Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ việt nam giai đoạn 1954 1975 (khảo sát qua mộ...

Tài liệu Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ việt nam giai đoạn 1954 1975 (khảo sát qua một số hiện tượng tiêu biểu)

.PDF
62
142
97

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN NGỌC ANH DIỄN NGÔN VỀ PHỤ NỮ TRONG THƠ NỮ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1975 (Khảo sát qua một số hiện tƣợng tiêu biểu) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lý luận văn học Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu từ phía nhà trường, các thầy cô, gia đình và bạn bè. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ThS. Nguyễn Thị Vân Anh, người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện để tôi kịp hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Cuối cùng tôi xin được cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên cạnh, động viên, khuyến khích tôi trong suốt thời gian qua. Hà Nội, tháng năm 2016 Người viết Nguyễn Ngọc Anh LỜI CAM ĐOAN Dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình của ThS. Nguyễn Thị Vân Anh, sau một thời gian cố gắng, tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp: Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975. Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là trung thực, không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng tất cả những thông tin trích dẫn trong báo cáo đã được ghi rõ nguồn gốc. Hà Nội, tháng năm 2016 Người viết Nguyễn Ngọc Anh MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5 5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6 7. Dự kiến đóng góp của khóa luận................................................................... 6 8. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 6 Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ DIỄN NGÔN .................................................. 7 1.1. Một số hướng tiếp cận diễn ngôn ............................................................... 8 1.1.1. Hướng tiếp cận ngôn ngữ học ............................................................................ 8 1.1.2. Hướng tiếp cận phong cách học ......................................................................... 9 1.1.3. Hướng tiếp cận xã hội học ................................................................................11 1.2. Khái niệm diễn ngôn (theo Foucault) ...................................................... 13 1.3. Cấu trúc và sự vận hành của diễn ngôn ................................................... 15 Chƣơng 2. CƠ CHẾ KIẾN TẠO DIỄN NGÔN VỀ PHỤ NỮ TRONG THƠ NỮ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1975 ........................................ 19 2.1. Ý nghĩa của việc tiếp cận vấn đề phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam từ góc nhìn diễn ngôn ................................................................................................. 19 2.2. Cơ chế kiến tạo diễn ngôn ........................................................................ 28 2.2.1. Cái nhìn xã hội hóa về giới nữ như một nguyên tắc kiến tạo diễn ngôn ......28 2.2.2. Phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”....................31 2.2.3. Tình yêu lứa đôi hòa quyện trong tình yêu Tổ quốc ......................................44 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thế kỉ XX là thế kỉ của lí luận phê bình văn học. Trong bối cảnh nhiều lí thyết văn học ra đời, mở ra những cách tiếp cận khác nhau đối với văn học như: chủ nghĩa cấu trúc, thi pháp học, văn hóa học… thì sự ra đời của lí thuyết diễn ngôn đã tạo ra một cách tiếp cận mới mẻ nhưng cũng gây nên không ít tranh cãi. Cách tiếp cận này không đi sâu tìm hiểu các đặc trưng thẩm mỹ, mà chủ yếu đi vào nghiên cứu tác phẩm ở phương diện tư tưởng, thế giới quan; nghiên cứu cách nhà thơ, nhà văn kiến tạo thế giới và bộc lộ cách cảm, cách nghĩ của họ về một vấn đề nào đó của đời sống trong văn học. Như thế, khi đặt vấn đề nghiên cứu Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 (Khảo sát qua một số hiện tượng tiêu biểu), tức là ta không chỉ nghiên cứu ngôn từ thẩm mỹ của tác phẩm mà chủ yếu tập trung các quy tắc tư tưởng xã hội đã chi phối cảm xúc và sáng tác của các nhà thơ. Trên thực tế sáng tác, việc nhà thơ “nói” gì, nói như thế nào không chỉ phụ thuộc vào ngôn ngữ mà còn phụ thuộc vào hệ thống tri thức của mỗi thời đại và tính quyền lực của tri thức đó. Cho nên, văn học trong từng giai đoạn lịch sử chỉ được kiến tạo theo những hệ tri thức nhất định, tạo nên hệ quả là ngôn ngữ được nhà thơ sử dụng trong tác phẩm, không chỉ là công cụ phản ánh, mà còn là nội dung, là sự kiến tạo nội dung. Như thế, cách nghiên cứu từ góc nhìn diễn ngôn mà chúng tôi sử dụng, cho dù không mâu thuẫn hay bác bỏ những cách nghiên cứu trước đây, nhưng nó lại cho phép xem xét văn học ở những bình diện mới mẻ. Đây là kiểu nghiên cứu liên ngành, cho thấy được mối quan hệ khăng khít giữa văn học và tư tưởng; giữa văn học và văn hóa, giữa tính xã hội và tính thẩm mỹ. Thơ nữ giai đoạn 1954 - 1975, với các sáng tác nổi bật của Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi, Lê Thị Mây, Nguyễn Thị Hồng Ngát mang đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về cái tôi cá 1 nhân độc đáo của người phụ nữ. Ta thấy một Xuân Quỳnh mãnh liệt khao khát tình yêu và hạnh phúc, một trái tim dám sống hết mình cho đời và cho thơ; một Phan Thị Thanh Nhàn nhẹ nhàng, e ấp, kín đáo; Lâm Thị Mỹ Dạ hồn nhiên, trầm lắng; Ý Nhi, Lê Thị Mây; Nguyễn Thị Hồng Ngát với những triết lí, suy tư, chiêm nghiệm. Thơ các chị mang những khát vọng âm thầm, mãnh liệt trong tình yêu đất nước cũng như tình yêu riêng tư, khao khát một cuộc sống yên bình. Những người phụ nữ tự cảm nhận về cuộc sống, về đất nước và về tình yêu đầy độc đáo và mang nhiều xúc cảm. Đó là những tiếng nói cá nhân không thể trộn lẫn với bất kì ai. Đặc biệt, các nhà thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn là những tác giả tiêu biểu nhất trong số những nhà thơ nữ giai đoạn này. Sáng tác của các chị được độc giả yêu thích, không chỉ bởi nội dung phong phú và sâu lắng, mà còn bởi cái ý, cái tình được gửi gắm vào trong thơ đầy xúc động, nữ tính. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 làm đối tượng nghiên cứu cho bài khóa luận của mình. Qua việc tìm hiểu diễn ngôn về phụ nữ của các nhà thơ nữ, chúng tôi mong muốn góp phần khẳng định những giá trị nổi bật mà thơ nữ thế hệ chống Mỹ đã đóng góp cho nền văn học hiện đại, đồng thời chỉ ra những ưu điểm, triển vọng của cách tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn diễn ngôn. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Về vấn đề nghiên cứu diễn ngôn ở Việt Nam Từ khi thuật ngữ diễn ngôn được biết đến ở Việt Nam, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về diễn ngôn, trong đó có các sách dịch và giáo trình biên soạn như: Đại cương ngôn ngữ học (tập 2) của Đỗ Hữu Châu; Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản của Diệp Quang Ban… Tuy nhiên, những công trình này đều đặt diễn ngôn trong bối cảnh lý thuyết trước hậu cấu trúc, tiếp 2 cận diễn ngôn dưới góc độ ngữ dụng học, chú trọng phân tích ngôn ngữ, cắt nghĩa, lí giải lời nói. Một số nghiên cứu cụ thể như: Khía cạnh văn hóa của ngôn ngữ hay Nghiên cứu diễn ngôn chính trị - xã hội của Nguyễn Hòa, hoặc Tìm hiểu và phân tích diễn ngôn phê bình của Diệp Quang Ban… Những công trình trên không chỉ giúp làm rõ khái niệm diễn ngôn trong văn học mà còn mở ra các hướng tiếp cận diễn ngôn trong văn học cụ thể như ngôn ngữ học và phong cách học. Thời gian gần đây khái niệm diễn ngôn đã xuất hiện rất nhiều trong các bài nghiên cứu đủ loại, nhiều đến mức không sao có thể định nghĩa thông suốt hết. Đã có rất nhiều định nghĩa về diễn ngôn, theo các góc độ khác nhau, ngôn ngữ, văn hóa, song về lí luận văn học thì còn rất ít… Nhiều nhà khoa học xác nhận đó là khái niệm còn bỏ ngỏ, mỗi người nghiên cứu sử dụng theo những cách hiểu khác nhau. Lý thuyết diễn ngôn của Foucault ra đời tạo nên một dấu ấn đặc biệt trong khoa học lí luận, đồng thời thu hút sự chú ý quan tâm lớn của nhiều nhà nghiên cứu trên khắp thế giới. Ở Việt Nam, cho đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ nào về quan niệm diễn ngôn của Foucault được xuất bản, song cũng có không ít các công trình nghiên cứu bàn về diễn ngôn có ý nghĩa quan trọng trong lí luận. Đáng chú ý nhất là cuốn Diễn ngôn của Sara Mills (Trần Văn Toàn, Trần Ngọc Hiếu, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Lương Thị Hiền, Đinh Minh Hằng dịch). Cuốn sách đã đưa ra những phân tích cụ thể cho thấy sự phát triển trong quan niệm của Foucault về diễn ngôn, đồng thời chỉ rõ việc sử dụng ngôn ngữ chính là hình thức mã hóa của tri thức và quyền lực. Ngoài ra, không thể không nhắc đến những công trình dịch và nghiên cứu quan trọng như Văn học như một hình thức diễn ngôn - dịch và giới thiệu những khái niệm cơ bản và Ba cách tiếp cận diễn ngôn của Nguyễn Thị Ngọc Minh; Foucault về diễn ngôn và Mô hình phát triển kiến thức theo Michel Foucault của Cao Việt Dũng… 3 Tuy chưa có một giáo trình chính thức nào trình bày thống nhất về lý thuyết diễn ngôn (theo Foucault), song những tiền đề trên thực sự là những gợi mở đáng quý, mang tính định hướng sâu sắc trong việc tiếp cận đề tài diễn ngôn của chúng tôi. 2.2. Về thơ nữ thế hệ chống Mỹ 1954 - 1975 Mỗi nhà thơ đều có phong cách biểu hiện riêng nhưng xuyên suốt như một sợi chỉ đỏ làm gắn kết giữa ba hồn thơ tiêu biểu ấy là tiếng nói sẻ chia với những con người kháng chiến, là tấm lòng canh cánh của hậu phương hướng ra mặt trận. Bao nhiêu tình yêu, tình đồng đội, người thân, nỗi niềm suy tư, trăn trở về tình yêu, lẽ sống và hạnh phúc riêng tư các chị gửi trọn trong thơ. Thông qua những sáng tác của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ và Phan Thị Thanh Nhàn chúng ta thấy hiện lên chân dung ba nhà thơ nữ giản dị, giàu nữ tính, nhân hậu và thuần khiết, sáng tạo và trẻ trung song lấp lánh tình đời, tình người và lẽ sống. Sự trường tồn của những sáng tác thơ của các chị góp phần làm sống lại những năm tháng gian khổ và hào hùng trong kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta. Tình yêu quê hương, đất nước, con người và triết lý nhân sinh được các chị chắt lọc từ cuộc sống dung dị đời thường thành thơ sâu lắng và hấp dẫn người đọc bởi sự tinh tế, giản dị. Thơ nữ chống Mĩ cứu nước đã được nhắc đến trong một số công trình nghiên cứu và được nhấn mạnh ở sắc thái thiên tính nữ, sự mới mẻ, sáng tạo của các nhà thơ nữ. GS. Hà Minh Đức cũng khẳng định các gương mặt nữ thời chống Mỹ cứu nước đều là những “cây bút trẻ có năng lực” và họ đã “có những đóng góp riêng đáng quý tạo cho nền thơ một sự phát triển cân đối, có tiềm lực, có bộ mặt mới rất tươi trẻ”. Mảng thơ tình của các nhà thơ nữ thường được quan tâm nhiều. Chúng tôi cho rằng thơ tình Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn có sức hấp dẫn rất lớn, nhưng là các nhà thơ nữ thế hệ chống Mỹ cứu nước, họ còn có những mảng thơ khác cần được khai thác, góp phần làm nên diện mạo một giai đoạn thơ rất đặc biệt trong lịch 4 sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt, dưới góc nhìn diễn ngôn, sự soi chiếu về các sáng tác của ba nhà thơ nữ thế hệ chống Mỹ sẽ mang đến những cái nhìn mới mẻ hơn, sâu sắc hơn cho độc giả. 3. Mục đích nghiên cứu Với đề tài nghiên cứu: Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 nhằm mục đích: Vận dụng các thao tác có tính chất phương pháp luận của lý thuyết diễn ngôn nhằm tìm hiểu đặc điểm diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975. Trên cơ sở đó, khóa luận từng bước chỉ ra các yếu tố nằm trong cơ chế kiến tạo loại hình diễn ngôn này. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là Diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975(Khảo sát qua một số hiện tượng tiêu biểu). 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của khóa luận, chúng tôi tiến hành tập trung khảo sát các tác phẩm của một số nhà thơ nữ tiêu biểu như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu, đưa dẫn chứng về một số bài thơ của các nhà thơ cùng thời như Tố Hữu, Bằng Việt, Vân Đài, Nguyễn Thị Hồng Ngát được sáng tác ở giai đoạn chống Mỹ này nhằm đối sánh và làm sáng tỏ những biểu hiện đặc thù của diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Trước hết, người viết tiến hành tìm hiểu các quan niệm về diễn ngôn, trong đó tập trung hơn cả đến quan niệm của Foucault về diễn ngôn. Tiếp đó, chúng tôi ứng dụng lí thuyết của Foucault để soi chiếu, khảo sát trên những sáng tác của ba nhà thơ nữ tiêu biểu thế hệ chống Mỹ: Xuân Quỳnh, Lâm Thị 5 Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, và chỉ ra những nét nổi bật của diễn ngôn về phụ nữ cũng như diễn ngôn về tình yêu trong sáng tác của các nhà thơ này. Từ đó, khóa luận góp phần khẳng định vai trò và giá trị to lớn của thơ nữ thế hệ chống Mỹ trong tiến trình văn học Việt Nam. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Để tiếp cận đề tài, khóa luận sử dụng các phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp phân tích và tổng hợp. - Phương pháp so sánh đối chiếu. - Phương pháp hệ thống. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp như xã hội học, phương pháp liên ngành… để rút ra những luận điểm đặc trưng và khái quát nhất cho vấn đề. 7. Dự kiến đóng góp của khóa luận Khóa luận là công trình nghiên cứu mới với nội dung diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ thế hệ chống Mỹ (Khảo sát qua một số hiện tượng tiêu biểu là Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn). Khi nghiên cứu về đề tài này, chúng tôi hy vọng rằng đây sẽ là một đóng góp nhỏ vào việc ứng dụng các lí thuyết về diễn ngôn trong việc phân tích và tìm hiểu những tác phẩm cụ thể. 8. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, Nội dung của bài khóa luận được triển khai theo 2 chương: Chương 1. Khái quát về diễn ngôn Chương 2. Cơ chế kiến tạo diễn ngôn về phụ nữ trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 6 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 KHÁI QUÁT VỀ DIỄN NGÔN Thời gian gần đây, trong nghiên cứu văn học, xã hội học, khái niệm diễn ngôn được sử dụng tương đối nhiều trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn như: triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, tâm lí học, nghiên cứu văn học..., song việc xác định nội hàm và các nội dung cơ bản của nó dường như vẫn chưa được xác định rõ nét. Mỗi nhà nghiên cứu tìm cho mình những quan niệm và dấu hiệu biểu hiện khác nhau về diễn ngôn. Chính vì thế, việc xác định nó vẫn như là một câu hỏi còn để ngỏ. Theo nghiên cứu của Manfred Frank, diễn ngôn (discourse) được bắt nguồn từ tiếng Latinh “discourus”, mà từ này có gốc động từ là “discoursere” có nghĩa là tán chơi, nói huyên thuyên. Như vậy, diễn ngôn là một lối nói, cách nói hoặc một lượt nói có độ dài không xác định, sự triển khai không bị hạn định, bởi chú ý nghiêm ngặt. Trong tiếng Pháp, nghĩa của từ diễn ngôn gần với từ tán gẫu, nói chuyện phiếm, kể chuyện,… Theo https://trandinhsu.wordpress.com/2015/01/04/khai-niem-dien-ngon, khái niệm diễn ngôn được định nghĩa: “Hiểu tổng quát, diễn ngôn là thực tiễn giao tiếp của con người trong xã hội. Nhấn mạnh thực tiễn giao tiếp xã hội để phân biệt với lời nói cá nhân”. Còn trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học tập 2, Đỗ Hữu Châu đã trích dẫn khái niệm diễn ngôn nghiêng về phương diện ngôn ngữ như sau: “Diễn ngôn là một thuật ngữ chung chỉ cách dùng ngôn ngữ, tức chỉ các sản phẩm ngôn ngữ được tạo ra do một hành động giao tiếp nào đấy”. Tác giả cuốn The Routledge dictionary of literature terms lại khẳng định rằng: “Cho đến nửa sau thế kỉ 20, thuật ngữ diễn ngôn vẫn mang ý nghĩa cơ bản là sự trình bày một vấn đề cụ thể bằng cách nói hay viết theo một trật tự trước sau”. 7 Từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX, nghiên cứu diễn ngôn (hay còn gọi là phân tích diễn ngôn) trở thành một trào lưu khoa học phát triển rầm rộ ở châu Âu và diễn ngôn trở thành một khái niệm trung tâm, được lưu hành rộng rãi trong khoa học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, ta cũng có thể thấy rõ, khái niệm diễn ngôn được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Các nội dung định nghĩa đó có thể khác xa nhau hay mâu thuẫn với nhau, qua đó càng chứng tỏ tính phức tạp và nội hàm chưa được xác định rõ của thuật ngữ khoa học này. 1.1. Một số hƣớng tiếp cận diễn ngôn Trong lí luận hiện nay, có ba khuynh hướng nghiên cứu về diễn ngôn. Một là ngôn ngữ học do các nhà ngôn ngữ học đề xuất, mà tiêu biểu là F. de Sausure. Hai là lí luận văn học do M. Bakhtin nêu ra và ba là xã hội học, lịch sử tư tưởng mà tiêu biểu là Foucault. Các thuật ngữ như diễn ngôn tính dục, diễn ngôn chính trị, diễn ngôn nữ quyền… đều dùng theo hướng xã hội học, nhìn văn học theo góc độ xã hội học. Về các hướng tiếp cận khái niệm diễn ngôn, công trình nghiên cứu Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Minh (2010) đã chỉ ra: “Con đường thông minh nhất khi tiếp cận thuật ngữ này là đặt nó vào những bối cảnh, nét nghĩa nào được khai triển và sáng tạo thêm”. Theo đó, tác giả này đã đưa ra ba hướng tiếp cận khái niệm diễn ngôn. Chúng tôi xin được trích dẫn một cách khái quát như sau: 1.1.1. Hướng tiếp cận ngôn ngữ học Nền tảng cơ sở của hướng tiếp cận diễn ngôn từ phương diện ngôn ngữ học là những luận điểm của F.de Sausure trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học đại cương. Trong công trình này, Sausure phân biệt ngôn ngữ với lời nói. Ngôn ngữ là một hệ thống, một kết cấu tinh thần trừu tượng, khái quát trong khi lời nói là sự vận dụng ngôn ngữ trong những hoàn cảnh cụ thể, bởi các cá nhân cụ thể. Sausure còn chỉ ra, đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là 8 ngôn ngữ, sản phẩm của xã hội kết tinh lại trong trí óc của mỗi người chứ không phải là lời nói. Sự đối lập lời nói/ ngôn ngữ trong quan điểm của Saussure đã làm nền tảng cho sự phân biệt giữa discourse (diễn ngôn) và text (văn bản). Văn bản (text) là cấu trúc ngôn ngữ mang tính chất tĩnh, còn diễn ngôn (discourse) là cấu trúc lời nói mang tính động. Trong giai đoạn này, do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi ngôn ngữ học Saussure và chủ nghĩa cấu trúc, các nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ tập trung vào khám phá cấu trúc tĩnh tại, bất biến của các diễn ngôn và văn bản. Tư tưởng này đã loại trừ tất cả thuộc tính ngẫu nhiên, cá thể của lời nói, chỉ chú ý đến phương diện ổn định, bất biến của ngôn ngữ như một bản thể xã hội. Và đối tượng hướng tới của các nhà nghiên cứu không phải là những văn bản/diễn ngôn cụ thể, mà họ chỉ coi đó là chất liệu, thông qua việc phân tích các văn bản/ diễn ngôn, họ cố gắng chỉ ra những cấu trúc khái quát, những thuộc tính bản chất của văn học nói chung. Mỗi nhà nghiên cứu đều cố gắng tìm ra một mô hình phi thời gian cho các văn bản, theo những cách thức khác nhau. Như vậy là, dưới cái nhìn của các nhà cấu trúc, tất cả các hành động của con người và các cơ cấu tổ chức của xã hội đều liên quan đến ngôn ngữ, và có thể được tìm hiểu như một hệ thống gồm các yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau. Như thế, diễn ngôn cũng là một cấu trúc khép kín, nội tại, được cấu thành từ những yếu tố bất biến là các phạm trù ngữ pháp như thời, thức, thể, giọng, ngôi… Cách tiếp cận này đã khiến cho nhà nghiên cứu, khi phân tích diễn ngôn, đặc biệt chú trọng đến phương diện cấu trúc và nỗ lực tìm kiếm những mô hình ngôn ngữ mang tính chất tĩnh - cái cơ chế ẩn tàng của tổ chức ngôn từ trong văn bản cũng như diễn ngôn. 1.1.2. Hướng tiếp cận phong cách học Có thể coi M.Bakhtin là người khởi nguồn cho một truyền thống mới trong nghiên cứu diễn ngôn. Tư tưởng về diễn ngôn của Bakhtin có vai trò 9 như một bản lề, hay một cầu nối bắc từ quan niệm về diễn ngôn của ngôn ngữ học cấu trúc sang quan niệm diễn ngôn của các trường phái lí luận hậu hiện đại. Trong các trước tác của Bakhtin, ta có thể thấy sự đối thoại và phủ định đối với rất nhiều những quan điểm về ngôn ngữ học được lưu hành phổ biến trong thời đại của ông, đặc biệt là những quan điểm ngôn ngữ được triển khai trên cơ sở tư tưởng của Saussure. Nếu như hướng tiếp cận ngôn ngữ học về diễn ngôn được hình thành trên cơ sở ngôn ngữ học Saussure thì hướng tiếp cận phong cách học về diễn ngôn lại được phát triển dựa trên nền tảng đối lập với những quan điểm của Saussure về ngôn ngữ. Bakhtin phê phán ngôn ngữ học hàn lâm chỉ tập trung nghiên cứu phương diện cấu trúc của ngôn ngữ mà không chú ý đến bình diện sinh thành của ngôn ngữ, tức là ngôn ngữ trong đời sống, trong giao tiếp. Ông đề xuất một lĩnh vực nghiên cứu mới mà ông gọi là “siêu ngôn ngữ”, có nghĩa là ngôn ngữ như một thực thể đa dạng, sống động, mang tính lịch sử chứ không phải là ngôn ngữ như một hệ thống mang tính chất tĩnh, khép kín và trừu tượng. Bởi vậy, diễn ngôn (hay lời nói) (discourse), là khái niệm trung tâm trong quan điểm của Bakhtin về ngôn ngữ. Ông cho rằng, diễn ngôn là ngôn ngữ trong chỉnh thể sống động, cụ thể, là ngôn ngữ trong sử dụng, trong bối cảnh xã hội, của những giọng xã hội mâu thuẫn và đa tầng. Cũng chính bởi vậy, Bakhtin nhấn mạnh, đối thoại là bản chất của diễn ngôn. Mỗi người nói không phải là người nói đầu tiên, mà đều là người trả lời, là người đối thoại với hàng ngàn những người nói trước đó. Người nghe cũng sẽ không phải là người lắng nghe một cách thụ động mà là người chủ động hồi đáp. Lời nói của chúng ta, vì thế, “được hình thành và phát triển trong sự tác động qua lại, thường xuyên, liên tục với những phát ngôn của các cá nhân khác”. Trong thực tế, các phát ngôn thường liên kết với nhau và được tổ chức trong những hình thức ổn định mà ông gọi là các thể loại lời nói. Thể loại lời 10 nói là những loại hình phát ngôn tương đối bền vững, được sản sinh ra trong một phạm vi sử dụng ngôn ngữ cụ thể, là một chỉnh thể bao gồm ba bình diện: nội dung chủ đề, phong cách và tổ chức kết cấu. Như vậy, với một quan niệm mới về diễn ngôn, Bakhtin đã đưa ngôn ngữ học rẽ sang một bước ngoặt mới: chuyển từ nghiên cứu ngôn ngữ như một thực thể tĩnh tại, khép kín và biệt lập sang nghiên cứu ngôn ngữ trong giao tiếp, trong thực tiễn đời sống đa dạng và sinh động. Nếu Saussure nhấn mạnh đến tính cấu trúc của ngôn ngữ thì Bakhtin đặc biệt quan tâm đến tính đối thoại của lời nói. Nếu các lý thuyết văn học được triển khai trên nền tảng ngôn ngữ học cấu trúc có xu hướng đồng qui các văn bản/ diễn ngôn vào những mẫu số chung thì lý thuyết văn học của Bakhtin nhằm chỉ ra sự phức tạp, đa diện và biến đổi không ngừng của các văn bản/ diễn ngôn trong lịch sử. Quan niệm về tính lịch sử, tính xã hội này của diễn ngôn sau này sẽ gặp gỡ, hay cũng có thể nói, sẽ đặt nền tảng cho một sự chuyển hướng cực kì quan trọng trong tư duy lý thuyết thế kỉ XX: trào lưu giải cấu trúc. 1.1.3. Hướng tiếp cận xã hội học Trung tâm điểm của hướng tiếp cận thứ ba này là những quan niệm về diễn ngôn của M.Foucault, người được coi là ông tổ của các lý thuyết hậu hiện đại và có ảnh hưởng lớn nhất đến nghiên cứu diễn ngôn từ sau những năm 1960. Nếu coi quyền lực và tri thức là hai mối quan tâm lớn nhất của Foucault thì diễn ngôn là một mắt xích quan trọng không thể thiếu của hai yếu tố này. Foucault chỉ ra mối quan hệ phức tạp giữa diễn ngôn và quyền lực. Từ đó, Foucault cho rằng tri thức là sản phẩm được tạo ra bởi các diễn ngôn; bởi đằng sau diễn ngôn là quyền lực, cho nên, tri thức mà chúng ta có là kết quả của các mâu thuẫn về quyền lực. Với lí do tìm hiểu và vận dụng lí thuyết diễn ngôn để giải thích cho những cách nhìn, góc nhìn về phụ nữ trong thơ nữ giai đoạn 1954 - 1975, một 11 hướng tiếp cận thơ nghiêng về khía cạnh văn hóa - xã hội, bài báo cáo sẽ tập trung đến quan niệm của Foucault về diễn ngôn. Đây là quan niệm đang trở thành nền tảng cho rất nhiều các trường phái lý thuyết hiện đại và gợi mở một con đường đầy triển vọng cho các nhà nghiên cứu văn học ở nhiều ngành khác nhau. Vì vậy, tiếp cận khái niệm diễn ngôn theo hướng phong cách học, mà hạt nhân là quan niệm của Foucault, sẽ được trình bày ở phần tiếp theo của bài báo cáo. Về khái quát, có thể đặt quan niệm của Foucault về diễn ngôn trong mối quan hệ so sánh với các quan niệm, hướng nghiên cứu khác. Nếu ngôn ngữ học được phát triển trên nền tảng tư tưởng Saussure nhấn mạnh đến tính chất hệ thống, khép kín, tĩnh tại của diễn ngôn thì các nhà tư tưởng như M.Bakhtin, M.Foucault lại khẳng định tính chất sinh thành, đa dạng, năng sản của diễn ngôn. Nếu Bakhtin đặc biệt chú ý đến tính liên chủ thể của diễn ngôn thì Foucault đề cập đến tính phi chủ thể của diễn ngôn, sự biến mất của chủ thể người trong mê cung của các diễn ngôn. Ba quan điểm tiếp cận này đều có sức lan tỏa và ảnh hưởng rất lớn đến gần như toàn bộ lý thuyết văn học và ngôn ngữ trong thế kỉ XX. Như vậy, ba cách tiếp cận ngôn ngữ học, phong cách học và xã hội học này đã cung cấp ba cách định nghĩa khác nhau về diễn ngôn: diễn ngôn như là cấu trúc của ngôn ngữ/lời nói, diễn ngôn như là lời nói- tư tưởng hệ, và diễn ngôn như là công cụ để kiến tạo tri thức và thực hành quyền lực. Ba quan niệm này nảy sinh trên nền tảng những cách cắt nghĩa khác nhau về bản chất, vai trò của ngôn ngữ và đều có sức lan tỏa, ảnh hưởng rất lớn đến gần như toàn bộ lý thuyết văn học và ngôn ngữ trong thế kỉ XX. Trên thực tế, trong quá trình phát triển, các lý thuyết diễn ngôn có xu hướng đan bện vào nhau, tạo nên những vùng giao thoa, những khu vực chung. Sự kết hợp này khiến cho con đường đi của khái niệm trở nên phức tạp và cho thấy nghiên cứu diễn ngôn vẫn đang là một tiến trình vận động, hứa hẹn nhiều những nhánh rẽ bất ngờ. 12 Qua ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn, chúng ta cũng có thể quan sát thấy ngọn nguồn sự phát triển và phân nhánh phức tạp của thuật ngữ, cũng như sự tương tác, kế thừa, phủ định, sáng tạo giữa các khuynh hướng, và đặc biệt là những bước chuyển trong tư duy lý thuyết của ngành khoa học xã hội và nhân văn thế kỉ XX. 1.2. Khái niệm diễn ngôn (theo Foucault) Có một thực tế là: dù có công trình nghiên cứu về văn học Pháp đương đại được viết vào những năm 1960 thì Foucault vẫn chưa bao giờ là một nhà nghiên cứu văn học theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Tuy nhiên, điều này còn thú vị hơn, khi những ảnh hưởng của Foucault đến nghiên cứu văn học là rất sâu đậm: cả trên phương diện những đề tài cụ thể (tính dục, cái tôi, vấn đề nữ quyền...) cũng như trên phương diện lí thuyết (vấn đề lịch sử văn học, vấn đề tác giả, vai trò của phê bình văn học, giới tính trong sáng tác và tiếp nhận văn học, tính văn học (literariness)). Tất cả những ảnh hưởng nhiều mặt, đa dạng này của Foucault với nghiên cứu văn học, về cơ bản, đều có thể được cắt nghĩa từ việc nhìn nhận văn học như một diễn ngôn. Khái niệm diễn ngôn tuy không được giới thuyết một cách hệ thống trong một công trình lý thuyết cụ thể nào của Foucault, song lại là một mắt xích, một chìa khóa quan trọng đến mức nếu không hiểu khái niệm này, thì người đọc khó có thể tiếp cận toàn bộ các trước tác khổng lồ với những tư tưởng khá dị biệt của ông. Foucautl nói: “Thay vì giảm dần các nét nghĩa đã khá mơ hồ của từ diễn ngôn, tôi tin rằng thực tế tôi đã bổ sung thêm ý nghĩa của nó; lúc thì coi nó như một khu vực chung của tất cả các lời nhận định, lúc thì coi nó như một nhóm các lời nhận định đã được cá thể hóa, và đôi khi lại xem nó như thực tiễn được quy ước tạo nên vô số các nhận định”. Như vậy, theo Foucault, ta có được ba cách định nghĩa khác nhau về diễn ngôn. Thứ nhất, diễn ngôn được coi là tất cả các nhận định nói chung, đó 13 là tất cả các phát ngôn hoặc văn bản có nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong thế giới thực. Thứ hai, diễn ngôn là một nhóm các diễn ngôn cụ thể, được qui ước theo một cách thức nào đó và có một mạch lạc hoặc một hiệu lực nói chung, “được nhóm lại với nhau bởi một áp lực mang tính thiết chế nào đó, bởi sự tương tự giữa xuất xứ và bối cảnh hay bởi chúng cùng hành động theo một cách gần giống nhau”. Ví dụ, diễn ngôn nữ giới là một nhóm các diễn ngôn có chung một hiệu lực là nhằm phản kháng lại diễn ngôn về phụ nữ của đàn ông, diễn ngôn chủ nghĩa đế quốc là nhóm các diễn ngôn có chung một hiệu lực là áp đặt quyền lực thực dân lên những xứ sở thuộc địa… Thứ ba, diễn ngôn là một thực tiễn sản sinh ra vô số các nhận định và chi phối việc vận hành của chúng. Quan niệm thứ ba về diễn ngôn là quan niệm có ảnh hưởng lớn nhất đến các nhà nghiên cứu sau này. Ở đây, diễn ngôn không chỉ được coi như “một cái gì tồn tại cố hữu, tự thân và có thể được phân tích một cách cô lập”, mà là những qui tắc và cấu trúc nhằm tạo ra những phát ngôn và những văn bản cụ thể. Cách định nghĩa thứ ba này cho thấy bản chất thuộc về các thiết chế, bản chất bị chi phối bởi luật lệ của diễn ngôn, nó cho thấy các diễn ngôn không được tạo ra từ hư không, mà sinh mệnh của nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của các thiết chế, và đằng sau nó là bàn tay vô hình của quyền lực. Lời nói và suy nghĩ của con người không phải là sự biểu hiện một cách tự do những tư tưởng cá nhân, mà bị định hình và nhốt chặt vào trong một thứ khung có trước. Có thể làm sáng tỏ điều này qua ví dụ sau đây. Diễn ngôn về nữ tính (hay nữ quyền) được sản sinh và lưu hành trong thời trung đại Việt Nam là hệ thống tư tưởng, quan niệm, những qui định về hành xử được hình thành trong bối cảnh thiết chế nhà nước phong kiến nam quyền. Bối cảnh thiết chế này đã tạo nên một khung diễn ngôn, trong đó qui định những đặc điểm của tính nữ như là khiêm cung, chịu đựng, phụ thuộc, yếu đuối (công dung ngôn hạnh, tam tòng tứ đức). Khung diễn ngôn này lại chi phối cách tư duy và phát ngôn 14 của con người, khiến cho trong các trước tác thời trung đại, từ văn học, đạo đức, tôn giáo, pháp luật…, trong bất cứ văn bản nào, người ta cũng nhận thấy một công thức miêu tả phụ nữ quen thuộc: ca ngợi những đức tính hi sinh, chịu đựng, phụ thuộc của người phụ nữ (Kiều bán mình chuộc cha được ngợi ca là hiếu, Huyền Trân công chúa bị gả cho vua Chăm pa được tôn vinh là trung với nước…); miêu tả người phụ nữ như một nạn nhân thụ động và bất lực của xã hội (trong Chuyện người con gái Nam Xương, người phụ nữ chỉ có cách tự vẫn để bảo toàn danh tiết; hay trong lịch sử, đầy rẫy những câu chuyện nói rằng khi nhà vua băng hà, các cung nữ đều bị chôn sống theo nhà vua…); miêu tả phụ nữ như một đối tượng tri thức hoàn toàn thụ động, im lặng, hay nói cách khác tiếng nói của họ gần như bị tẩy xóa khỏi toàn bộ nền văn hóa trung đại. Nếu coi quyền lực và tri thức là hai mối quan tâm lớn nhất của Foucault thì diễn ngôn là một mắt xích không thể thiếu để tìm hiểu hai yếu tố này. Với Foucault, cả tri thức và quyền lực đều chỉ có thể được tạo ra, được hiện thực hóa, được vận hành và phân phối bởi diễn ngôn. 1.3. Cấu trúc và sự vận hành của diễn ngôn Foucault đã chỉ ra những cấu trúc nội tại và ngoại tại chi phối việc tạo lập, vận hành các diễn ngôn. Những cấu trúc nội tại cấu thành nên diễn ngôn gồm có: tri thức hệ, nhận định, diễn ngôn/các diễn ngôn, thư khố. Tri thức hệ, theo diễn giải của Sara Mills (trong cuốn Diễn ngôn của Sara Mills - Trần Văn Toàn, Trần Ngọc Hiếu, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Lương Thị Hiền, Đinh Minh Hằng dịch), là “tập hợp các cấu trúc diễn ngôn nói chung mà bên trong tập hợp này, một nền văn hóa xác định nên những ý niệm của nó”, “một nền tảng của những tư tưởng mà trên đó, tại một thời điểm cụ thể, một số nhận định này, mà không phải những nhận định khác được coi là tri thức”. Tri thức hệ “bao hàm tổng cộng các cấu trúc diễn ngôn hình thành như là kết quả từ sự tương tác của nhiều loại diễn ngôn đang lưu 15 hành và được ủy quyền tại một thời điểm xác định”, bao hàm “các phương pháp luận mà một nền văn hóa mặc nhiên dựa vào đó để có thể tư duy về một số chủ đề nhất định”. Những nhận định trên cho thấy, về mặt chức năng, tri thức hệ có vai trò như một thứ khung vừa cho phép con người nhận thức thế giới, vừa giới hạn tư duy con người, đồng thời, nó là một bộ lọc … Foucault đặc biệt nhấn mạnh đến sự đứt gãy tri thức hệ, khiến cho cái được coi là tri thức ở thời điểm này lại không được coi là tri thức ở một thời điểm khác. Sara Mills dẫn ra một ví dụ: một trận bão thời sơ kì được giải thích một cách thần thánh, siêu nhiên, đến thời hiện đại, bão được coi là một hiện tượng tự nhiên. Sự biến đổi của lịch sử tri thức không đơn thuần chỉ là sự biến đổi hướng đến tiến bộ, mà chỉ đơn giản là sự chuyển từ hệ tri thức này sang hệ tri thức khác. Thứ hai là các nhận định. Foucault cho rằng nhận định có vai trò là đơn vị cấu thành nên diễn ngôn. Nhận định là những phát ngôn có một hiệu lực thiết chế nào đó, được hiệu lực hoá bằng một hình thức quyền uy nào đó. Và hiệu lực thiết chế, quyền uy bên trong, đứng sau nhận định mới chính là cái khiến cho nhận định đó có được chấp nhận hay không. Thứ ba là các diễn ngôn. Các diễn ngôn là tập hợp các nhận định được phê chuẩn, là nhóm các nhận định có một lực giống nhau được nhóm lại với nhau bởi một áp lực định chế nào đó. Thứ tư là thư khố. Thư khố là tập hợp các diễn ngôn nhằm giới hạn cái gì được nói, đáng để biết và nhớ. Thư khố là cái kho lưu trữ những từ vựng, cú pháp, công thức biểu đạt, cái vừa giúp cho chủ thể có thể phát ngôn, vừa giới hạn phát ngôn của chủ thể. Thứ năm là những sự loại trừ bên trong diễn ngôn. Đó là các phương thức loại trừ nhằm giới hạn cái được nói và cái được coi là tri thức. Có nhiều phương thức loại trừ. Thứ nhất là sự cấm đoán, kiêng kị. Thứ hai là vị thế của chủ thể phát ngôn. Chỉ lời nói của người bình thường mới được chấp nhận, còn lời nói 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan