Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Diễn ngôn về giới nữ trong truyền kì mạn lục của nguyễn dữ (2016)...

Tài liệu Diễn ngôn về giới nữ trong truyền kì mạn lục của nguyễn dữ (2016)

.PDF
70
92
112

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN THỊ HỒNG THU DIỄN NGÔN VỀ GIỚI NỮ TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học HÀ NỘI - 2016 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN THỊ HỒNG THU DIỄN NGÔN VỀ GIỚI NỮ TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH HÀ NỘI - 2016 LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến các thầy cô giáo trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Ngữ Văn đã dạy bảo tận tình cho tôi suốt thời gian học tập tại trường và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến cô giáo, ThS. Nguyễn Thị Vân Anh - người đã dành rất nhiều thời gian tâm huyết hướng dẫn tôi nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này. Đồng thời, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình và bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện khóa luận. Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2016. Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Hồng Thu LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Thị Vân Anh. Khóa luận được trình bày theo yêu cầu, quy định của khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2. Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2016 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Hồng Thu MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 3 3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 6 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 7 6. Dự kiến đóng góp của khóa luận.................................................................... 7 7. Cấu trúc của khóa luận ................................................................................... 8 NỘI DUNG........................................................................................................ 9 CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM DIỄN NGÔN, Ý NGHĨA CỦA VIỆC TIẾP CẬN VẤN ĐỀ GIỚI NỮ TRONG VĂN HỌC TỪ LÍ THUYẾT DIỄN NGÔN...... 9 1.1. Khái quát về diễn ngôn ............................................................................... 9 1.1.1. Các hướng nghiên cứu chính về diễn ngôn ............................................ 10 1.1.1.1. Hướng tiếp cận ngôn ngữ học ............................................................. 10 1.1.1.2. Hướng tiếp cận phong cách học ......................................................... 11 1.1.1.3. Hướng tiếp cận xã hội học .................................................................. 13 1.1.2. Khái niệm diễn ngôn .............................................................................. 15 1.1.3. Đặc điểm diễn ngôn ............................................................................... 16 1.2. Diễn ngôn văn học .................................................................................... 19 1.3. Ý nghĩa của việc tiếp cận vấn đề giới nữ trong văn học từ lí thuyết diễn ngôn .................................................................................................................. 23 CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM DIỄN NGÔN VỀ GIỚI NỮ TRONG “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” CỦA NGUYỄN DỮ ........................................ 26 2.1. Người phụ nữ khuôn thước, mẫu mực ...................................................... 26 2.1.1. Về chữ “Công” ....................................................................................... 27 2.1.2. Về chữ “Dung” ....................................................................................... 27 2.1.3. Về chữ “Ngôn” ....................................................................................... 29 2.1.4. Về chữ “Hạnh”........................................................................................ 34 2.2. Người phụ nữ lệch chuẩn ............................................................................ 39 2.2.1. Về chữ “Công”......................................................................................... 39 2.2.2. Về chữ “Dung” ........................................................................................ 40 2.2.3. Về chữ “Ngôn” ........................................................................................ 44 2.2.4. Về chữ „„Hạnh‟‟ ...................................................................................... 52 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Cho đến nay, về cơ bản các vấn đề như tác giả, tác phẩm, văn bản đã được giới thiệu rộng rãi ở ta. Song sự hình dung về diễn ngôn, diễn ngôn về giới nữ, sự lí giải diễn ngôn giới nữ còn chưa rõ ràng. 1.2. Khi đặt vấn đề nghiên cứu Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ - từ góc nhìn diễn ngôn về giới nữ là ta không chỉ nghiên cứu lớp vỏ ngôn từ mà chủ yếu nghiên cứu vì sao tác giả lại có diễn ngôn như vậy, những nguyên tắc tư tưởng chi phối nhân sinh quan thế giới quan của nhà văn. Bởi thực tiễn diễn ngôn “nói” như thế nào không phụ thuộc vào ngữ học mà phụ thuộc vào ý thức hệ, tri thức thời đại và cơ chế quyền lực. Văn học trong từng giai đoạn được kiến tạo theo những hệ tri thức nhất định. Như vậy có thể nói cách nghiên cứu diễn ngôn mà chúng tôi sử dụng là một hướng nghiên cứu mới dù nó không mâu thuẫn không đối chọi cũng không bác bỏ cách nghiên cứu trước đây. Cách nghiên cứu này cho phép xem xét văn học ở bình diện mới. Đây là kiểu nghiên cứu liên ngành, cho thấy được mối quan hệ khăng khít giữa văn học và tư tưởng, giữa văn học và văn hóa, giữa tính xã hội và tính thẩm mỹ. Đây là hướng đi có nhiều triển vọng, mở ra sự phát triển của lịch sử văn hóa tư tưởng. Bởi lẽ việc nghiên cứu văn học như một sản phẩm ngôn từ thuần túy cũng cần thiết nhưng ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội học văn học cho ta thấy rằng khó có thể giải quyết những vấn đề của văn học chỉ thuần túy dựa trên những yếu tố nội tại của văn bản mà cần đặt văn học trong bối cảnh rộng lớn hơn của những vấn đề văn hóa xã hội. 1.3. Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học Việt Nam thế kỉ XVI. Chỉ với một tác phẩm Truyền kì mạn lục cũng đã đủ khẳng định tên tuổi của Nguyễn Dữ trong lịch sử văn học Việt Nam. Tác phẩm được 1 coi là mẫu mực của thể truyền kì, là “thiên cổ kì bút”, đánh dấu bước phát triển quan trọng của văn học chữ Hán. Truyền kì mạn lục vừa có giá trị hiện thực vừa có giá trị nhân đạo. Tác phẩm còn thể hiện tinh thần táo bạo, phóng túng của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối. Ra đời vào thế kỉ XVI, thuộc văn học trung đại Việt Nam đó là nền văn học mang đậm nét ảnh hưởng của Nho giáo. Con người bị đặt trong các mối quan hệ luân thường, bị ràng buộc bởi những điều cấm kị của Nho giáo. Trong xã hội đó người phụ nữ phải tuân theo những qui định chặt chẽ của Nho giáo như tam tòng, tứ đức. Họ còn bị coi như nguồn cội của sự cám dỗ đe dọa đạo đức. Những tư tưởng của Nho giáo đối với người phụ nữ thực chất là sự tước đoạt quyền lợi của giới nữ và tạo nên một xã hội vận hành theo kiểu nam quyền. Người đàn ông thống ngự nữ giới và áp đặt các chuẩn mực của họ về cái đẹp, về đức hạnh. Từ đó tạo ra những ẩn ức trong xã hội, những khao khát mong muốn được giải phóng của người phụ nữ. Trong sáng tác thơ văn của các nhà nho dường như ít đề cập tới vấn đề giới nữ, họ cho rằng “văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí” thơ văn dùng để đâm gian trừ tà, nói lên ý chí của người quân tử chứ không đề cập tới những vấn đề nhỏ nhặt của cuộc sống, của phái yếu. Nhưng trong tác phẩm của mình Nguyễn Dữ đã đề cập đến vấn đề này. Là một nhà nho sinh ra từ cửa khẩu sân đình Nguyễn Dữ vẫn đứng trên lập trường đạo đức của Nho gia để nhìn nhận đánh giá con người, những vấn đề của con người trên quan điểm đạo đức. Tuy nhiên một tác giả văn học lớn luôn có tinh thần nhân đạo cao cả, Nguyễn Dữ trong không ít trường hợp dù vô thức hay có ý thức đã đưa những dòng ngợi ca vẻ đẹp, tình yêu hạnh phúc cá nhân, đề cao những khát vọng nhu cầu của người phụ nữ. Những cuộc tình si mê đắm đuối công khai quyền sống của người phụ nữ về thân xác. Nho giáo luôn kêu gọi con người ta diệt dục, tiết dục thế mà Truyền kì mạn lục lại đề cao quyền sống, quyền tự do của người phụ nữ. Nguyễn Dữ là một nhà Nho vừa tuân thủ nguyên tắc “khuôn vàng thước ngọc”, lại vừa có thể phá vỡ 2 những nguyên tắc ấy ở mức độ nhất định để đến với vấn đề của giới nữ trong phạm vi mà thời đại cho phép. Nghiên cứu Truyền kì mạn lục từ diễn ngôn về giới nữ sẽ mang lại nhiều kiến giải thú vị, giúp người đọc có cách nhìn sâu sắc, gãy gọn nhiều khía cạnh của tác phẩm. 2. Lịch sử vấn đề Là tác phẩm có giá trị về nội dung tư tưởng và nghệ thuật nên Truyền kì mạn lục từ khi ra đời cho tới nay đã thu hút sự chú ý của người đọc với nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu. Ý kiến đánh giá sớm nhất về Truyền kì mạn lục phải kể đến lời tựa Truyền kì mạn lục của Hà Thiện Hán, ông có giới thiệu về tác giả tác phẩm và cho rằng Truyền kì mạn lục ảnh hưởng từ Tiễn Đăng tân thoại của Cù Tông Cát nhưng có nhiều điểm sáng tạo riêng. Bùi Kỷ có thể được coi là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên bàn luận về vấn đề người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục với Lời giới thiệu Truyền kỳ mạn lục (bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện xuất bản năm 1940). Trong lời giới thiệu này, khi nêu chủ đề từng truyện, Bùi Kỷ đã có một vài đánh giá sơ lược về người phụ nữ. Tuy nhiên, quan điểm đạo đức thẩm mỹ của Bùi Kỷ trong bài viết này khá phức tạp, khi thì ông phê phán thuyết “Tòng phu” của Nho gia, khi lại đứng trên lập trường nhà Nho để nhìn nhận. Nhận xét về chủ đề các truyện có người phụ nữ tiết liệt, Bùi Kỷ thể hiện khá rõ thái độ phê phán thuyết “Tòng phu”. Ông nhận xét: “Truyện 2 (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu) và truyện 16 (Chuyện người con gái Nam Xương): Tả rõ phụ nữ ở xã hội cũ, dù ăn ở thủy chung với chồng thế nào, cũng chịu một thân phận hèn kém: Một đằng vì thua bạc mà gán vợ, một đằng vì ngờ vực hão huyền để vợ phải quyên sinh. Đáng giận thay cái thuyết “Tòng phu” đã làm hại bao nhiêu bạn quần thoa trong bao nhiêu thế kỷ!” [19; tr 234]. Đối với nhân vật nữ vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến, Bùi Kỷ tuy không phân tích rõ nhưng lại tỏ thái độ không đồng tình với những hành vi 3 của họ. Ông cho rằng: “Truyện 3 (Chuyện cây gạo), cũng như truyện 5 (Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây), truyện 11 (Chuyện yêu quái ở Xương Giang): có ý bài xích những thói đắm đuối trong vòng tình dục của bọn thiếu niên” [19; tr 234]. Đương nhiên, “bọn thiếu niên” mà nhà nghiên cứu nói đến ở đây gồm cả nhân vật nam và nữ. Điểm qua có thể thấy, trong những lời định giá này, tiêu chí để Bùi Kỷ đánh giá nhân vật nữ về cơ bản vẫn là tiêu chí đức hạnh của nhà Nho. Tuy có đề cập đến thân phận thấp hèn của người phụ nữ trong tương quan với nam giới, nhắc đến bất công trong đạo “Tam tòng” nhưng nhà nghiên cứu không nhấn mạnh những đặc điểm này mà chú ý nhiều hơn đến ngợi khen, thương xót những người phụ nữ tiết hạnh và phê phán những người phụ nữ sống vượt khuôn phép Nho gia. Trường nhìn của Bùi Kỷ ít nhiều đã bao hàm vấn đề giới khi ông đặt người phụ nữ trong tương quan với người đàn ông để phê phán thuyết “Tòng phu”, bảo vệ người phụ nữ, nhưng về cơ bản ông vẫn đứng từ quan điểm đạo đức Nho gia để nhìn nhận họ. Có thể thấy, khi nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cơ bản vẫn đứng từ góc nhìn xã hội học. Ở bài viết của mình, nhà nghiên cứu nghiêng về khảo sát hoàn cảnh xã hội để lý giải các hiện tượng văn học và hầu như chưa đặt ra vấn đề nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ trong tập tác phẩm này từ góc nhìn giới. Nguyễn Phạm Hùng cũng là một trong những nhà nghiên cứu quan tâm đến đề tài người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục. Trong bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, ông đã đưa ra một số nhận định về vấn đề người phụ nữ trong tập truyện này. Nhà nghiên cứu đánh giá: “Tựu chung, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, người phụ nữ đã xuất hiện rầm rộ như thế ở Truyền kỳ mạn lục với cả diện mạo, tâm hồn, tình cảm, nhu cầu và khát vọng, với số phận của mình… Nếu như trước đây, hình ảnh người phụ nữ quý tộc có đi vào sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Húc v.v... thì thường cũng mới chỉ dừng lại ở sự nhận thức trên bình độ tâm lý, còn ở đây, nó là một đối 4 tượng nhận thức, đối tượng thẩm mỹ trọn vẹn, thành vấn đề người phụ nữ trong văn học…” [10; tr 499]. Nói chung, những phát hiện của Nguyễn Phạm Hùng về nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục trình bày trong bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã đóng góp thêm tiếng nói trong lịch sử nghiên cứu vấn đề này. Qua bài viết, nhà nghiên cứu đã khẳng định vị trí đặc biệt của Truyền kỳ mạn lục trong tiến trình văn học ở đề tài người phụ nữ và chỉ ra tinh thần nhân đạo của Nguyễn Dữ khi viết về họ. Tuy nhiên, những nhận xét của Nguyễn Phạm Hùng còn khá sơ lược, chưa mang tính chất chuyên khảo. Hơn nữa, một số nhận định của ông thiên về ca ngợi mà không thấy hạn chế nhất định trong những hình tượng này cũng như trong tư tưởng Nguyễn Dữ. Chẳng hạn, ông đánh giá: “… Một quan niệm mới về việc phản ánh con người đã xuất hiện. Truyền kỳ mạn lục là như vậy. Nó ca ngợi vẻ đẹp của con người, cả về vật chất và tinh thần. Những hình ảnh da thịt hồng hào, tươi tốt, hở hang rất dễ gặp trong tác phẩm này. Những dục vọng, ước muốn thoát ra ngoài sự tỏa chiết của tư tưởng Nho gia về “tu, tề, trị, bình” với người quân tử, “công, dung, ngôn, hạnh” đối với người phụ nữ phong kiến cũng rất dễ gặp ở đây. Con người, đó không phải là những tấm gương chói lòa về các anh hùng, liệt nữ lưu danh sử sách mà là những con người của đời sống thực tế sôi động, cay nghiệt” [10; tr 501]. Nhận định này có phần cực đoan, bởi lẽ, tuy Nguyễn Dữ đã có nhiều điểm nhân văn tiến bộ hơn so với nhà Nho đương thời nhưng những nhân vật của ông ở một chừng mực nhất định vẫn được khen, chê theo tiêu chí Nho gia, những khát vọng mang hơi hướng vật chất trong truyện không được Nguyễn Dữ công khai ca ngợi, thậm chí ít nhiều còn bị ông phê phán. Tác giả Toàn Huệ Khanh trong công trình Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam cũng đề cập đến một số 5 nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, phân loại họ vào nhân vật của hai kiểu truyện là truyện kỳ quái và truyện diễm tình. Công trình này đã giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn về sự giao thoa giữa tác phẩm truyền kỳ của các quốc gia vùng văn hóa Hán. Tuy nhiên vì chỉ xác định mục tiêu là phân tích nhân vật theo mô-típ nên nhà nghiên cứu này chưa quan tâm đến phương diện giới tính nữ của các nhân vật nữ. Những tri thức về văn hóa giới ở Việt Nam thời trung đại cũng chưa được Toàn Huệ Khanh vận dụng để lý giải hình tượng người phụ nữ. Tóm lại, hầu hết các công trình nghiên cứu đã có về Truyền kỳ mạn lục chưa đặt vấn đề nghiên cứu diễn ngôn về giới nữ. Trường quan sát của những nhà nghiên cứu này không hoặc ít bao hàm vấn đề diễn ngôn về giới nữ. Sau đó có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về Truyền kì mạn lục, đó cũng là cơ sở căn cứ, tài liệu cho chúng tôi thực hiện đề tài này. 3. Mục đích nghiên cứu Vận dụng lí thuyết diễn ngôn vào việc tìm hiểu đặc điểm và cơ chế kiến tạo diễn ngôn về giới nữ trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Diễn ngôn về giới nữ trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Với đề tài diễn ngôn về giới nữ trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ chúng tôi tìm được 10 truyện thể hiện diễn ngôn về giới nữ đó là: - Chuyện nàng Túy Tiêu - Chuyện cây gạo - Chuyện Lệ nương - Chuyện nghiệp oan của Đào Thị - Chuyện yêu quái ở Xương Giang 6 - Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây - Chuyện đối tụng ở Long đình - Chuyện Từ Thức gặp tiên - Chuyện người con gái Nam Xương - Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Khi thực hiện đề tài này chúng tôi chủ trương phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: - Phương pháp hệ thống: Hệ thống lại những luận điểm hay những vấn đề được đặt ra trong những công trình nghiên cứu về diễn ngôn. - Phương pháp liên ngành: Diễn ngôn về giới nữ có liên quan đến nhiều lĩnh vực như chính trị, văn hóa, xã hội,… Vì vậy khi thực hiện đề tài này chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp liên ngành để có cái nhìn bao quát vấn đề. - Phương pháp xã hội học: Truyền kì mạn lục đề cập tới nhiều vấn đề mà xã hội học quan tâm, chúng tôi sẽ soi chiếu tác phẩm dưới cái nhìn xã hội học để nghiên cứu được trọn vẹn hơn. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng kết hợp một số phương pháp như so sánh, thống kê, phân tích,... để rút ra những luận điểm đặc trưng và khái quát nhất cho vấn đề. 6. Dự kiến đóng góp của khóa luận Việc đi sâu tìm hiểu diễn ngôn về giới nữ trong Truyền kì mạn lục góp phần làm rõ hơn một vấn đề mới của chủ nghĩa nhân đạo: Quyền tự do và sự thức tỉnh ý thức cá nhân của con người trong văn học trung đại. Những yếu tố chi phối, kiến tạo nên diễn ngôn của nhà văn. 7 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 2 chương: Chương 1: Khái niệm diễn ngôn, ý nghĩa của việc tiếp cận vấn đề giới nữ trong văn học từ lí thuyết diễn ngôn. Chương 2: Đặc điểm diễn ngôn về giới nữ trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. 8 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM DIỄN NGÔN, Ý NGHĨA CỦA VIỆC TIẾP CẬN VẤN ĐỀ GIỚI NỮ TRONG VĂN HỌC TỪ LÍ THUYẾT DIỄN NGÔN 1.1. Khái quát về diễn ngôn Thời gian gần đây, trong nghiên cứu văn học, xã hội học, khái niệm diễn ngôn được sử dụng tương đối nhiều trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn: triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, tâm lí học, nghiên cứu văn học..., song việc xác định nội hàm và các nội dung cơ bản của nó dường như vẫn chưa được xác định rõ nét. Mỗi nhà nghiên cứu tìm cho mình những quan niệm và dấu hiệu biểu hiện khác nhau về diễn ngôn. Chính vì thế, việc xác định nó vẫn như là một câu hỏi còn để ngỏ. Theo nghiên cứu của Manfred Frank, diễn ngôn (discourse) được bắt nguồn từ tiếng Latinh “discourus”, mà từ này có gốc động từ là “discoursere” có nghĩa là tán chơi, nói huyên thuyên. Như vậy, diễn ngôn là một lối nói, cách nói hoặc một lượt nói có độ dài không xác định, sự triển khai không bị hạn định, bởi chú ý nghiêm ngặt. Trong tiếng Pháp, nghĩa của từ diễn ngôn gần với từ tán gẫu, nói chuyện phiếm, kể chuyện,… Theo https://trandinhsu.wordpress.com/2015/01/04/khai-niem-dien- ngon, khái niệm diễn ngôn được định nghĩa: “Hiểu tổng quát, diễn ngôn là thực tiễn giao tiếp của con người trong xã hội. Nhấn mạnh thực tiễn giao tiếp xã hội để phân biệt với lời nói cá nhân”. Còn trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học tập 2, Đỗ Hữu Châu đã trích dẫn khái niệm diễn ngôn nghiêng về phương diện ngôn ngữ như sau: “Diễn ngôn là một thuật ngữ chung chỉ cách dùng ngôn ngữ, tức chỉ các sản phẩm ngôn ngữ được tạo ra do một hành động giao tiếp nào đấy”. Tác giả cuốn The Routledge dictionary of literature terms lại khẳng định rằng: 9 “Cho đến nửa sau thế kỉ 20, thuật ngữ diễn ngôn vẫn mang ý nghĩa cơ bản là sự trình bày một vấn đề cụ thể bằng cách nói hay viết theo một trật tự trước sau”. Từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX, nghiên cứu diễn ngôn (hay còn gọi là phân tích diễn ngôn) trở thành một trào lưu khoa học phát triển rầm rộ ở châu Âu và diễn ngôn trở thành một khái niệm trung tâm, được lưu hành rộng rãi trong khoa học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, ta cũng có thể thấy rõ, khái niệm diễn ngôn được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Các nội dung định nghĩa đó có thể khác xa nhau hay mâu thuẫn với nhau, qua đó càng chứng tỏ tính phức tạp và nội hàm chưa được xác định rõ của thuật ngữ khoa học này. 1.1.1. Các hướng nghiên cứu chính về diễn ngôn Trong lí luận hiện nay có ba khuynh hướng nghiên cứu. Một là ngữ học do các nhà ngữ học đề xuất. Hai là lí luận văn học do M. Bakhtin nêu ra và ba là xã hội học, lịch sử tư tưởng mà tiêu biểu là Foucault. 1.1.1.1. Hướng tiếp cận ngôn ngữ học Nền tảng cơ sở của hướng tiếp cận diễn ngôn từ phương diện ngôn ngữ học là những luận điểm của F.de Sausure trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học đại cương. Trong công trình này, Sausure phân biệt ngôn ngữ với lời nói. Ngôn ngữ là một hệ thống, một kết cấu tinh thần trừu tượng, khái quát trong khi lời nói là sự vận dụng ngôn ngữ trong những hoàn cảnh cụ thể, bởi các cá nhân cụ thể. Sausure còn chỉ ra, đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là ngôn ngữ, sản phẩm của xã hội kết tinh lại trong trí óc của mỗi người chứ không phải là lời nói. Sự đối lập lời nói/ ngôn ngữ trong quan điểm của Saussure đã làm nền tảng cho sự phân biệt giữa discourse (diễn ngôn) và text (văn bản). Văn bản (text) là cấu trúc ngôn ngữ mang tính chất tĩnh, còn diễn ngôn (discourse) là cấu trúc lời nói mang tính động. 10 Trong giai đoạn này, do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi ngôn ngữ học Saussure và chủ nghĩa cấu trúc, các nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ tập trung vào khám phá cấu trúc tĩnh tại, bất biến của các diễn ngôn và văn bản. Tư tưởng này đã loại trừ tất cả thuộc tính ngẫu nhiên, cá thể của lời nói, chỉ chú ý đến phương diện ổn định, bất biến của ngôn ngữ như một bản thể xã hội. Và đối tượng hướng tới của các nhà nghiên cứu không phải là những văn bản/ diễn ngôn cụ thể, mà họ chỉ coi đó là chất liệu, thông qua việc phân tích các văn bản/ diễn ngôn, họ cố gắng chỉ ra những cấu trúc khái quát, những thuộc tính bản chất của văn học nói chung. Mỗi nhà nghiên cứu đều cố gắng tìm ra một mô hình phi thời gian cho các văn bản, theo những cách thức khác nhau. Như vậy là, dưới cái nhìn của các nhà cấu trúc, tất cả các hành động của con người và các cơ cấu tổ chức của xã hội đều liên quan đến ngôn ngữ, và có thể được tìm hiểu như một hệ thống gồm các yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau. Như thế, diễn ngôn cũng là một cấu trúc khép kín, nội tại, được cấu thành từ những yếu tố bất biến là các phạm trù ngữ pháp như thời, thức, thể, giọng, ngôi… Cách tiếp cận này đã khiến cho nhà nghiên cứu, khi phân tích diễn ngôn, đặc biệt chú trọng đến phương diện cấu trúc và nỗ lực tìm kiếm những mô hình ngôn ngữ mang tính chất tĩnh- cái cơ chế ẩn tàng của tổ chức ngôn từ trong văn bản cũng như diễn ngôn. 1.1.1.2. Hướng tiếp cận phong cách học Có thể coi M.Bakhtin là người khởi nguồn cho một truyền thống mới trong nghiên cứu diễn ngôn. Tư tưởng về diễn ngôn của Bakhtin có vai trò như một bản lề, hay một cầu nối bắc từ quan niệm về diễn ngôn của ngôn ngữ học cấu trúc sang quan niệm diễn ngôn của các trường phái lí luận hậu hiện đại. Trong các trước tác của Bakhtin, ta có thể thấy sự đối thoại và phủ định đối với rất nhiều những quan điểm về ngôn ngữ học được lưu hành phổ biến 11 trong thời đại của ông, đặc biệt là những quan điểm ngôn ngữ được triển khai trên cơ sở tư tưởng của Saussure. Nếu như hướng tiếp cận ngôn ngữ học về diễn ngôn được hình thành trên cơ sở ngôn ngữ học Saussure thì hướng tiếp cận phong cách học về diễn ngôn lại được phát triển dựa trên nền tảng đối lập với những quan điểm của Saussure về ngôn ngữ. Bakhtin phê phán ngôn ngữ học hàn lâm chỉ tập trung nghiên cứu phương diện cấu trúc của ngôn ngữ mà không chú ý đến bình diện sinh thành của ngôn ngữ, tức là ngôn ngữ trong đời sống, trong giao tiếp. Ông đề xuất một lĩnh vực nghiên cứu mới mà ông gọi là “siêu ngôn ngữ”, có nghĩa là ngôn ngữ như một thực thể đa dạng, sống động, mang tính lịch sử chứ không phải là ngôn ngữ như một hệ thống mang tính chất tĩnh, khép kín và trừu tượng. Bởi vậy, diễn ngôn (hay lời nói) (discourse), là khái niệm trung tâm trong quan điểm của Bakhtin về ngôn ngữ. Ông cho rằng, diễn ngôn là ngôn ngữ trong chỉnh thể sống động, cụ thể, là ngôn ngữ trong sử dụng, trong bối cảnh xã hội, của những giọng xã hội mâu thuẫn và đa tầng. Cũng chính bởi vậy, Bakhtin nhấn mạnh, đối thoại là bản chất của diễn ngôn. Mỗi người nói không phải là người nói đầu tiên, mà đều là người trả lời, là người đối thoại với hàng ngàn những người nói trước đó. Người nghe cũng sẽ không phải là người lắng nghe một cách thụ động mà là người chủ động hồi đáp. Lời nói của chúng ta, vì thế, “được hình thành và phát triển trong sự tác động qua lại, thường xuyên, liên tục với những phát ngôn của các cá nhân khác”. Trong thực tế, các phát ngôn thường liên kết với nhau và được tổ chức trong những hình thức ổn định mà ông gọi là các thể loại lời nói. Thể loại lời nói là những loại hình phát ngôn tương đối bền vững, được sản sinh ra trong một phạm vi sử dụng ngôn ngữ cụ thể, là một chỉnh thể bao gồm ba bình diện: nội dung chủ đề, phong cách và tổ chức kết cấu. 12 Như vậy, với một quan niệm mới về diễn ngôn, Bakhtin đã đưa ngôn ngữ học rẽ sang một bước ngoặt mới: chuyển từ nghiên cứu ngôn ngữ như một thực thể tĩnh tại, khép kín và biệt lập sang nghiên cứu ngôn ngữ trong giao tiếp, trong thực tiễn đời sống đa dạng và sinh động. Nếu Saussure nhấn mạnh đến tính cấu trúc của ngôn ngữ thì Bakhtin đặc biệt quan tâm đến tính đối thoại của lời nói. Nếu các lý thuyết văn học được triển khai trên nền tảng ngôn ngữ học cấu trúc có xu hướng đồng qui các văn bản/ diễn ngôn vào những mẫu số chung thì lý thuyết văn học của Bakhtin nhằm chỉ ra sự phức tạp, đa diện và biến đổi không ngừng của các văn bản/ diễn ngôn trong lịch sử. Quan niệm về tính lịch sử, tính xã hội này của diễn ngôn sau này sẽ gặp gỡ, hay cũng có thể nói, sẽ đặt nền tảng cho một sự chuyển hướng cực kì quan trọng trong tư duy lý thuyết thế kỉ XX: trào lưu giải cấu trúc. 1.1.1.3. Hướng tiếp cận xã hội học Trung tâm điểm của hướng tiếp cận thứ ba này là những quan niệm về diễn ngôn của M.Foucault, người được coi là ông tổ của các lý thuyết hậu hiện đại và có ảnh hưởng lớn nhất đến nghiên cứu diễn ngôn từ sau những năm 1960. Nếu coi quyền lực và tri thức là hai mối quan tâm lớn nhất của Foucault thì diễn ngôn là một mắt xích quan trọng không thể thiếu của hai yếu tố này. Foucault chỉ ra mối quan hệ phức tạp giữa diễn ngôn và quyền lực. Từ đó, Foucault cho rằng tri thức là sản phẩm được tạo ra bởi các diễn ngôn; bởi đằng sau diễn ngôn là quyền lực, cho nên, tri thức mà chúng ta có là kết quả của các mâu thuẫn về quyền lực. Với lí do tìm hiểu và vận dụng lí thuyết diễn ngôn để giải thích cho những cách nhìn, góc nhìn về giới nữ, một hướng tiếp cận nghiêng về khía cạnh văn hóa - xã hội, dựa trên quan niệm của Foucault về diễn ngôn. Đây là quan niệm đang trở thành nền tảng cho rất nhiều các trường phái lý thuyết hiện đại và gợi mở một con đường đầy triển vọng cho các nhà nghiên cứu văn 13 học ở nhiều ngành khác nhau. Vì vậy, tiếp cận khái niệm diễn ngôn theo hướng phong cách học, mà hạt nhân là quan niệm của Foucault. Về khái quát, có thể đặt quan niệm của Foucault về diễn ngôn trong mối quan hệ so sánh với các quan niệm, hướng nghiên cứu khác. Nếu ngôn ngữ học được phát triển trên nền tảng tư tưởng Saussaure nhấn mạnh đến tính chất hệ thống, khép kín, tĩnh tại của diễn ngôn thì các nhà tư tưởng như M.Bakhtin, M.Foucault lại khẳng định tính chất sinh thành, đa dạng, năng sản của diễn ngôn. Nếu Bakhtin đặc biệt chú ý đến tính liên chủ thể của diễn ngôn thì Foucault đề cập đến tính phi chủ thể của diễn ngôn, sự biến mất của chủ thể người trong mê cung của các diễn ngôn. Ba quan điểm tiếp cận này đều có sức lan tỏa và ảnh hưởng rất lớn đến gần như toàn bộ lý thuyết văn học và ngôn ngữ trong thế kỉ XX. Tóm lại; ba cách tiếp cận ngôn ngữ học, phong cách học và xã hội học này đã cung cấp ba cách định nghĩa khác nhau về diễn ngôn: diễn ngôn như là cấu trúc của ngôn ngữ/lời nói, diễn ngôn như là lời nói - tư tưởng hệ, và diễn ngôn như là công cụ để kiến tạo tri thức và thực hành quyền lực. Ba quan niệm này nảy sinh trên nền tảng những cách cắt nghĩa khác nhau về bản chất, vai trò của ngôn ngữ và đều có sức lan tỏa, ảnh hưởng rất lớn đến gần như toàn bộ lý thuyết văn học và ngôn ngữ trong thế kỉ XX. Trên thực tế, trong quá trình phát triển, các lý thuyết diễn ngôn có xu hướng đan bện vào nhau, tạo nên những vùng giao thoa, những khu vực chung. Sự kết hợp này khiến cho con đường đi của khái niệm trở nên phức tạp và cho thấy nghiên cứu diễn ngôn vẫn đang là một tiến trình vận động, hứa hẹn nhiều những nhánh rẽ bất ngờ. Qua ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn, chúng ta cũng có thể quan sát thấy ngọn nguồn sự phát triển và phân nhánh phức tạp của thuật ngữ, cũng như sự tương tác, kế thừa, phủ định, sáng tạo giữa các khuynh hướng, và đặc 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan