Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian việt nam...

Tài liệu Nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian việt nam

.PDF
50
212
104

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN === === TRƯƠNG THN NHUNG NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ TRONG TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học dân gian Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THN NGỌC LAN HÀ NỘI - 2016 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan – người trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo tận tình giúp tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn đặc biệt là các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận. Hà Nội ngày 10 tháng 4 năm 2016 Sinh viên Trương Thị Nhung Sinh viên: Trương Thị Nhung Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp LỜI CAM ĐOAN Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan. Tôi xin cam đoan: Đây là kết quả tìm tòi nghiên cứu của riêng tôi Các tài liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực. Công trình nghiên cứu này không hề trùng lặp với bất cứ công trình nghiên cứu nào đã được công bố. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội ngày 10 tháng 4 năm 2016 Sinh viên Trương Thị Nhung Sinh viên: Trương Thị Nhung Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 2 3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 2 5. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2 6. Đóng góp của đề tài .................................................................................... 5 7. Cấu trúc ...................................................................................................... 5 NỘI DUNG ................................................................................................... 6 Chương 1. CHƠI CHỮ - YẾU TỐ NGÔN NGỮ ĐỘC ĐÁO TRONG TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM .................................................. 6 1.1. Đặc điểm ngôn ngữ truyện cười............................................................... 6 1.1.1. Tính chất ngắn ngọn, đơn giản.............................................................. 6 1.1.2. Lời văn kể chuyện ................................................................................ 8 1.1.3. Ngôn ngữ đối thoại ............................................................................... 9 1.2. Khảo sát nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian Việt Nam ...... 10 1.2.1. Khái niệm chơi chữ ............................................................................ 10 1.2.2. Dấu hiệu nhận biết nghệ thuật chơi chữ .............................................. 11 1.2.3. Kết quả khảo sát ................................................................................. 13 Chương 2. CÁC DẠNG THỨC CHƠI CHỮ TRONG TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM ............................................................................. 16 2.1. Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết..................................... 16 2.1.1. Chơi chữ dựa vào đặc điểm của chữ Hán ............................................ 16 2.1.2. Chiết tự chữ Hán bằng từ thuần Việt .................................................. 18 2.1.3. Chơi chữ theo cách cùng âm ............................................................... 18 2.1.4. Chơi chữ theo cách nhại gần âm ......................................................... 21 Sinh viên: Trương Thị Nhung Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp 2.1.5. Chơi chữ dựa trên cấu tạo của tiếng để nói lái .................................... 22 2.1.6. Chơi chữ theo cách đan xen ngôn ngữ ................................................ 25 2.2. Chơi chữ bằng phương tiện ngữ nghĩa ................................................... 26 2.2.1. Chơi chữ bằng cách dùng từ nhiều nghĩa ............................................ 26 2.2.2. Chơi chữ dựa trên sự đồng nghĩa giữa từ Hán Việt với từ thuần Việt tương đương ................................................................................................. 28 2.2.3. Chơi chữ dựa trên mối quan hệ giữa hình thức ngữ âm với sự vật mà từ biểu thị ......................................................................................................... 28 2.2.4. Chơi chữ bằng cách dùng từ đồng âm khác nghĩa ............................... 30 2.2.5. Chơi chữ theo cách dùng cặp từ trái nghĩa .......................................... 31 2.3. Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp .................................................... 33 2.3.1. Chơi chữ bằng cách đảo trật tự vị trí từ ngữ ........................................ 33 2.3.2. Chơi chữ theo cách chuyển từ ngữ và rút gọn từ ngữ, câu .................. 34 2.3.3. Chơi chữ dựa vào cách ngắt nhịp câu, buông lửng câu ....................... 35 2.4. Chơi chữ dựa vào phương ngữ và tiếng lóng ......................................... 36 2.4.1. Chơi chữ dựa vào phương ngữ............................................................ 36 2.4.2. Chơi chữ dựa vào tiếng lóng ............................................................... 38 2.5. Chơi chữ dựa vào tiền giả định dữ liệu văn học, văn hóa ....................... 39 2.5.1. Giữ nguyên hình thức biểu hiện của tiền giả định nhưng thay đổi về nội dung biểu đạt ................................................................................................ 39 2.5.2. Chỉ chọn một phần ý hoặc lời của tiền giả định và sử dụng với dụng ý không giống tiền giả định ............................................................................. 40 KẾT LUẬN ................................................................................................. 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO Sinh viên: Trương Thị Nhung Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Người xưa có câu “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Quả thật trong cuộc sống hiện đại, nụ cười đem lại rất nhiều lợi ích, không những về mặt sinh học mà còn cả ở tinh thần, hãy thử tưởng tượng sau một ngày mệt mỏi đọc một mNu truyện mang lại cho ta tiếng cười sảng khoái thì còn gì bằng. Đối với ông cha ta ngày trước để giải tỏa căng thẳng mệt nhọc thì thường tìm đến những câu chuyện cười với kết cấu khá ngắn gọn, đơn giản dễ nhớ nhưng lại vô cùng sâu sắc. Không chỉ với mục đích gây cười mà truyện cười dân gian còn có chức năng phản ánh đời sống nhân dân qua quá trình lao động sản xuất, châm biếm thói hư tật xấu của con người hay đặc biệt là dùng nó như vũ khí đấu tranh chống lại chế độ phong kiến thối nát. Truyện cười dân gian, dù nhằm mục đích gây cười đơn thuần, hay phê phán, châm biếm, đả kích thì đều là “biểu hiện của tính lạc quan, trí thông minh sắc sảo của nhân dân lao động” (Từ điển văn học, bộ mới - tr. 1843). Đó là những tác phNm văn chương bình dân có giá trị ở cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật, thể hiện ý thức và thNm mỹ của cộng đồng. Vì vậy, nghiên cứu truyện cười từ nhiều góc độ khác nhau, là một việc làm cần thiết, nhằm phát hiện những nét độc đáo trên nhiều phương diện của thể loại này. Trên thực tế, các vấn đề thuộc thể loại truyện cười đã được đề cập trong một số chuyên luận, tạp chí chuyên ngành hay các giáo trình văn học dân gian. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, những vấn đề thuộc phương diện nghệ thuật của truyện cười, mà “chơi chữ” là một ví dụ, còn chưa được quan tâm thỏa đáng. Vì vậy, với mong muốn tìm hiểu cặn kẽ hơn một biểu hiện cụ thể, riêng biệt làm nên giá trị nghệ thuật của truyện cười, chúng tôi lựa chọn đề tài Nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian Việt Nam. Hơn nữa, truyện cười cũng là một thể loại được đưa vào giảng dạy trong Sinh viên: Trương Thị Nhung 1 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp Chương trình Ngữ Văn ở nhà trường Phổ thông. Tìm hiểu thể loại này, cũng là một cách giúp người viết hiểu rõ, hiểu sâu hơn một thể loại văn học dân gian đặc sắc, từ đó củng cố, tích lũy cho bản thân những kiến thức, kỹ năng cần thiết phục vụ cho công tác giảng dạy Ngữ văn sau này. 2. Mục đích nghiên cứu Bổ sung một số vấn đề thuộc lý thuyết thi pháp ngôn ngữ truyện cười. Mặt khác đề tài cũng góp thêm tiếng nói khẳng định hiệu quả tu từ của nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu - Về tư liệu: Phục vụ cho mục đích nghiên cứu, chúng tôi đã giới hạn việc khảo sát, thống kê tư liệu ở một số công trình sưu tầm, biên soạn truyện cười đã được công bố như: Truyện tiếu lâm Việt Nam (Nxb Văn học, Hà Nội, 2005) của Lê Hồng Phong, Tiếng cười dân gian Việt Nam (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997) của Trương Chính và Phong Châu… Bên cạnh đó, một số tác phNm truyện cười được chúng tôi sưu tầm từ nguồn Internet. - Về nội dung : Tìm hiểu nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian Việt Nam với các dạng thức được sử dụng phổ biến nhất. Qua đó thấy được hiệu quả của chơi chữ trong việc tạo nên tiếng cười trong truyện cười. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tiếp cận hệ thống. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp đối chiếu so sánh. - Phương pháp liên ngành. 5. Lịch sử vấn đề Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau về nghệ thuật truyện cười. Năm 1997, trong cuốn Tiếng cười dân gian Việt Nam, hai tác giả Sinh viên: Trương Thị Nhung 2 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp Trương Chính và Phong Châu đã căn cứ vào tính chất phê phán đã chia đối tượng của tiếng cười ra làm hai loại. Một là dựa vào tính cách để phản ánh (như lười biếng, ham ăn, ngốc nghếch…); hai là dựa vào những cá nhân trong xã hội để phản ánh (như vua, quan, thầy đồ…). Cùng với đó, hai tác giả đã phân tích thủ pháp gây cười được sử dụng trong truyện cười dân gian như: thủ pháp chơi chữ (dựa vào hiện tượng đồng âm khác nghĩa, những từ nhiều nghĩa, chiết tự chữ Hán, nói lái…) nghệ thuật cường điệu hóa, cách diễn đạt chân lý dưới hình thức nghịch lý, trái với logic… Đặc biệt khi đề cập đến nghệ thuật của truyện cười, nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh đến hai biện pháp gây cười đặc trưng, đó là chơi chữ và phóng đại. Phóng đại ở truyện cười là cường điệu hóa tâm lý, tâm trạng, thói hư tật xấu của nhân vật còn nghệ thuật chơi chữ chính là sử dụng khéo léo câu chữ để gây cười. Năm 1998, tác giả Đinh Gia Khánh trong cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam cũng đề cập đến nghệ thuật truyện cười. Theo ý kiến của nhà nghiên cứu: “Đã là truyện cười dân gian thì phải làm thế nào gây được tiếng cười giòn giã nhất. Nghệ thuật truyện cười dân gian trước hết là nghệ thuật gây cười” [tr.386]. Ông chỉ ra mấy trường hợp có thể gây cười như: lời nói đáng cười, cử chỉ đáng cười, hoàn cảnh đáng cười… và “để gây ra tiếng cười giòn giã, truyện cười dân gian những yếu tố gây cười, vào những nét phóng đại, vào những yếu tố bất ngờ, kịch tính” [tr.389]. Như vậy, mặc dù nhà nghiên cứu không trực tiếp trình bày về nghệ thuật chơi chữ nhưng những gì ông viết, đã cho ta nhận ra những đặc điểm riêng biệt của ngôn ngữ truyện cười. Đây là những gợi ý bước đầu giúp chúng tôi tiếp cận từng bước với vấn đề nghiên cứu. Năm 1999, trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo Dục, tác giả Hoàng Tiến Tựu cho rằng truyện cười dân gian là một thể loại của nghệ thuật ngôn từ dân gian, tất cả mọi phương diện của nó (cốt truyện, nhân Sinh viên: Trương Thị Nhung 3 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp vật, hình ảnh…) đều được tạo nên bằng ngôn ngữ. Nói chung ngôn ngữ trong truyện cười dân gian rất đại chúng, trong sáng dễ hiểu. Nếu có chỗ nào tác giả dùng từ mập mờ, lấp lửng thiếu minh xác thì đó là sự mập mờ, lấp lửng để gây cười có dụng ý. Nghệ thuật chơi chữ là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng khá nhiều trong truyện cười, tác giả Hoàng Tiến Tựu đã nêu một số dạng thức chơi chữ tiêu biểu như: Nói thiếu, nói tắt có dụng ý, tước bỏ ngữ cảnh, dùng từ đồng âm đa nghĩa. Ngoài ra truyện cười dân gian còn dùng nhiều biện pháp chơi chữ khác như: nói lái, nói ngoa, dùng từ lạ, từ bạo. [tr.117-119]. Ngoài ra, còn có thể kể đến một số bài nghiên cứu đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian như: Cái hài mua vui giải trí trong truyện cười dân gian Việt Nam (1996) của Nguyễn An Tiêm; Cái hài dân gian Bắc Bộ - Nam Bộ (2002) của Huỳnh Công Tín. Trong nghiên cứu của mình, các tác giả cũng chú ý đến nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong truyện cười, các thủ pháp chơi chữ... Đây là những định hướng vô cùng quý giá cho chúng tôi khi tìm hiểu về nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian. Trong quá trình thu thập tài liệu phục vụ cho quá trình thực hiện khóa luận, chúng tôi cũng thấy rằng, vấn đề mà chúng tôi đang tiếp cận, ít nhiều cũng đã được đề cập trong một số khóa luận tốt nghiệp trong những năm gần đây. Có thể kể đến khóa luận tốt nghiệp được thực hiện tại khoa Ngữ văn, Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2, như: Hiệu quả của biện pháp quy định trong truyện cười dân gian Việt Nam (2007) của sinh viên Lưu Xuân Bình. Khóa luận đã chỉ ra những hiệu quả của biện pháp quy định cũng như khám phá những khía cạnh mới mẻ trong nội dung cũng như nghệ thuật của truyện cười dân gian Việt Nam. Hay khóa luận của sinh viên Trịnh Hương Ngọc với đề tài Vị trí mạnh trong truyện cười dân gian Việt Nam (2015) trong đó nói về một số đặc trưng của truyện cười đặc biệt là vị trí mạnh gây cười nằm Sinh viên: Trương Thị Nhung 4 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp trong tác phNm như: nhan đề, nội dung hay kết truyện chứa đựng kịch tính gây cười. Ở phần vị trí mạnh trong nội dung có nhắc đến nghệ thuật chơi chữ là một biện pháp nghệ thuật rất quan trọng trong việc thể hiện nội dung và mục đích gây cười trong truyện. Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về nghệ thuật truyện cười và nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười song mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dữ liệu, thông tin sơ lược mà chưa có sự khảo sát, phân tích cụ thể. Vì vậy, trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi thực hiện đề tài Nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian Việt Nam. 6. Đóng góp của đề tài - Về mặt khoa học: Khóa luận góp phần làm rõ một phương diện ngôn ngữ đặc sắc của truyện cười dân gian. - Về mặt thực tiễn: Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu văn học dân gian nói chung, thể loại truyện cười nói riêng. 7. Cấu trúc Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận gồm 2 chương: Chương 1. Chơi chữ - yếu tố ngôn ngữ độc đáo trong truyện cười dân gian Việt Nam Chương 2. Các dạng thức chơi chữ trong truyện cười dân gian Việt Nam Sinh viên: Trương Thị Nhung 5 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp NỘI DUNG Chương 1. CHƠI CHỮ - YẾU TỐ NGÔN NGỮ ĐỘC ĐÁO TRONG TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM 1.1. Đặc điểm ngôn ngữ truyện cười Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Truyện cười dân gian là “một thể loại văn học dân gian chứa đựng cái hài, dùng tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để thực hiện chức năng phê phán đả kích cái xấu xa và mua vui giải trí” [tr.251]. Truyện cười dân gian Việt Nam ra đời và phát triển cùng với quá trình lao động sản xuất và đời sống nhân dân. Khi tư duy con người tương đối phát triển họ ý thức được tầm quan trọng của truyện cười. Thể loại truyện cười không chỉ đem lại tiếng cười mua vui cho con người, giúp họ giải tỏa mệt mỏi mà còn có tác dụng phê phán, châm biếm mỉa mai các thói hư tật xấu. Có khi nó được xem là thứ vũ khí sắc bén để đấu tranh chống lại những bất công trong xã hội phong kiến, mà đứng đầu là những kẻ “ăn trên ngồi trốc” có tiền, có quyền. Tiếng cười ấy, phản ánh sự thông minh, tư duy sâu sắc của người Việt nói chung và những con người có trí tuệ, khả năng giao tiếp nhanh nhạy nói riêng. Ở đó có sự kết tinh của một quá trình chọn lọc, khái quát và nó xứng đáng được xem là một kiệt tác hoàn chỉnh, một chỉnh thể thống nhất và toàn vẹn. 1.1.1. Tính chất ngắn ngọn, đơn giản Truyện cười là thể loại truyện kể ngắn gọn bậc nhất, dài cũng chỉ 15-20 câu ngắn chỉ từ 5-7 câu. Trung bình khoảng trên dưới 10 câu. Tuy ngắn thế nhưng cũng là một câu chuyện có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc. Truyện cười không có nhiệm vụ kể lại số phận cuộc đời nhân vật, không quan tâm đến trước sau việc xảy ra thì cuộc đời nhân vật sẽ ra sao. Ví dụ, truyện May không đi giày: Sinh viên: Trương Thị Nhung 6 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp “Một anh tới nhà bạn chơi, chân không mang giày, mang tất bị chó cắn vào chân đau lắm, máu chảy đỏ lòm. Anh ta lấy tay ôm chặt vết thương, xuýt xoa: - May mà không đi giày! ” Truyện cười trên chỉ vẻn vẹn có 2 câu nhưng cũng là một câu chuyện có mở đầu, diễn biến và kết thúc. Tiếng cười bật lên bởi sự hà tiện quá mức của nhân vật chàng trai trong truyện. Người đọc không quan tâm sau đó anh ta thế nào mà chỉ quan tâm tới sự keo kiệt quá đáng của anh ta được phóng đại đến nỗi không quan tâm tới bản thân mình. Cho nên truyện cười chỉ chú trọng xây dựng các tình huống, nắm bắt những lát cắt trong cuộc đời con người. Những hình ảnh đó là sự ghi nhanh lại những hiện tượng của cuộc sống mà trong đó có những cái thuộc về bản chất, có những cái thuộc về hoàn cảnh, bối cảnh nhất định. Hay trong truyện Con vịt hai chân kể rằng: “Có một anh tính hay nịnh quan, hễ có việc gì hơi khác là xum xoe, tán tỉnh. Một hôm đang lúc đứng chầu quan, trông ra sân thấy con vịt đang ngủ, co chân lên, anh liền bNm quan rằng: - BNm quan lớn, con vịt… Đúng lúc đang nói thì con vịt bỏ chân xuống. Quan hỏi: - Con vịt làm sao? Anh ta luống cuống đáp: - Dạ! Con vịt có hai chân ạ! Quan nghe thấy thế nghĩ là anh ta có ý trêu tức mình nên sai lính lôi ra đánh cho một trận nhừ tử”. Với kết cấu ngắn gọn, cô đọng truyện đã thể hiện thái độ của nhân dân, khi phê phán châm biếm những kẻ chỉ biết xu nịnh, xum xoe người khác mà không cần biết là đúng hay sai. Chắc hẳn tiếng cười của nhân dân đối với anh Sinh viên: Trương Thị Nhung 7 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp chàng xu nịnh này còn đau hơn cả trận đòn nhừ tử của quan. Mọi yếu tố được sử dụng trong truyện cười đều nhằm mục đích trước hết là gây cười, đằng sau đó có thể là mục đích sâu xa hơn như châm biếm đả kích. Vì vậy mọi chi tiết sự kiện từ lời nói nhân vật cử chỉ đều đáng cười và được đặt trong hoàn cảnh đáng cười, đầy kịch tính để nhân vật bộc lộ tiếng cười một cách tự nhiên, bất ngờ. Toàn bộ các yếu tố của thi pháp nhân vật đều phục vụ cho mục đích gây cười. 1.1.2. Lời văn kể chuyện cô đúc, giản dị Truyện dân gian, do chịu sự chi phối của quá trình sáng tác tập thể và lưu truyền bằng con đường truyền miệng, nên thường tồn tại khá nhiều dị bản. Tuy nhiên, trong các thể loại truyện dân gian thì truyện cười là thể loại ít có dị bản nhất. Các bản ghi chép hầu như không bị sửa đổi nhiều, người ta không thể sửa đổi được cốt truyện của truyện cười, không thể thêm bớt các chi tiết và cũng khó thay đổi lời văn kể chuyện. Sở dĩ lời văn trong truyện cười ít bị thay đổi vì nó đã đạt đến tính chất vừa cô đúc vừa giản dị trên cơ sở tính chất ổn định của cốt truyện và các chi tiết. Ví dụ truyện Tam đại con gà: “Có anh học trò dốt nhưng lại hay khoe chữ tốt văn hay. Trong vùng có người tưởng anh ta hay chữ thật nên đón về dạy trẻ. Một hôm, anh ta dạy sách “Tam thiên tự”, sau chữ “tước” là chim sẻ đến chữ “kê” là gà, thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, chưa biết nói sao. Học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”. Nhưng anh ta cũng láu, sợ nhỡ sai mới bảo học trò đọc khẽ thôi. Nhân trong nhà có bàn thờ Thổ công, anh ta mới rón rén đến khấn và xin ba đài âm dương để xem chữ ấy có thật là “dù dì” không. Thổ công cho ba đài được cả ba, thế là thầy thở phào nhẹ nhõm liền oai vệ ngồi lên phía trên quát học trò đọc to lên. Trò vâng lời thầy, gân cổ gào: Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì! Chủ nhà đang ở ngoài vườn, nghe Sinh viên: Trương Thị Nhung 8 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp con đọc chữ lạ tai, vội chạy vào dở sách xem, rồi nói: Ấy chết! Chữ “kê” là con gà sao thầy lại bảo cháu là con “dủ dỉ là con dù dì”. Thầy tái mặt, nghĩ thầm: “Mình đã dốt, mà Thổ công nhà nó cũng dốt nốt”. Nhưng anh ta lại nhanh trí nói gỡ ngay rằng: Thì chữ “kê” là con gà, ai chẳng biết! Nhưng đây là tôi dạy đến tận gốc, cho cháu nó biết đến tam đại con gà kia! Chủ nhà ngớ ra, không hiểu. Thầy bèn cắt nghĩa: Thế này nhé: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà!” Lời văn kể chuyện của truyện trên vừa ngắn gọn dễ hiểu vừa đậm đà chất dân gian. Lời văn kể chuyện gồm hai phần: Phần đối thoại là “tiêu điểm” của hành động và diễn hóa hành động của nhân vật, phần còn lại của lời văn kể chuyện là những chỉ dẫn về hoàn cảnh và diễn hóa hoàn cảnh. Các chi tiết truyện không thừa không thiếu mà đầy đủ để phục vụ cho nội dung cốt truyện đó là nói về sự dốt nát của thầy đồ. Thầy đã dốt lại hay khoe khoang, giấu dốt. Khi bị phát hiện thì tìm mọi cách để che đậy sự dốt nát, lừa bịp của mình thậm chí còn báng bổ cả thánh thần. 1.1.3. Ngôn ngữ đối thoại sinh động, hài hước Do đặc điểm kết cấu của truyện cười mang dáng dấp như một màn kịch vì vậy ngôn ngữ đối thoại giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Có thể nói trong truyện cười, ngôn ngữ đối thoại góp phần không nhỏ trong việc thể hiện tính cách nhân vật, biểu hiện hành vi buồn cười của nhân vật. Do đó đây cũng là kết tinh những nét đặc sắc của ngôn ngữ truyện cười: tính giản dị và tự nhiên sinh động, sắc bén… trong đó, nét nổi bật nhất chính là tính hài hước chắt lọc từ ngôn ngữ dân gian. Chúng ta hiểu vì sao truyện cười nhất là ngôn ngữ đối thoại của nó thường được nhiều nhà ngôn ngữ học, Việt ngữ học sử dụng như một thứ ngữ liệu vui khi đề cập đến một số hiện tượng về từ vựng, ngữ pháp… Cũng chính vì vậy, kiến thức về tiếng Việt rất cần cho chúng ta hiểu rõ hơn và cảm nhận đầy đủ hơn ý vị của cái cười trong truyện cười. Sinh viên: Trương Thị Nhung 9 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp Ví dụ như truyện Tam đại con gà đã nêu ở trên thì ngôn ngữ đối thoại giữ vai trò quan trọng trong việc bộc lộ tính cách nhân vật thầy đồ. Qua lời đối thoại với chủ nhà và độc thoại của thầy đồ thì hiện lên không chỉ một tính cách đáng cười mà cả sự diễn hóa của nó. Sự dốt nát của thầy đồ bộc lộ rất rõ khi không biết chữ “kê” là chữ gì nhưng vẫn dạy liều. Khi bị phát giác thì thầy vẫn cố dùng lời lẽ để biện hộ cho mình. Qua đó ta thấy cái dốt bị chê thì ít mà cái sự giấu dốt bị cười thì nhiều. Nghệ thuật chơi chữ, theo kết quả khảo sát thống kê được bộc lộ qua cả lời văn kể chuyện lẫn ngôn ngữ đối thoại và chúng tôi xác định đây là một trong những yếu tố tạo nên tiếng cười và sự hấp dẫn của truyện cười dân gian. Trên cơ sở lý luận đã trình bày, căn cứ vào vai trò của nghệ thuật chơi chữ đối với toàn văn bản, chúng tôi khảo sát nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian qua các công trình sưu tầm, biên soạn đã nêu ở mục trên. 1.2. Khảo sát nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian Việt Nam 1.2.1. Khái niệm chơi chữ Chơi chữ là một biểu hiện nghệ thuật độc đáo trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Đây là biện pháp được dùng khá phổ biến trong một số thể loại văn học dân gian. Chơi chữ là gì? Có khá nhiều định nghĩa, khái niệm… giải thích về vấn đề này, xin được nêu ra một số ý kiến như sau: Trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt tác giả Đinh Trọng Lạc đã giải thích: “Chơi chữ là một biện pháp tu từ, trong đó ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh… được vận dụng một cách đặc biệt nhằm đem lại những liên tưởng bất ngờ lý thú” [4;tr.166]. Trong truyện cười, ngoài tác dụng giải trí, phê phán hài hước một cách sâu sắc thì biện pháp nghệ thuật này còn thể hiện trí thông minh của người Việt trong việc sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình. Chơi chữ được xem là một trò chơi chữ nghĩa. Sinh viên: Trương Thị Nhung 10 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp Trong Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao của người Việt tác giả Triều Nguyên có viết: “Có hai kiểu chơi chữ trong văn chương đó là chơi chữ dựa vào các phương tiện ngôn ngữ được thể hiện trên văn bản và kiểu chơi chữ dựa vào tiền giả định là ngữ liệu văn học, văn hóa. Mỗi kiểu chơi chữ dùng phương tiện cách thức khác nhau và có tác dụng thNm mỹ khác nhau”[6;tr.17] Hoàng Phê trong Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Chơi chữ là lợi dụng hiện tượng đồng âm đa nghĩa trong ngôn ngữ nhằm gây ra một tác dụng nhất định (như bóng gió, châm biếm, hài hước…) trong lời nói” Theo Từ điển thuật ngữ văn học, chơi chữ được hiểu là “lộng ngữ” và đó là: “một biện pháp tu từ có đặc điểm: người sáng tác sử dụng những chỗ giống nhau về ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh để tạo ra sự bất ngờ thú vị trong cách hiểu, trong dòng liên tưởng của người nghe [tr.128]. Các hình thức của lộng ngữ rất phong phú trong đó có: Nói lái, dùng từ đồng âm hoặc gần âm, dùng từ gần nghĩa… Các tác giả trong cuốn “từ điển” này cho rằng: “Nhìn chung các lộng ngữ đều mang tính hài hước, thường được sử dụng trong văn chương trào phúng”. Như vậy các tác giả bằng cách diễn đạt riêng của mình đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về chơi chữ. Theo đó, chơi chữ là biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong đó người ta kết hợp sử dụng khéo léo những từ hoặc cụm từ chứa đựng các tiềm năng ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp…) để tạo ra một lượng thông tin cơ sở với tác dụng hài hước châm biếm. 1.2.2. Dấu hiệu nhận biết nghệ thuật chơi chữ Kho tàng truyện cười dân gian được xác định bởi hai nhóm (tiểu loại) truyện cười: Truyện cười kết chuỗi và truyện cười không kết chuỗi. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, truyện cười kết chuỗi “là những mNu giai thoại hài hước xoay quanh một nhân vật có thực hoặc được coi là có thực” [tr.251]. Có thể kể tới một vài trường hợp tiêu biểu như truyện Trạng Sinh viên: Trương Thị Nhung 11 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp Quỳnh, Trạng Lợn, Xiển Bột, Ba Giai, Tú Xuất… Còn truyện cười không kết chuỗi là “những truyện cười có kết cấu hoàn chỉnh, tồn tại độc lập mang tính chất phiếm chỉ… Các nhân vật ở loại truyện này thường chỉ được giới thiệu về thành phần, địa vị xã hội, giới tính chứ không có tên riêng…” [tr.252]. Cả hai nhóm truyện này đều là đối tượng khảo sát của đề tài. Bằng việc khảo sát tư liệu và dựa vào nội hàm của khái niệm chơi chữ đã được xác định ở trên chúng tôi nhận thấy chơi chữ trong truyện cười dân gian Việt Nam được xác định qua một số dấu hiệu cơ bản như sau: - Nói thiếu, nói tắt (Ăn đít bố, B m chó cả…) - Tước bỏ ngữ cảnh (Ông lang đòi ăn) - Dùng từ đồng âm đa nghĩa (Sợ sét bà) - Nói lái (Truyện Trạng Quỳnh: Đá bèo, Đại phong) - Nói ngoa (Con rắn vuông) - Dùng từ lạ, từ bạo (Ngọa sơn) Phạm vi của chơi chữ rộng hơn bởi nó thể hiện tất cả ở các cấp độ, đơn vị của tiếng Việt trong lúc biện pháp tu từ khác chỉ thể hiện trên một cấp độ hoặc đơn vị nào khác. Cách tạo nghĩa của chơi chữ cũng khác với các biện pháp tu từ khác. Chơi chữ tạo ra một lượng nghĩa mới về bản chất không có quan hệ phù hợp gắn bó về nghĩa. Và mỗi khi cách tu từ phát huy hiệu quả, tức ý nghĩa tu từ được nhận thì văn bản không còn một ý nghĩa khác. Trong khi đó chơi chữ luôn có hai lượng ngữ nghĩa sóng đôi: “Phần tin khác loại thường là cái trái cực, cái bất thường cho nên chơi chữ thường tạo ra những bất ngờ thú vị” Sự thú vị mang tính chất ngữ nghĩa của nghệ thuật chơi chữ được cảm nhận trong tâm trí người thưởng thức. Sự thú vị do cả hai lượng ngữ nghĩa khác nhau cùng song song tồn tại mang lại. Có điều không phải do chúng hợp thành mà do cảm giác tìm lại cái biểu đạt ra chúng mà có. Nói khác đi, với Sinh viên: Trương Thị Nhung 12 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp phép chơi chữ, sự xúc động và cái khoái cảm thNm mỹ không được cảm nhận ngay bằng con đường tưởng tượng mà chúng bị níu kéo rất lâu bởi hai mặt của ngữ nghĩa nổi bật lên hàng đầu trong cảm hứng thNm mĩ. 1.2.3. Kết quả khảo sát Chơi chữ là biện pháp tu từ ngữ nghĩa, khi vận dụng trong truyện cười nó có giá trị nhận thức bởi qua cách sử dụng đa nghĩa chúng ta có thể hiểu sâu sắc và triệt để đối tượng. Cùng với giá trị nhận thức là giá trị biểu cảm, nghệ thuật chơi chữ thể hiện sự thông minh hóm hỉnh của người sáng tác trong cách thể hiện hai giá trị này không loại trừ nhau mà song song tồn tại, thống nhất với nhau bổ sung hỗ trợ nhau góp phần làm nên giá trị chung cho biện pháp chơi chữ. Qua khảo sát sơ bộ, chúng tôi tập hợp được 42/125 truyện (chiếm 33.6%) truyện cười dân gian có sử dụng nghệ thuật chơi chữ. Căn cứ vào tiêu chí nhận diện được trình bày ở trên, chúng tôi xác định được các dạng thức của nghệ thuật chơi chữ qua bảng phân loại sau: STT Các dạng thức chơi chữ 1 Biểu hiện Truyện Chơi chữ bằng phương Chơi chữ dựa vào đặc tiện ngữ âm và chữ viết Tỷ lệ 3 7.15% 1 2.38% 3 7.15% 4 9.5% 5 11.9% điểm của chữ Hán Chiết tự chữ Hán bằng từ thuần Việt Chơi chữ theo cách cùng âm Chơi chữ theo cách nhại gần âm Chơi chữ dựa trên cấu tạo của tiếng để nói lái Sinh viên: Trương Thị Nhung 13 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp Chơi chữ theo cách đan 4 9.5% 4 9.5% 1 2.38% 2 4.76% 1 2.38% 3 7.15% 1 2.38% 2 4.76% 2 4.76% xen ngôn ngữ 2 Chơi chữ bằng phương Dùng từ nhiều nghĩa tiện ngữ nghĩa Chơi chữ dựa trên mối quan hệ giữa hình thức ngữ âm với sự vật mà từ biểu thị Chơi chữ dựa trên sự đồng nghĩa giữa từ Hán Việt với từ thuần Việt tương đương Chơi chữ dựa trên mối quan hệ giữa hình thức ngữ âm với sự vật mà từ biểu thị Chơi chữ bằng cách dùng từ đồng âm khác nghĩa Chơi chữ theo cách trái nghĩa 3 Chơi chữ bằng phương Chơi chữ bằng cách đảo tiện ngữ pháp trật tự vị trí từ ngữ Chơi chữ theo cách chuyển từ ngữ và rút gọn từ ngữ, câu. Chơi chữ dựa vào cách Sinh viên: Trương Thị Nhung 14 Lớp: K38A Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp ngắt nhịp câu, buông lửng câu 4 Chơi chữ dựa vào phương Chơi vào 2 4.76% Chơi chữ dựa vào tiếng ngữ và tiếng lóng chữ dựa 1 2.38% 2 4.76% 1 2.38% phương ngữ lóng 5 Chơi chữ dựa vào tiền giả Giữ nguyên hình thức định dữ liệu văn học, văn biểu hiện của tiền giả hóa định nhưng thay đổi về nội dung biểu đạt Chỉ chọn một phần ý hoặc lời của tiền giả định và sử dụng với dụng ý không giống tiền giả định Theo như kết quả phân loại thì chơi chữ được chia thành hai cấp độ lớn: - Chơi chữ dựa theo các phương diện ngôn ngữ được biểu hiện trên văn bản (dạng thức 1,2,3,4 – Bảng khảo sát). - Chơi chữ dựa vào tiền giả định là dữ liệu văn hóa,văn học (dạng thức 5 – Bảng khảo sát). Tiểu kết: Từ việc nhận diện đặc điểm ngôn ngữ chúng tôi đi vào khảo sát tư liệu truyện cười dân gian Việt Nam và nhận thấy chơi chữ là một biện pháp nghệ thuật đặc sắc và góp phần quan trọng vào việc tạo ra tiếng cười trong truyện cười dân gian. Kết quả nghiên cứu của chương 1 là cơ sở để chúng tôi tiếp tục đi sâu tìm hiểu về những biểu hiện cụ thể của các dạng thức chơi chữ trong truyện cười dân gian Việt Nam ở chương 2 của khóa luận. Sinh viên: Trương Thị Nhung 15 Lớp: K38A Ngữ Văn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan