Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lễ hội tịch điền ở hà nam...

Tài liệu Lễ hội tịch điền ở hà nam

.PDF
67
161
83

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN THỊ HÒA LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN Ở HÀ NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Việt Nam học HÀ NỘI – 2016 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN THỊ HÒA LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN Ở HÀ NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Việt Nam học Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG HÀ NỘI – 2016 LỜI CẢM ƠN Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS.Nguyễn Thị Việt Hằng ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn chỉ bảo tận tình giúp em hoàn thành khóa luận này. Em cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để em hoàn thành khóa luận. Hà Nội, ngày 24 tháng 04 năm 2016 Ngƣời thực hiện Nguyễn Thị Hòa LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả riêng của bản thân, không trùng với bất cứ một kết quả nào khác. Hà Nội, ngày 24 tháng 04 năm 2016 Ngƣời thực hiện Nguyễn Thị Hòa DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐVSK Đại Việt sử kí NXB Nhà xuất bản TS Tiến sĩ THCS Trung học cơ sở UBND Uỷ ban nhân dân UBMTTQ Uỷ ban mặt trận Tổ quốc VHTT Văn hóa thông tin VHTTDL Văn hóa thông tin du lịch MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5 6. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 5 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 6 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 6 1.1. Lễ hội.......................................................................................................... 6 1.1.1. Khái niệm lễ hội ...................................................................................... 6 1.1.2. Phân loại lễ hội ........................................................................................ 8 1.1.3. Thời gian và không gian diễn ra lễ hội ................................................... 9 1.1.4. Cấu trúc của lễ hội................................................................................... 9 1.1.5. Những giá trị của lễ hội cổ truyền......................................................... 12 1.2. Những đặc trƣng văn hóa của tỉnh Hà Nam............................................. 17 1.2.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên .............................................................. 17 1.2.2. Văn hóa – Xã hội................................................................................... 19 CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐẶC TRƢNG CƠ BẢN CỦA LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN Ở HÀ NAM ..................................................................................................... 24 2.1. Lễ Tịch điền trong hệ thống các nghi lễ nông nghiệp ở Việt Nam.......... 24 2.2. Những đặc điểm cơ bản của lễ hội Tịch điền ở Hà Nam ......................... 29 2.2.1. Nguồn gốc, lịch sử ................................................................................ 29 2.2.2. Không gian, thời gian, địa điểm tổ chức ............................................... 33 2.2.3. Cấu trúc của lễ hội Tịch điền ................................................................ 36 2.2.4. Giá trị của lễ hội .................................................................................... 47 2.2.5. Thực trạng của lễ hội............................................................................. 48 2.2.6. Giải pháp ............................................................................................... 49 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, lễ hội đã trở thành một nét văn hóa không thể thiếu trong đời sống của mỗi ngƣời dân Việt Nam. Lễ hội đƣợc tổ chức thỏa mãn các nhu cầu về vui chơi, giải trí, đặc biệt thỏa mãn nhu cầu về tâm linh. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu về một lễ hội nào đó rất có ý nghĩa thiết thực. Hà Nam là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, có nền văn minh lúa nƣớc lâu đời và nền văn hóa dân gian phong phú thể hiện qua các điệu chèo, hát chầu văn, hầu bóng, ả đào, đặc biệt là hát dậm. Hà Nam cũng đƣợc coi là quê hƣơng của những lễ hội cổ truyền mang đậm bản sắc với trên 100 lễ hội truyền thống, trong đó có 5 lễ hội là: Lễ hội Trần Thƣơng, Lễ hội đền Trúc - Ngũ Động Thi Sơn, Lễ hội Lảng Giang, Lễ hội vật Liễu Đôi và Lễ hội Long Đọi Sơn. Các lễ hội này vẫn duy trì các trò chơi dân gian truyền thống phản ánh tín ngƣỡng cổ xƣa của cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc nhƣ vật cầu, cƣớp cầu, đấu vật, trọi gà, đánh đu…Đặc biệt, vào năm 2009 Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam phối hợp với phòng văn hóa thông tin huyện Duy Tiên và ban văn hóa xã Đọi Sơn cùng toàn thể nhân dân trong xã đã tiến hành phục dựng thành công “Lễ hội Tịch điền”, một nghi lễ cổ truyền có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tín ngƣỡng nông nghiệp. Với tƣ cách là là một sinh viên chuyên ngành Việt Nam học, một ngƣời con đƣợc sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hà Nam, việc nghiên cứu về lễ hội Tịch điền giúp em thấy đƣợc những giá trị về lịch sử và văn hóa của tỉnh Hà Nam. Từ đó, có thể đƣa ra các giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của địa phƣơng trong giai đoạn hiện nay. 1 2. Lịch sử vấn đề Trên thực tế, tuy đã có nhiều ghi chép nghiên cứu, các bài viết về quản lí, tổ chức lễ hội truyền thống ở di tích Long Đọi Sơn (Đọi Sơn - Duy Tiên Hà Nam) nhƣng nghiên cứu về phục dựng lại nghi lễ cày Tịch điền của vua Lê Đại Hành năm 987 thì hoàn toàn chƣa có và các tài liệu khoa học làm căn cứ để phục dựng còn quá ít ỏi. Các sử liệu cổ nhƣ Đại Nam Nhất Thống Chí, Đại Việt sử kí toàn thư, Việt sử lược chỉ có chép vài dòng ngắn ngủi về sự kiện này mà không có bất cứ chi tiết nào miêu tả tỉ mỉ về quy mô của nghi lễ: Theo Việt Sử lược - cuốn sử có niên đại sớm nhất của nƣớc ta: “năm Đinh Hợi, niên hiệu Thiên Trù năm thứ 7 (987), vua Lê Đại Hành cày ruộng Tịch điền ở Đọi Sơn, được một lọ vàng, cày ở núi Bà Hối được một lọ nữa, vua đặt tên đất đó là ruộng Kim Ngân” [6, tr 57]. Đại Việt sử kí toàn thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn vào thế kỉ XV chép về sự kiện này cụ thể hơn: “Đinh Hợi, Thiên Phúc năm thứ 8 (987) mùa xuân vua (Lê Đại Hành) lần đầu cày ruộng Tịch điền ở núi Đọi, được một chĩnh nhỏ vàng, lại cày ở núi Bàn Hải được một chĩnh bạc, vì thế đặt tên là ruộng Kim Ngân” [7, tr.299]. Nay trên nóc nhà thờ tổ chùa Long Đọi Sơn (Duy Tiên - Hà Nam) còn bức phù điêu khắc họa cảnh vua đi cày thời ấy, tục đẹp này truyền mãi gần nghìn năm qua các triều đại lịch sử. Nhƣ vậy, các khối sử cũ đều ghi chép Lê Đại Hành là ông vua đầu tiên dƣới chế độ phong kiến Việt Nam tiến hành lễ cày Tịch điền nhằm mục đích sản xuất nông nghiệp. Đại Việt Sử kí toàn thư còn ghi lại một số sự việc: “…Mùa đông, tháng 10, được mùa to. Ngày 14, vua thân ra ruộng ở Điểu Lộ xem gặt, nhân đổi tên cánh ruộng ấy gọi là ruộng Vĩnh Hưng. Ngày ấy, trở về cung…” (14 tháng 10 năm Canh Ngọ, 1930) [7, tr.287], nhà Lý, năm 1032, “ Mùa hạ, tháng tư, ngày mồng một vua (Lý Thái Tông) ngự đến Tín Hương ở Đỗ Động Giang cày ruộng Tịch điền. Có nhà nông dâng cây lúa thơm chín bông thóc, 2 vua xuống chiếu đổi tên đất ấy là ruộng Ứng Thiên” [7, tr.287 - 288], “ Đến năm 1038 vua ngự ra Bối Hải Khẩu cày Tịch điền. Quan Hữu ty dọn cỏ đắp bờ. Vua tế thần Nông, rồi tự cầm cày. Các quan tả hữu có người tâu rằng: Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần gì phải làm như thế? Nhà vua nói: Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo”. Sử thần Ngô Sĩ Liên dâng lời bàn: “Thái Tông khôi phục lễ cổ, tự mình cày ruộng Tịch điền là nêu gương cho thiên hạ. Trên để cúng tông miếu, dưới để nuôi dân. Công hiệu trị nước dẫn đến dân đông, của giàu, nên thay!” [7, tr.294]. Sách Đại Nam thực lục phần Chính biên đã ghi chép vào tháng 2 năm Mậu Tý (1828) vua Minh Mạng đã ban hành lời Dụ về việc cày ruộng tịch điền nhƣ sau: “Vua bảo bày tôi rằng: “Đời xưa vua cày ruộng tịch điền, để lấy gạo làm xôi tế Giao Miếu, nhân thể để xét thời tiết làm ruộng khuyên tốt nhân dân, thực là việc lớn trong vương chính. Cái điển ba đường cày, sách vở còn chứng. Nước ta đời Trần đời Lê gián hoặc có làm nghi điển ấy, nhưng phần nhiều giản lược. Trẫm từ thân chính đến nay, chăm nghĩ đến dân, thường lấy việc dạy dân chăm nghề gốc làm gấp. Hiện nay triều đình nhàn rỗi, giảng tìm phép xưa, thực là việc nên làm trước. Nên chọn đất ở Kinh thành làm chỗ Tịch điền”. Bèn sai đặt ở hai phường Hậu Sinh và An Trạch, bên tả dựng đài Quan canh, đằng trước làm ruộng đế tịch, đằng sau làm điện thay áo, bên hữu đặt dàn Tiên Nông và đình Thần Thương thu thóc. Sai Trung quân Tống Phước Lương coi làm. Thưởng tiền cho thợ và biền binh làm việc 5000 quan. Lại đặt sở Diễn canh (tập cày) ở phía Bắc cung Thánh Ninh, gọi là vườn Vĩnh Trạch. Sai bộ Lễ bàn định điển lệ. Hàng năm cứ tháng trọng Hạ (tháng 5) chọn ngày tốt làm lễ…[11, tr 21 - 24]. Từ thời nhà Lý đến thời nhà Nguyễn đều tổ chức lễ Tịch điền nhƣ một quốc lễ. Sau một thời gian gián đoạn, năm 2009, lễ hội Tịch điền đƣợc khôi phục lại sau gần 100 năm không tổ chức. Vì 3 vậy, với bài khóa luận tốt nghiệp này sẽ làm sáng tỏ thêm về lễ cày Tịch điền ở Hà Nam một cách khái quát nhất. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở khảo sát thực địa, thu thập tài liệu, khóa luận góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc, bản chất đặc điểm nổi bật của lễ hội Tịch điền ở Hà Nam từ đó giúp cho nhân dân địa phƣơng cùng du khách thập phƣơng có cái nhìn đúng đắn về bản chất, ý nghĩa của lễ hội, giữ gìn phát huy truyền thống tốt đẹp của lễ hội, bên cạnh đó bài khóa luận cũng góp phần làm rõ vị trí của lễ hội Tịch điền trong hệ thống các nghi lễ nông nghiệp ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, làm rõ đƣợc đến các vấn đề liên quan đến lễ hội nói chung từ khái niệm, phân loại, thời gian không gian diễn ra lễ hội, cấu trúc của lễ hội và giá trị của lễ hội. Thứ hai, tìm hiểu về lễ hội Tịch điền ở Hà Nam với các vấn đề nhƣ nguồn gốc, lịch sử, thời gian, địa điểm tổ chức, cấu trúc và các giá trị của lễ hội. Đồng thời cho thấy đƣợc vị trí của lễ hội trong hệ thống các nghi lễ nông nghiệp ở Việt Nam. Thứ ba, tìm hiểu về thực trạng của lễ hội Tịch điền ở Hà Nam từ đó đƣa ra các giải pháp để thúc đẩy sự phát triển của lễ hội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của chính khóa luận là toàn bộ các yếu tố, hiện tƣợng và mọi khía cạnh liên quan đến lễ hội Tịch điền Đọi Sơn thuộc xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là không gian địa lí hành chính, không gian văn hóa của xã Đọi Sơn. Luận văn tập trung nghiên cứu toàn bộ quy trình lễ hội Tịch điền Đọi Sơn thông qua các huyền thoại, huyền tích, 4 nghi thức, trò diễn xƣớng, trò chơi dân gian. Về thời gian, khóa luận đề cập đến nguồn gốc của lễ hội Tịch điền và lễ hội Tịch điền sau khi đƣợc phục dựng từ năm 2009 đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này, tôi đã sử dụng một số biện pháp sau nhƣ: Phƣơng pháp điền dã. Phƣơng pháp thu thập và xử lí thông tin dựa trên nguồn tài liệu thu thập đƣợc nhƣ sách báo, internet, tài liệu của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nam…kết hợp với phƣơng pháp phân tích chọn lọc các dữ liệu vào bài viết một cách hợp lí làm nổi bật vấn đề nghiên cứu. Ngoài ra còn sử dụng phƣơng pháp tiếp cận hệ thống, phƣơng pháp điều tra xã hội học để tiếp cận, giải mã các vấn đề có liên quan đến lễ hội Tịch điền ở Hà Nam. 6. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung chính của khoa luận gồm hai chƣơng: Chƣơng 1: Những vấn đề chung Chƣơng 2: Những đặc trƣng cơ bản của lễ hội Tịch điền ở Hà Nam 5 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Lễ hội 1.1.1. Khái niệm lễ hội Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống mang đậm màu sắc tôn giáo tín ngƣỡng, chứa đựng các giá trị tinh thần, ý nghĩa lịch sử văn hóa, là tấm gƣơng phản chiếu khá trung thực đới sống của mỗi dân tộc, nó ra đời, tồn tại gắn liền với quá trình phát triển của làng xã ngƣời Việt, phản ánh nhiều giá trị trong đời sống của cộng đồng. Khi xã hội ngày một phát triển, cuộc sống con ngƣời càng đòi hỏi cao về tinh thần vui chơi giải trí, tìm hiểu lịch sử văn hóa nghệ thuật, phong tục tập quán thì lễ hội gần nhƣ đáp ứng đầy đủ các yếu tố đó. Đến với lễ hội truyền thống là dịp con ngƣời đƣợc trở về với tự nhiên, về với văn hóa xƣa và về với kí ức cũ. Hàng năm, ở các làng quê Việt Nam cứ đến dịp tết đến, xuân về thì đua nhau mở hội, chính sự tồn tại và phát triển của hội làng đã phản ánh và thể hiện nét đặc sắc của bản sắc văn hóa dân tộc địa phƣơng, vùng miền trong một lãnh thổ quốc gia thống nhất, một nền văn hóa “thống nhất trong sự đa dạng”. Có thể nói, lễ hội ra đời cùng lịch sử, tồn tại và vận hành cùng lịch sử. Lễ hội có từ trƣớc năm 1945 đƣợc gọi là “lễ hội cổ truyền”, “lễ hội dân gian”. Những lễ hội ra đời sau năm 1945 đƣợc gọi là “lễ hội hiện đại”. Và dù là lễ hội dân gian hay lễ hội hiện đại thì ở mỗi nơi, mỗi con ngƣời có cách tiếp cận khác nhau và gọi bằng các tên khác nhau. Có thể kể đến hai dòng tên gọi: Dòng tên gọi dân gian (trò, hội, Đám xứ, Tiệc làng, Việc làng, Hội làng, Làng vào đám, Làng mở hội, Hội hè đình đám). Dòng tên gọi theo các nhà nghiên cứu (Lễ hội, Hội lễ, Lễ hội cổ truyền, Lễ hội dân gian, Liên hoan du lịch làng nghề truyền thống, Ngày hội văn hóa thể thao các dân tộc, Lễ hội văn hóa - 6 thể thao - du lịch, Lễ hội du lịch, Festival). Cách gọi “Lễ hội” về cơ bản đã đi vào đời sống văn hóa ở nƣớc ta và đƣợc đặt trong quy chế tổ chức lễ hội do Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành năm 2001. Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về lễ hội tùy thuộc vào cách tiếp cận: Khi nghiên cứu về những đặc tính và ý nghĩa của lễ hội nƣớc Nga, M.Bachie cho rằng: “Thực chất lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức lễ tế và trò diễn là cuộc sống lao động và chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên, bản thân cuộc sống không thể hình thành lễ hội được nếu như chính nó không được sự thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới của tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại hữu hiệu, đạt tới hiện thực lí tưởng mà ở đó mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả.” [5, tr23]. Xem xét về tính chất và ý nghĩa của lễ hội Nhật Bản, Giáo sƣ Kurahayasi lại định nghĩa: “Xét về tính chất xã hội, lễ hội là quảng trường của tâm hồn, xét về tính chất văn hóa, lễ hội là cái nơi sản sinh và nuôi dưỡng nghệ thuật như mỹ thuật, nghệ thuật giải trí, kịch văn hóa và với ý nghĩa đó, lễ hội tồn tại và có liên quan mật thiết với sự phát triển văn hóa” [5, tr.24]. Ở Việt Nam, trong cuốn Bản sắc văn hóa lễ hội, Thuận Hải cho rằng: “Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự yên bình cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở 7 của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà bao đời nay đã quy tụ vào miền mơ ước chung với bốn chữ “nhân khang vật thịnh” [4, tr.5]. Theo Dương Văn Sáu trong cuốn Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch thì: “Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trong một địa bàn dân cư trong thời gian không xác định, nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại, đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với tự nhiên-thần thánh và con người trong xã hội” [10, tr.35]. Có thể các cách định nghĩa, các cách hiểu khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận nhƣng nhìn chung đều cho rằng, lễ hội tạo ra một môi trƣờng mới, huyền diệu, giúp con ngƣời thỏa mãn nhu cầu tâm linh và nhu cầu giải trí. Chính vì vậy mà lễ hội là một tài nguyên có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ xƣa đến nay. 1.1.2. Phân loại lễ hội Theo Quy chế tổ chức lễ hội [3] lễ hội nƣớc ta gồm bốn loại hình: Lễ hội dân gian Lễ hội tôn giáo Lễ hội lịch sử, cách mạng Lễ hội du nhập từ nƣớc ngoài vào Việt Nam Theo số liệu thống kê của Cục Văn hóa cơ sở (2008), nƣớc ta có khoảng 7.966 lễ hội, trong đó có 7.039 lễ hội dân gian, chiếm 88,36%; 332 lễ hội lịch sử cách mạng, chiếm 4,16%; 544 lễ hội tôn giáo, chiếm 6,82%; 10 lễ hội du nhập từ nƣớc ngoài vào chiếm 0,12%; 40 lễ hội khác, chiếm 0,5%. Các địa phƣơng có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Dƣơng và Phú Thọ. 8 1.1.3. Thời gian và không gian diễn ra lễ hội Lễ hội thƣờng diễn ra vào hai dịp xuân thu: Mùa xuân thì mở màn vụ gieo trồng, mùa thu là để bƣớc vào vụ thu hoạch. Đây chính là các mốc mở đầu và kết thúc, tái sinh một chu kì sản xuất. Qúa trình sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên là chính. Vì vậy,tƣ lúc cắm cây mạ, gieo hạt xuống ruộng nƣơng, ngƣời nông dân chỉ còn biết trông chờ vào sự phù hộ của các lực lƣợng siêu nhiên. Để tăng thêm niềm tin họ tìm mọi cách tác động, cầu xin các lực lƣợng tự nhiên giúp đỡ. Từ đó sinh hoạt lễ hội và các tín ngƣỡng dân gian bắt nguồn từ sự cầu mùa. Do vậy, phần lớn các lễ hội đƣợc tổ chức vào mùa xuân, từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch. Phần khác, một số lễ hội lại đƣợc tổ chức vào mùa thu, từ tháng bảy đến tháng tám âm lịch. Đó là thời gian làng quê đã xong công việc cày bừa, cấy hái. Khoảng thời gian nghỉ ngơi này cũng là dịp để ngƣời dân cảm tạ thần linh phù hộ cho họ một mùa màng đã qua và vừa cầu xin thần linh phù hộ cho một mùa màng sắp tới. Lễ hội thƣờng đƣợc tổ chức ở nơi thờ tự nhƣ: Đình, Đền, Phủ, Miếu, Chùa…Lễ sơ kì xuất phát từ nơi thần linh ngự, nhất là Đình - trung tâm của cả làng, sau đó tỏa ra vùng rộng, ra nhiều điểm để thực hiện các hình thức sinh hoạt văn hóa - nghệ thuật khác. 1.1.4. Cấu trúc của lễ hội Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tổng hợp bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo tín ngƣỡng và văn hoá nghệ thuật, linh thiêng và đời thƣờng…là một sinh hoạt có sức hút một số lƣợng lớn những hiện tƣợng của đời sống xã hội. Lễ hội là dịp để mọi ngƣời hƣớng về một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nƣớc, hoặc liên quan đến những sinh hoạt tín ngƣỡng của nhân dân , hoặc chỉ đơn thuần là những hoạt động có tính chất giải trí. Thông thƣờng lễ hội đƣợc chia thành hai bộ phận: phần lễ và phần hội. 9 Phần lễ là các nghi thức đƣợc thực thi trong lễ hội. Tùy vào tính chất của lễ hội mà nội dung của phần nghi lễ sẽ mang ý nghĩa riêng. Có thể phần nghi lễ mở đầu ngày hội mang tính tƣởng niệm lịch sử hƣớng về một sự kiện lịch sử trọng đại, tƣởng niệm một vị anh hùng dân tộc. Cũng có thể phần lễ là nghi thức thuộc về tín ngƣỡng, tôn giáo bày tỏ lòng tôn kính đối với các bậc thánh hiền và thần linh, cầu mong đƣợc những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Phần nghi lễ có ý nghĩa quan trọng và thiêng liêng, chứa đựng những giá trị văn hóa truyền thống, giá trị thẩm mĩ và triết học sâu sắc của cộng đồng. Nó mang trọn ý nghĩa hấp dẫn của lễ hội đến với du khách. Phần nghi lễ chính là phần hạt nhân của lễ hội. Lễ hội là một sự kiện thực hiện rất nhiều nghi thức mang tính bắt buộc. Các nghi thức này đƣợc tiến hành theo một trình tự chặt chẽ, nghiêm ngặt từ khi chuẩn bị lễ hội cho đến khi hết hội. Thông thƣờng một lễ hội có các nghi lễ: lễ mộc dục, lễ tế gia quan, lễ rƣớc, lễ tế khai hội và tế giã đám. Lễ mộc dục (lễ tắm tƣợng thần hay thần vị): lễ này thƣờng đƣợc tiến hành vào nửa đêm hôm trƣớc ngày khai hội. Trƣớc khi làm lễ mộc dục, có nơi ngƣời ta tổ chức lễ rước nước.Trƣớc khi thực hiện việc tắm tƣợng (lau chùi tƣợng thờ) phải làm lễ cáo thần. Sau lễ mộc dục là tế gia quan (mặc áo, đội mũ cho tƣợng thần). Nếu thần không có tƣợng mà chỉ có bài vị (thần vị) thì áo mũ đặt lên ngai. Sau đó tƣợng thần (hay thần vị, hoặc có khi chỉ là áo mũ) đặt lên kiệu, chuẩn bị cho đám rƣớc thần sáng ngày khai hội. Lễ rƣớc: trong một lễ hội thƣờng có rƣớc thần, rƣớc thành hoàng, rƣớc văn hay rƣớc nƣớc. Lễ rƣớc thần hay rƣớc thành hoàng thƣờng cử hành trƣớc khi vào lễ khai hội và kết thúc hội. Nội dung, ý nghĩa của lễ rƣớc ở mỗi lễ hội đều có sự khác biệt về đối tƣợng rƣớc, cách thức tiến hành, trình tự đoàn rƣớc, thành phần ngƣời tham gia... Trong số các lễ rƣớc thì rƣớc thần và rƣớc nƣớc phổ biến hơn cả. Lễ hội thƣờng tôn vinh đối tƣợng thiêng, đó là 10 “Thánh”, “Thần”, nhƣng thánh và thần thƣờng đƣợc thờ ở đền, miếu. Đa số lễ hội thƣờng đƣợc tổ chức ở đình làng, đền, nơi rộng rãi tiện cho việc hành lễ và tổ chức các trò chơi. Do vậy trƣớc khi khai hội, ngƣời ta thƣờng tổ chức cuộc rƣớc thần đi theo lộ trình từ đền hoặc đình về nơi hành lễ, xong hội lại rƣớc thần trở lại nơi thờ cũ. Sau lễ rƣớc sẽ là lễ tế thần và khai hội. Đặc biệt có nơi, trong dịp lễ hội ngày nào cũng có rƣớc, lễ rƣớc này không phải rƣớc thần mà là rước sớ (rước văn), tức bài văn cúng thần. Mỗi ngày ngƣời ta cúng thần bằng một bài sớ riêng. Trong đám rƣớc văn, bài sớ cũng đƣợc đặt lên kiệu rƣớc, gọi là kiệu văn. Lễ rƣớc trong các lễ hội truyền thống thƣờng quy định ngƣời trực tiếp tham gia rƣớc phải là nam giới tuổi từ mƣời tám trở lên, không có phụ nữ, trừ một vài lễ hội thờ nữ thần (nhƣ lễ hội Phủ Dày, lễ hội Hạ Lôi) đoàn rƣớc lại chủ yếu do nữ đảm nhiệm. Ngƣời tham gia rƣớc (gọi là giai đô), là những ngƣời đƣợc dân làng lựa chọn, cắt cử. Họ là những chàng trai khoẻ mạnh, có tài có đức, không có điều tiếng đáng chê trách trong làng xóm. Ai đƣợc chọn trong đội rƣớc là vinh dự cho bản thân và gia đình. Đám rƣớc khi đi đƣờng có biểu tƣợng riêng để tránh sự trùng lặp giữa các nhóm cộng đồng. Trƣớc khi khởi hành, chiêng, trống nổi lên từ trong đền, đình (trƣớc đây đốt pháo). Thƣờng từ nửa đêm, tiếng trống đã gióng liên hồi để mọi ngƣời đều biết, ai có phận sự phải lo sửa soạn trƣớc. Ngày xƣa thƣờng đốt pháo lệnh trƣớc khi đám rƣớc bắt đầu. Phần hội là phần có tổ chức những trò chơi, thi đấu biểu diễn. Mặc dù cũng hàm chứa những yếu tố văn hóa truyền thống nhƣng phạm vi nội dung của nó không khô cứng mà hết sức linh hoạt, luôn luôn đƣợc bổ sung bằng những yếu tố văn hóa mới. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy nơi nào bảo tồn và phát triển đƣợc những nét truyền thống trong phần hội với những trò chơi mang tính dân gian thì lễ hội nơi đó có giá trị hơn. Thông thƣờng phần hội gắn với tình yêu, giao duyên nam nữ. Một số trò chơi dân gian thƣờng đƣợc 11 tổ chức trong các dịp lễ hội nhƣ đánh đu, kéo co, bơi chải, chọi gà, đấu vật, cờ ngƣời, các hội thi diễn xƣớng hát chèo, quan họ, chầu văn…Cũng có những lễ hội mà ở đó hai phần lễ và phần hội hòa quyện với nhau, trong đó trọng tâm là phần hội, nhƣng bản thân phòng hội đã mang trong mình ý nghĩa tâm linh của phần lễ. Thực ra, tách biệt ra các phần kể trên cũng chỉ là để xem xét cho rõ ràng để nhìn nhận, còn trong lễ hội tất cả luôn đan xen với nhau một cách linh hoạt. Có thể lúc trong đình đang làm lễ rất long trọng thì ngoài sân đình hay xung quanh đó lại diễn ra các trò chơi. Lễ hội nói chung là một hiện tƣợng văn hóa tổng hợp trong đó các yếu tố của nó đan xen, liên kết chặt chẽ với nhau nhƣng đồng thời cũng tác động, bổ sung cho nhau để tạo nên bộ mặt hoành tráng của lễ hội mà ta còn thấy đến bây giờ. Lễ hội nào về cấu trúc cũng thể hiện lễ trƣớc hội sau, gần nhƣ là một tục lệ bắt buộc có tính truyền thống. Sự khác nhau chỉ là ở các nghi thức lễ, nghi thức hội, các diễn xƣớng, các tích trò, các cuộc thi, thời gian mở hội và thời gian kéo dài đến bao giờ. Những sự khác biệt về nội dung của hội, trƣớc hết đó là vị thần linh nào mà làng, hoặc vùng thờ, chính vị thần linh đƣợc thờ đó sẽ quyết định các hình thức hội diễn (chẳng hạn thần linh là nhiên thần sẽ khác thần linh là nhân thần, thần linh là anh hùng dân tộc sẽ khác với thần linh là tổ sƣ dạy nghề). Ngoài ra còn có sự khác nhau về phong tục tập quán và hoàn cảnh tự nhiên, xã hội của làng (vùng), nơi tiến hành lễ hội. 1.1.5. Những giá trị của lễ hội cổ truyền Lễ hội là yếu tố vừa đặc trƣng cho mỗi dân tộc, vừa góp phần làm cho văn hóa đất nƣớc đặc sắc hơn. Lễ hội là sự kết tinh thành quả lao động sản xuất, chiến đấu của các cá nhân, tập thể trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc. Lễ hội còn là dịp hội tụ, kết tinh và lan tỏa những giá trị văn hóa đƣợc hun đúc trong quá trình phát triển di lên của đất nƣớc. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tổng hợp bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn 12 giáo tín ngƣỡng và văn hóa nghệ thuật, linh thiêng và đời thƣờng…là một sinh hoạt có sức hút một số lƣợng lớn những hiện tƣợng của đời sống xã hội. Đánh giá về vai trò của lễ hội đối với sự phát triển của xã hội hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau. Qua nghiên cứu và tìm hiểu, trong xã hội đƣơng đại lễ hội truyền thống còn giữ đƣợc rất nhiều những giá trị có thể kể đến nhƣ: Giá trị cố kết cộng đồng, lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng ngƣời nhất định, đó có thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, nhƣ gia tộc, dòng họ. Chính lễ hội là dịp biểu dƣơng sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng. Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, nhƣ gắn kết do cùng cƣ trú trên một lãnh thổ (cộng cƣ), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lƣợng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hƣởng thụ văn hoá (cộng cảm). Lễ hội là môi trƣờng góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng. Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con ngƣời càng ngày càng khẳng định “cái cá nhân”, “cá tính” của mình nhƣng không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con ngƣời vẫn phải nƣơng tựa vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện nhƣ vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tƣợng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kêt cộng đồng ấy. Giá trị hướng về cội nguồn, tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hƣớng về nguồn, đó là nguồn cội tự nhiên mà con ngƣời từ đó sinh ra, nguồn cội cộng đồng nhƣ dân tộc, đất nƣớc, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hóa…hơn thế nữa, hƣớng về nguồn đã trở thành tâm thức của con ngƣời Việt Nam “uống 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan