996) [90]. Có một loạt xung LH (với
18
tần suất dày, biên độ thấp) xuất hiện kích thích phát triển và duy trì độc tôn
nang (Savio et al. 1990) [96].
Một số công trình cho thấy có một vài sóng nang xuất hiện và phát
triển trước lần rụng trứng đầu tiên giai đoạn sau khi bò đẻ. Ở bò sữa, Dufour
and Roy (1985) quan sát thấy các nang có xoang lớn phát triển vào khoảng
15-35 ngày sau khi bò đẻ [23]. Savio et al., (1990) quan sát thấy các nang lớn
5-9mm phát triển vào 7-10 ngày sau khi bò đẻ, từ các nang này một nang độc
tôn tiếp tục phát triển vào ngày 10-13 sau khi bò đẻ, nang độc tôn đầu tiên sau
khi bò đẻ rụng trứng ở phần lớn các bò (70-80%) [95]. Điểm đặc biệt là các
nang độc tôn rụng trứng sau khi bò đẻ thường rụng trứng “ngầm”, không kèm
theo các dấu hiệu bò động dục (Savio et al., 1990) [95].
Như vậy, tính chu kỳ ở bò được tái thiết trở lại sau thời kỳ phát triển
ngắn của thể vàng (short-lived CL) (Odde et al., 1990, Pratt et al., 1982) [67],
[78]. Thực tế có một sự gia tăng chuyển tiếp hàm lượng progesterone thường
xảy ra 10 ngày trước lần động dục đầu tiên sau khi sinh con ở bò thịt
(Rawling et al., 1980, Peters et Reley 1982, Hungphrey et al 1983, Werth et
al., 1996) [40], [82], [85], [134].
Ở bò thịt cho con bú phát triển nang có sự thay đổi. Những nang trứng
lớn đến 8mm đã quan sát thấy vào ngày thứ 7 với sự gia tăng về số lượng từ
ngày 7 đến ngày 42 sau khi bò đẻ. Nhưng chỉ quan sát thấy nang độc tôn ở
11% số bò (Murphy et al., 1990, Stagg et al., 1995) [63], [115] và nang rụng
trứng đầu tiên chỉ thấy được 40 ngày sau khi bò sinh con (Roche and Boland
1991, Short et al., 1990) [89], [108]. Điều này cho thấy giai đoạn bất dục sau
khi sinh ở bò thịt kéo dài không phải do trễ tái hồi phục phát triển sóng nang
mà do các nang độc tôn nhỏ, không rụng trứng được. Người ta quan sát thấy
xung bài tiết LH xuất hiện giai đoạn sau khí sinh ở bò cho con bú muộn hơn
so với bò vắt sữa (Peters et al., 1981) [73]. Điều này gợi ý là nang trứng
19
- Xem thêm -