TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU GIA CẦM THỤY PHƯƠNG
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI:
HOÀN THIỆN QUY TRÌNH CHĂN NUÔI GÀ AI CẬP,
THÁI HÒA VÀ CON LAI
CNĐT: LÊ THỊ NGA
8703
HÀ NỘI – 2010
DANH SÁCH CÁN BỘ THỰC HIỆN CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI
TT
A
Họ và tên
Cơ quan công tác
Chủ nhiệm đề tài
ThS. Nguyễn Ngọc Dụng
Trung Tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương
B
Cán bộ tham gia nghiên cứu
1
TS. Phùng Đức Tiến
Trung Tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương
2
TS. Lê Thị Nga
Trung Tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương
3
ThS. Nguyễn Thị Liên Hương
Trung Tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương
4
TS. Nguyễn Thị Nga
Trung Tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương
5
TS. Nguyễn Duy Điều
Trung Tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương
6
TS. Bạch Thị Thanh Dân
Trung Tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương
7
ThS. Vũ Đức Cảnh
Trung Tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương
8
TS. Dương Xuân Tuyển
9
ThS. Dương Trí Tuấn
Trung Tâm nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật chăn nuôi
Trung Tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền
Trung
0
MỞ ĐẦU
Từ cuối năm 2003, dịch cúm gia cầm bùng phát ở nhiều nơi trên thế
giới. Ở nước ta, đợt dịch cúm gia cầm thứ 3 (từ tháng 12/2004 đến tháng
5/2005) vịt có tỷ lệ chết và tiêu huỷ nhiều gấp 2 lần gà, tỷ lệ dương tính với
virus cúm của huyết thanh thuỷ cầm tăng từ 15% trong đợt 2 lên 39,6% trong
đợt 3 (Báo cáo dịch cúm gia cầm trong giai đoạn 2004 - 2005 của Cục Thú y).
Vì vậy vịt đang là đối tượng được quan tâm về cúm gia cầm.
Tại Thái Lan năm 2004 nghiên cứu dịch tễ học virut cúm H5N1 trên 4
hệ thống chăn nuôi vịt cho thấy hệ thống chuồng kín an toàn sinh học không
phát hiện thấy virut cúm, hệ thống chuồng hở phát hiện 4/17 trang trại
(23,5%), hệ thống chạy đồng 28/61 đàn (45,9%), hệ thống chăn nuôi nhỏ lẻ:
27% (Songserm Thaweesak và CS, 2006 [71]).
Một số nước như Anh, Pháp, Thái Lan, Indonesia,.. rất hạn chế nuôi vịt
trên ao hồ, thả đồng và sử dụng nuôi vịt theo phương thức nuôi nhốt hoàn
toàn không có ao hồ đã đạt năng suất cao, đem lại hiệu quả kinh tế và an toàn
sinh học.
Hơn nữa, vịt còn mang nhiều loại mầm bệnh khác, đặc biệt là bệnh
Sallmonella, vịt có thể mang trùng và truyền qua trứng sang thế hệ sau hoặc
làm ảnh hưởng đến các sản phẩm chăn nuôi như trứng, thịt, vì độc tố của vi
khuẩn này có thể gây ngộ độc cho người (Sharon Whitmarsh, 1997 [69]). Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Ailen khẳng định, muốn hết bệnh
trong gia cầm thì trước hết phải giữ vệ sinh chuồng trại thật sạch sẽ và thực
hiện các biện pháp an toàn sinh học là điều kiện quyết định đến chất lượng
sản phẩm và giảm chi phí trong chăn nuôi.
Chăn nuôi vịt ở nước ta có truyền thống từ lâu đời, đứng thế hai trên thế
giới về số lượng (FAO, 2008 [59]) và là nguồn thu nhập quan trọng của người
nông dân Việt Nam. Thuỷ cầm thường chiếm từ 26-29% trong tổng đàn gia
cầm. Theo ước tính của Cục Chăn nuôi thì năm 2008 tổng đàn gia cầm của cả
nước tăng gần 10% so với năm 2007 trong đó đàn thuỷ cầm năm 2006: 62,6
triệu con, năm 2007: 70 triệu con. Như vậy đàn thuỷ cầm của nước ta có
chiều hướng tăng lên về số lượng.
Phương thức chăn nuôi nhỏ hộ gia đình chiếm 73,6% ở chăn nuôi vịt.
Chăn nuôi vịt thả đồng tại đồng bằng sông Cửu Long có lợi nhuận cao, với ưu
điểm cơ bản là tận dụng điều kiện tự nhiên thuận lợi, đầu tư chi phí thấp,
mang lại lợi nhuận cao cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, phương thức chăn
nuôi này vẫn chưa được quy hoạch để đảm bảo an toàn sinh học và đang là
nguy cơ lây lan phát tán mầm bệnh, là mối đe doạ lây lan bùng phát dịch cúm
gia cầm trên diện rộng vì từ tháng 10/2007 trở lại đây, trên nhiều tỉnh, thành
phố đã xuất hiện nhiều ổ dịch cúm gia cầm mà nguyên nhân do vịt chiếm tới
86%. Vì vậy, chăn nuôi vịt thả đồng khoanh vùng trong một phạm vi nào đó
1
để có thể kiểm soát được đàn vịt, giảm thiểu lây lan dịch bệnh mà vẫn không
ảnh hưởng tới tập quán chăn nuôi cũng như ảnh hưởng tới thu nhập của người
nông d©n lµ hÕt søc cần thiết.
Để giải quyết tốt công tác đảm bảo an toàn sinh học trong chăn nuôi vịt
việc xây dựng các biện pháp xử lý môi trường nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho
sinh trưởng và phát triển của vịt, cắt đứt quá trình lây lan của dịch bệnh có ý
nghĩa quan trọng (WHO, 2005 [72]).
Hiện tại các cơ sở chăn nuôi đang sử dụng nhiều loại thuốc sát trùng
khác nhau như Virkon-S, Bioclean, antisep, Formol tuy nhiên sử dụng nhiều
cũng gây độc cho gia cầm và con người. Việc tìm kiếm các chất sát trùng tiêu
diệt được vi khuẩn nhưng ít gây độc hại, thân thiện với môi trường cũng là
vấn đề cần được quan tâm. Đồng thời xây dựng được quy trình xử lý chất thải
đảm bảo cho chăn nuôi vịt đảm bảo an toàn sinh học.
Chính vì vậy, cần định hướng cho người chăn nuôi theo các phương thức
chăn nuôi, quy trình chăn nuôi đảm bảo an toàn sinh học, quy trình vệ sinh
thú y, xử lý môi trường... phù hợp với từng vùng sinh thái, đồng thời đảm bảo
tính bền vững. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài cấp nhà nước “Nghiên
cứu các giải pháp khoa học công nghệ để phát triển chăn nuôi vịt đảm bảo an
toàn sinh học”.
Mục tiêu đề tài:
Xây dựng các giải pháp đồng bộ để chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh thú y
phòng bệnh, xử lý môi trường, hạn chế lây lan dịch bệnh để đảm bảo an toàn
sinh học cho các cơ sở chăn nuôi vịt.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.1.1. Tình hình chăn nuôi và phương thức chăn nuôi vịt
Nhiều nước trên thế giới đã rất quan tâm đến nghề chăn nuôi vịt. Năm
1970 thịt vịt chỉ chiếm 3,3% so với tổng sản lượng gia cầm. Từ năm 1996 đến
2005 sản xuất thịt gia cầm tăng 30,73%, trong đó thịt vịt tăng 68,3%. Trên
toàn thế giới sản xuất thịt vịt đã tăng liên tục từ năm 2001 đến năm 2007 với
bình quân 4,13%/năm (Sing-Hwa Hu, 2007 [70]).
Từ cuối năm 2004 đến nay, mặc dù dịch cúm gia cầm vẫn đang xẩy ra
ở nhiều nước châu Á và một số nước Đông Âu nhưng số lượng vẫn tăng dần.
Chăn nuôi thuỷ cầm trên thế giới tập trung ở một số nước châu Á, trong đó có
chăn nuôi vịt là chủ yếu. Năm 2003 toàn thế giới có 2.308.243 nghìn con vịt,
trong đó châu Á 2.058.423 nghìn con, Sản lượng thịt vịt năm 2003 toàn thế
giới có 3.327.269 tấn, trong đó châu Á: 2.711.693 tấn. Năm 2007 theo số liệu
của tổ chức FAO số lượng vịt ở châu Á là 2.473.453 nghìn con chiếm 90% đàn
vịt trên thế giới dẫn đầu là Trung Quốc chiếm 69,44%, Malaysia: 2,81%, Việt
2
Nam: 2,52%, Thái Lan: 2,15%. Có 4 nước đứng đầu thế giới về sản xuất trứng
vịt đó là Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia và Philippin chiếm 96,73% số
lượng trứng vịt trên thế giới (FAO, 2007 [59]).
Số lượng vịt trên thế giới, châu Á, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan
năm 2001-2007
Đơn vị tính: triệu con
Danh mục
Thế giới
Châu Á
Trung Quốc
Malaysia
Thái Lan
Năm
2001
2.056,16
1.811,43
1.483,64
26,45
70
Năm
2002
21.732,63
1.923,03
1.595,86
20,28
62
Năm
2003
2.308,24
2.058,42
1.731,79
31,39
48
Năm
2004
2.355,43
2.112,94
1.763,12
39,24
56,54
Năm
2005
2.644,38
2.395,38
2.034,46
41,15
56,67
Năm
2006
2.654,95
2.415,64
2.038,62
41,7
56,6
Năm
2007
2.715,26
2.473,45
2.088,89
42,8
56,6
Nguồn: FAO, 2008
Sản lượng thịt vịt trên thế giới, châu Á, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan
năm 2001-2007
Đơn vị tính: ngàn tấn
Danh mục
Thế giới
Châu Á
Trung Quốc
Malaysia
Thái lan
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
3.028,63 3.187,39 3.327,27 3.414,33 3.796,44
2.442,60 2.559,77 2.711,69 2.798,87 3.160,93
1.965,91 2.087,66 2.230,54 2.262,32 2.607,59
68,767
52,72
81,62 102,03
107
105
93
72
84,82 85,01
Năm
Năm
2006
2007
3.877,89 3.954,79
3.252,23 3.327,29
2.680,95 2.746,14
108
111
85
85
Nguồn: FAO, 2008
Có được các kết quả như vậy là nhờ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ trên các lĩnh vực: di truyền chọn giống, chăm sóc nuôi dưỡng, thú
y phòng bệnh, an toàn sinh học, phương thức chăn nuôi, .... Từ những năm
1920 vịt Khakicampbell, vịt chạy nhanh ấn Ấn Độ là những giống được chọn
lọc cho năng suất trứng cao. Các giống vịt cho năng suất thịt như vịt Anh Đào
Hugary, Tiệp Khắc. Hiện nay các giống vịt siêu thịt Super M, Super M2,
Super M3; Vịt siêu thịt Super Hearvy; vịt siêu trứng CV. Layer 2000 do Hãng
Cherry Valley của Vương Quốc Anh tạo ra. Vịt Star 57, Star 76, M15,... do
Hãng Grimau Frères cộng hòa Pháp tạo ra.
Phương thức chăn nuôi cũng có nhiều thay đổi kết hợp chăn nuôi
truyền thống với phương thức chăn nuôi công nghiệp có các trang thiết bị
hiện đại giúp cho chăn nuôi vịt phát triển mạnh mẽ.
Ở Thái Lan trước dịch cúm gia cầm năm 2004 tồn tại 4 hệ thống chăn
nuôi vịt (Narin Thongwittaya, Ph.D, 2007 [65]).
3
- Hệ thống khép kín đảm bảo an toàn sinh học cao: Các giống nuôi
thịt, Bắc Kinh và Chery valley được nuôi ở chuồng khép kín, 5.000-6.000 con
trên một chuồng. Vịt con 01 ngày tuổi được nuôi lấy thịt thời gian 50-65 ngày
được nuôi theo hệ thống cùng vào cùng ra.
- Hệ thống chuồng mở: Hệ thống này là tốt đối với cả hai giống vịt thịt
và vịt trứng bởi vì nó không tốn kém như hệ thống chuồng kín.
- Hệ thống chạy đồng: Hầu hết vịt chăn thả là vịt lấy trứng như Khaki
Campbell, vịt địa phương và vịt lai. Tuy nhiên, có cả một số nhỏ vịt thịt. Sau
7-21 ngày úm, vịt mái tơ, vịt lấy trứng được đưa đến ruộng lúa. Chúng ăn
thóc trên cánh đồng, sau đó được đưa về khu nuôi nhốt vịt, nhưng một số đàn
vịt vẫn giữ lại ở cánh đồng để giảm chi phí sản xuất, kể cả năng suất thấp hơn
và tỷ lệ chết cao.
- Hệ thống nông hộ: Vịt Bắc Kinh, Khaki Campbell và vịt lai được tiếp
tục nuôi ở nông hộ trong nhà ở khu làng xã cùng với gia súc khác; gà, ngỗng,
lợn hay chó. Ước tính 1-1,5 triệu vịt được nuôi trong nông hộ.
Sau khi xẩy ra dịch cúm gia cầm, hệ thống chăn nuôi vịt chưa có sự thay
đổi nhưng những biện pháp kiểm soát AI được tiến hành chặt chẽ. Trước khi
đưa vịt tới khu giết mổ, 60 mẫu phân của đàn được chọn để phân lập virus.
Vào cuối chu kỳ 50-60 ngày, mỗi nhà nuôi vịt cần phải được dọn sạch sẽ, tẩy
uế và để trống ít nhất 21 ngày. Sau 3-4 tuần bắt đầu nuôi vịt 01 ngày tuổi và
chu kỳ lại được lặp lại.
Tại Philipin năm 2006 có khoảng 11 triệu con vịt trong đó có 8,4 triệu
con (76%) chăn nuôi theo phương thức chăn thả nhằm tận dụng thức ăn sẵn có
ngoài thiên nhiên, giảm chi phí rất nhiều so với chăn nuôi công nghiệp, tuy
nhiên ở đây cũng xác định rõ là việc chăn nuôi này cũng có nguy cơ lây truyền
bệnh cao nhất là bệnh cúm gia cầm (EdwinC. Villar và cộng sự, 2007 [55]).
Indonesia thường chăn nuôi vịt ở các hộ nông dân vói số lượng nhỏ,
chúng được thả theo đàn và tự tìm kiếm thức ăn, các đàn vịt này thường được
nuôi trong khu vực trồng cây lương thực nhằm mục đích lấy trứng để tiêu
dùng. Tuy nhiên để giảm rủi ro do bệnh cúm gia cầm gây nên cần có hệ thống
nuôi giữ và quản lý tốt đàn vịt này đồng thời nghiên cứu lai giữa các giống vịt
để tăng năng suất đồng thời vẫn giữ được nguồn gen kháng bệnh tốt của loài vịt
chăn thả (Hardi Prasetyo, 2007 [58]).
Theo Jeng-Fang Hang và cộng sự, 2007 chăn nuôi vịt là một nghề truyền
thống của Đài loan, có vai trò rất quan trọng trong kinh tế ở nông thôn, có 5
kiểu hoạt động trong chăn nuôi vịt là: chăn nuôi vịt giống, chăn nuôi vịt thịt,
chăn nuôi vịt lấy trứng, trạm ấp và nhà máy giết mổ. Các sản phẩm đều được
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.
Như vậy, ở nhiều nước đang phát triển chăn nuôi vịt nặng về phương
thức chăn thả tự nhiên, quảng canh, tận dụng, do đó năng suất chăn nuôi thấp,
4
giá thành sản phẩm cao, thú y chưa được quan tâm, dịch bệnh còn gây nhiều
thiệt hại, đặc biệt trong tình hình của dịch cúm gia cầm hiện nay.
Do vậy, các nhà nghiên cứu trên thế giới rất quan tâm đến việc đảm bảo
vệ sinh an toàn sinh học nhằm nâng cao hiệu quả cho ngành chăn nuôi, đặc biệt
là dịch cúm gia cầm đang diễn biến phức tạp.
Khi nghiên cứu vịt nuôi nhốt, vấn đề cần quan tâm là chuồng trại và
mật độ nuôi của đàn sẽ ảnh hưởng đến không khí chuồng nuôi, nếu nồng độ
CO2 cao sẽ dẫn đến thiếu ô xi trong không khí, từ đó làm giảm sức chống chịu
bệnh tật của vịt. Nồng độ của khí NH3 vượt quá 0,01-0,02 phần nghìn thể tích
không khí trong chuồng sẽ gây hại cho niêm mạc mắt và đường hô hấp, giảm
sức đề kháng. Độ ẩm của chuồng càng cao thì ảnh hưởng của khí NH3 càng
lớn. Nếu mật độ quá cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, sinh sản của
vịt và tiểu khí hậu chuồng nuôi xấu đi, nhưng mật độ thấp sẽ không kinh tế
khi sử dụng chuồng trại. Theo tài liệu của Hãng Chery Valley mật độ nuôi
khô hoàn toàn chuồng khép kín không có sân chơi của vịt Super M nuôi sinh
sản từ 1-3 tuần tuổi 32-35 con/m2 với nhiệt độ 270C; từ 4-7 tuần tuổi 3032con/m2 với nhiệt độ 230C; từ 7-14 tuần tuổi 25-30 con/m2 với nhiệt độ
200C; từ 14-21 tuần tuổi 20-22con/m2 với nhiệt độ 180C.
Để hoàn thiện công nghệ chăn nuôi, phát huy khai thác tối đa tiềm năng
di truyền giống có nhiều công trình nghiên cứu dinh dưỡng thức ăn vịt không
những hoàn thiện sản xuất thức ăn mà còn cân bằng đầy đủ các yếu tố dinh
dưỡng cần thiết.
1.1.2. An toàn sinh học và quy trình thú y phòng bệnh cho vịt
Hiện nay các loài thủy cầm, đặc biệt là vịt đang là đối tượng quan tâm
hàng đầu trong nghiên cứu về virus cúm gia cầm. Chúng có thể mang virus
nhưng không thể hiện triệu chứng lâm sàng và thải virus qua phân (WHO [72],
CDC, 2005 [49]). Nếu gia cầm khác tiếp xúc với mầm bệnh này rất dễ bị
nhiễm bệnh.
Trong hướng dẫn an toàn sinh học của Hugh Milla, Attwood, 2004 cho
thấy: An toàn sinh học giúp làm giảm các bệnh truyền nhiễm nói chung như
bệnh cầu trùng, marek, viêm thanh khí quản truyền nhiễm…giảm nguy cơ lây
lan bệnh tật trong cơ sở chăn nuôi cũng như việc lây lan bệnh tật ra môi trường
bên ngoài và lây lan giữa các trang trại, ngoài ra an toàn sinh học còn mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
Thông tin dịch tễ thực tế cho thấy rằng: Virus có độc lực thấp từ những
chim hoang dã lây truyền cho gia cầm qua sự tiếp xúc giữa chúng đặc biệt là
qua nguồn nước (WHO, 2005 [72]). Gần đây dịch cúm xảy ra tại châu Mỹ
cũng thấy có sự liên quan biến đổi giữa virus có độc lực thấp thành độc lực cao
(Senne et al., 2006 [68]). Trong nghiên cứu về yếu tố lây truyền bệnh thì sự
tiếp xúc giữa những con vật hoang dã và con vật nuôi trong nhà có vấn đề lớn
5
trong việc lây lan mầm bệnh, tuy nhiên nếu thực hiện tốt các biện pháp an toàn
sinh học thì việc nguy cơ lây lan mầm bệnh được giảm đi rõ rệt.
Một nghiên cứu của Songserm và CS, 2006 [71] đã phát hiện thấy virus
cúm H5N1 trong đàn vịt nuôi chăn thả, bán chăn thả và vịt chăn nuôi trong
nông hộ chứ không phát hiện ở vịt nuôi tập trung.
Thái Lan không sử dụng vacxin cúm gia cầm nhưng đã áp dụng nhiều
biện pháp khác nhau để phòng chống dịch bệnh như các biện pháp cách ly, an
toàn sinh học (DLD, 2006 [54]). Trường đại học Maryland cũng cho biết
nguyên nhân gia cầm mắc bệnh phụ thuộc phần lớn vào dịch tễ của trang trại,
muốn giữ không cho mầm bệnh xâm nhập trước hết trang trại đó phải có điều
kiện vệ sinh tốt. Ở đây người ta cũng chỉ ra rằng bệnh tụ huyết trùng và bệnh
viêm thanh khí quản truyền nhiễm có tỷ lệ chết từ 10 - 20%, bệnh CRD từ 3050% còn lại là các bệnh khác. Các bệnh này hầu hết đều liên quan chủ yếu đến
môi trường chăn nuôi.
Trong thời gian gần đây do dịch cúm gia cầm nên việc thực hiện an
toàn sinh học được chú trọng hơn bao giờ hết. Trung Quốc phải chi 2 tỷ nhân
dân tệ, các nước EU đã chi 1 tỷ Euro, Indonesia đã chi 15,8 triệu USD và
World Bank chi khoảng 500 triệu USD dự kiến sẽ phải chi tiếp 1 tỷ USD
trong năm tới để hỗ trợ cho việc khống chế dịch cúm gia cầm.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Singapo và Mỹ kết luận rằng kháng thể
thụ động có thể cung cấp chiến lược cả phòng và trị bệnh cúm gia cầm
(Brendon et al, 2006 [48]).
Để đảm bảo an toàn sinh học, ngoài việc làm tốt công tác giống, thức
ăn, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, đặc biệt là công tác vệ sinh thú y, các biện
pháp cách ly, công tác vệ sinh trước, trong vµ sau khi nuôi là cần thiết. Ở gia
cầm nói chung, đặc biệt ở vịt, mầm bệnh Salmonella rất nguy hiểm (Sharon
Whitmarsh, 1997 [69]), chúng có thể tồn tại trong phân 3 năm, trong đất, nền
chuồng 2 năm. Clostridium perfingens có khả năng sinh nha bào do đó chúng
có thể tồn tại rất lâu trong môi trường, nền chuồng…Đồng thời trong khi đang
nuôi, các mầm bệnh có thể qua gió, bụi, thậm chí trong chất thải của những cá
thể mang trùng bám vào chuồng trại và các dụng cụ chăn nuôi. An toàn sinh
học trong chăn nuôi, đặc biệt trong chăn nuôi gia cầm là vấn đề quyết định
năng suất và hiệu quả chăn nuôi (Dan B Smith [53]).
Bên cạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, việc phòng bệnh chủ động bằng
vaccine là rất quan trọng. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế thì trong
tháng 12/2003 và tháng 01/2004 dịch cúm gà đã gây ra đại dịch ở 11 nước và
vùng lãnh thổ công bố dịch cúm gia cầm do virus H5N1 gây ra bao gồm: Hàn
Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Indonexia, Trung
Quốc, Hồng Kong, Đài Loan, Pakistan mà tác nhân gây bệnh là virus cúm A.
Các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu Cáp Nhĩ Tân đã sản xuất thành
công vacxin tái tổ hợp phòng chống cúm gia cầm và Newcatle, vaccine có thể
6
dùng theo đường tiêm, đường miệng, đường mũi hoặc theo phương pháp khí
dung. Đến cuối tháng 12/2005 Trung Quốc đã sản xuất được một tỉ liều
(Trích theo Tô Long Thành, 2005 [32]). Sử dụng vacxin tái tổ hợp có vecter
dẫn truyền cho phép phân biệt được con vật nhiễm bệnh tự nhiên và con vật
được tiêm chủng.
Một báo cáo về nghiên cứu về kháng thể thụ động cúm gia cầm ở Thổ Nhĩ
Kỳ, kháng thể được thu thập từ những bệnh nhân mắc cúm gia cầm. Việc sản
xuất kháng thể này mục đích giúp các bệnh nhân mắc bệnh cúm gia cầm
nhanh phục hồi sức khỏe.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Singapo và Mỹ kết luận rằng kháng thể thụ
động có thể cung cấp chiến lược cả phòng và trị bệnh cúm gia cầm (Brendon
et al, 2006 [48]).
Một nhóm các nhà nghiên cứu của Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ về công nghệ sinh
học đã thành lập thư viện kháng thể chống cúm gia cầm (H5N1) mục đích
điều trị cho người mắc bệnh và hướng tới việc tiêm phòng chống dịch cúm
gia cầm.
Như vậy vấn đề chăn nuôi vịt như thế nào để đảm bảo an toàn là mối
quan tâm của nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước có số lượng vịt lớn
nằm ở khu vực châu Á.
Bệnh dịch tả vịt là bệnh của nhiều loài, nhưng vịt là loài cảm nhiễm
nhất, các giống vịt ở mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh. Tỷ lệ vịt mắc bệnh và
chết có thể lên tới 100%. Mức độ cảm nhiễm có thể khác nhau tùy theo giống
vịt. Virus dịch tả vịt có thể tiềm tàng trong cơ thể vịt và có khả năng tái hoạt
động trở lại. Sau 3 tuần gây nhiễm không tìm thấy virus dịch tả vịt trong lỗ
huyệt nhưng 7 - 9 tuần sau gây nhiễm, bằng phản ứng PRC, tác giả đã phát
hiện thấy AND virus dịch tả vịt trong thần kinh trung ương, hạch lâm ba
ngoại vi, lách, tuyến ức và túi Bursa.
Trong tự nhiên, đường xâm nhập chủ yếu của virus dịch tả vịt là đường
tiêu hoá. Vịt bệnh bài xuất căn bệnh theo phân, nước mắt, nước mũi làm ô
nhiễm thức ăn, nước uống và bệnh lây lan sang vịt khoẻ và các động vật cảm
nhiễm khác. Nguồn nước và các động vật thuỷ sinh trong đó cũng đóng vai
trò nhất định trong việc truyền lây căn bệnh. Khi dịch xảy ra, việc bán chạy
vịt bệnh, mổ thịt vịt ốm đều làm cho bệnh lan đi rất nhanh và xa. Bệnh lây lan
rất nhanh và mạnh theo phương thức truyền lây gián tiếp nhưng phương thức
truyền lây trực tiếp từ mẹ sang con cũng có thể xảy ra. Khi làm phản ứng
trung hoà theo phương pháp huyết thanh pha loãng, virus cố định; vào ngày
21 sau khi tiêm vacxin, nếu hiệu giá kháng thể trong huyết thanh đạt từ 1/59 1/250 thì vaccine được coi là có hiệu lực, bảo hộ được đàn vịt.
Ngoài các bệnh do virus gây nên, các bệnh do vi khuẩn như E. Coli,
Salmonella, Mycoplasma cũng thường xuyên gây thiệt hại cho các đàn vịt. Bệnh
7
do các chủng vi khuẩn Escherichia coli (E. Coli) thuộc nhóm gây bệnh cho gia
cầm (APEC) gây ra.
Theo Trung tâm Phòng và ngừa bệnh (Disease Control and Prevention):
tính đến ngày 22 tháng 01 năm 2009 có 491 số người mắc bệnh thương hàn do
loại vi khuẩn: Salmonella typhimurium đã xuất hiện ở 43 tiểu bang của Mỹ
(Radcliffe, 2000 [67]).
Bệnh bạch lỵ do Salmonella trong tự nhiên lây theo 2 phương thức:
trực tiếp và gián tiếp. Truyền bệnh trực tiếp hay còn gọi là truyền dọc qua
trứng là nguy hiểm nhất, rất nhiều nghiên cứu đã phát hiện thấy sự có mặt của
vi khuẩn Salmonella từ lòng đỏ trứng. Gia cầm bố mẹ mang trùng truyền qua
trứng giống, tỷ lệ trứng mang trùng biến động có thể đến 50%. Số trứng này
tỷ lệ ấp nở rất thấp, gia cầm con nở ra từ trứng bệnh sẽ mắc bệnh, tỷ lệ chết
cao và là nguồn reo rắc mầm bệnh.
Mầm bệnh có nhiều trong bụi ở chuồng nuôi, một gam bụi có từ 1 - 10 triệu
vi khuẩn E. Coli và chúng có thể tồn tại ở đó trong 1 thời gian dài.
Bệnh Salmonella chủ yếu do Salmonella typhimurium, enteritidis, anatum,
gallinarum và pullorum. Mầm bệnh xâm nhập chủ yếu qua thức ăn, nước
uống. Một trong những đường truyền bệnh quan trọng là truyền dọc qua
trứng. Rất nhiều nghiên cứu đã phát hiện thấy sự có mặt của vi khuẩn
Salmonella từ lòng đỏ trứng vịt. Con đường lây truyền thứ hai là sự xâm
nhiễm vi khuẩn Salmonella qua vỏ trứng. Từ phân, Salmonella thường gây ô
nhiễm vỏ trứng trong quá trình đẻ hoặc từ ổ đẻ (Hồng Nga dịch, 2006).
Bệnh tự nhiên lây theo 2 phương thức: trực tiếp và gián tiếp (từ gia cầm
bệnh lây sang con khác do các chất thải từ miệng, phân, ăn uống chung với
con khoẻ, qua quần áo, giầy dép và các phương tiện vận chuyển và đặc biệt
qua quá trình ấp nở). Truyền bệnh trực tiếp là nguy hiểm nhất, gia cầm bố mẹ
mang trùng truyền qua trứng giống, tỷ lệ trứng mang trùng biến động có thể
đến 50%.
Để có thể đưa ra biện pháp sát trùng hiệu quả nhất, trước hết cần chú ý
đến các loại mầm bệnh có thể tồn tại và các mầm bệnh có khả năng gây thành
dịch. Thông thường, khi không xác định được các đối tượng này, nên dùng
các phương tiện sát trùng có phổ sát khuẩn rộng. Các bề mặt như nền chuồng,
tường cần được được dọn và rửa sạch trước khi sát trùng. Thao tác này sẽ
giúp loại bỏ một số lượng lớn vi sinh vật và tăng hiệu quả sát trùng. Người
làm công việc sát trùng cần được huấn luyện kỹ để hiểu rõ các yêu cầu cần
thiết khi tiến hành công việc, trước khi xử dụng các chất sát trùng, phải đọc
kỹ hướng dẫn xử dụng. Nên chọn chất sát trùng phù hợp với đối tượng và
điều kiện thực tế.
Bệnh Mycoplasma là bệnh truyền nhiễm chung của nhiều loại gia cầm, đặc
biệt là khi nuôi theo hướng tập trung công nghiệp thì tỷ lệ nhiễm bệnh càng
cao. Có 2 đường truyền lây bệnh chính: truyền dọc qua trứng đến các thế hệ
8
sau, vi khuẩn xâm nhập vào phôi gây chết phôi; truyền ngang do gia cầm
khỏe bị nhiễm bệnh từ tiếp xúc trực tiếp với mầm bệnh từ con bệnh, vật mang
trùng hoặc trong bụi.
Để phòng và trị bệnh vi khuẩn trên vịt, ngoài công tác vệ sinh phòng
bệnh, việc dùng các chế phẩm sinh học và kháng sinh là cần thiết.
Hiện nay có rất nhiều các công trình nghiên cứu thành công các chế
phẩm sinh học để bổ sung vào trong khẩu phần ăn cho gia cầm, nhằm giảm
việc sử dụng kháng sinh. Một số chế phẩm sinh học như Orgacids, Allzym, có
tác dụng kích thích tính ăn ngon miệng, làm giảm pH trong đường ruột, máu,
phân - ức chế virus và vi khuẩn gây bệnh làm giảm nguy cơ mắc các bệnh
như cúm gia cầm, Newcastle, Gumboro, E. Coli, Salmonella, Clostridium, các
chế phẩm này cũng kích thích sự phát triển của vi khuẩn hữu ích giúp ổn định
hệ vi sinh vật trong đường ruột (Mingan Choct, 2002 [64]). Mặt khác khi sử
dụng các chế phẩm này không ảnh hưởng đến chất lượng thịt cũng như ảnh
hưởng đến sức khoẻ con người cũng như không tạo điều kiện cho vi khuẩn có
khả năng gây nhờn thuốc (Patterson J.A. [66]).
Chương trình an toàn sinh học cho cơ sở ấp trứng cần phải dựa vào ba
yếu tố con người, sản phẩm và thủ tục” thì mới chắc chắn đạt hiệu quả.
An toàn sinh học trong cơ sở ấp trứng là những biện pháp tổng hợp nhằm
bảo vệ gia cầm con khi nở ra và người làm nhiệm vụ ấp trứng không bị dịch
bệnh tấn công, đồng thời tạo cho đàn giống có sức đề kháng tốt nhất để sinh
trưởng, sinh sản.
Charler Demming, 1995 [51] cho biết ngoài những thiếu sót về kỹ
thuật ấp (điều kiện ấp không đầy đủ) còn phải quan tâm đến trứng bị nhiễm các
loại vi sinh vật, vì nguyên nhân gây chết phôi cao ở trứng gia cầm là do trứng bị
nhiễm nấm mốc và vi khuẩn. Vì vậy, phải khử trùng trứng trước khi bảo quản và
trước khi vào ấp, do đó việc khử trùng cho trứng là rất cần thiết.
Trong quy định chung về an toàn dịch và vệ sinh thú y các cơ sở giống
và ấp trứng gia cầm có những nội dung quy định về địa điểm chăn nuôi, chế
độ cách ly, quy định về vệ sinh chuồng trại và trang thiết bị chăn nuôi, ấp
trứng đặc biệt là sự kiểm soát Salmonella và vệ sinh thức ăn. Theo Radcliffe,
2000 [67] các axit hữu cơ cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước châu Âu nhằm
hạn chế bệnh do Salmonella và các bệnh do vi khuẩn khác gây nên.
Khử trùng trứng có thể bằng nhiều cách: khử trùng trứng bằng
formandehyd, bằng tia tử ngoại, khử trùng bằng ozon hoặc khử trùng bằng
Virkon … Trong thực tế sản xuất ở nước ta các cơ sở ấp thường khử trùng
bằng hơi formandehyd. Theo Foggin C. M, 1992 [56] liều lượng thuốc khử
trùng trứng dẫn đến phản ứng hoá học làm cho toả nhiệt khi hơi formandehide
được giải phóng. Thời gian xông 20 phút với điều kiện nhiệt độ 20-25oC.
9
Làm sạch và khử trùng theo quy định của chương trình an toàn sinh học
sẽ đảm bảo được số lượng vi khuẩn luôn đáp ứng những giới hạn (ví dụ như:
Salmonella và giảm 99,99% tổng số vi khuẩn trong môi trường).
Ấp trứng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và thị trường. Vì vậy,
để giữ uy tín cần giữ cho gia cầm 01 ngày tuổi không bị nhiễm bệnh. Trong
quá trình ấp gia cầm không bị nhiễm bệnh, nhưng có thể bị nhiễm sau khi nở
nếu an toàn sinh học không đảm bảo. Do vậy, cần phải đảm bảo an toàn sinh
học nghiêm ngặt, giám sát chặt chẽ do khả năng gây bệnh rộng khắp từ các cơ
sở ấp riêng rẽ không có kiểm soát.
Theo Charler Deeming, 1995 [51] nguyên nhân chết phôi cao ở trứng
gia cầm là do trứng bị nhiễm nấm mốc và vi khuẩn. Vì vậy phải khử trùng
trứng trước khi bảo quản và trước khi vào ấp. Ngoài ra điều kiện trong máy
ấp, máy nở thích hợp cho các vi khuẩn phát triển.
Chương trình an toàn sinh học Dupont phù hợp với các nguyên lý của
HACCP đã cung cấp chi tiết các hoạt động kiểm soát để loại bỏ những nguy
cơ nhiễm vi khuẩn của gia cầm con từ: trứng; khu ấp và thiết bị gây nhiễm;
không khí, hệ thống thông thoáng; người và thiết bị có thể di chuyển được.
Mục tiêu của chương trình là ngăn chặn bệnh tật gây ra trong thời gian ấp nở
trứng, đồng thời đáp ứng mục tiêu ngăn chặn sự lây lan truyền nhiễm trong ấp
nở.
Làm sạch và khử trùng trứng và máy ấp nở là bước đầu tiên nhằm đảm
bảo tối ưu vệ sinh khu ấp nở, tạo điều kiện ấp nở tốt nhất.
1.1.3. Các giải pháp xử lý chất thải đảm bảo vệ sinh môi trường
Đối với các cơ sở chăn nuôi gia cầm nói chung, chăn nuôi vịt nói riêng
các chất thải gây ô nhiễm môi trường có tác động trực tiếp không những tới
sức khoẻ cộng đồng, mà còn làm giảm sức đề kháng của gia cầm, tăng khả
năng mắc bệnh, năng suất thịt trứng không cao, hiệu quả chăn nuôi thấp
(http://i115srv.vu-wien.ac.at/bm/sym/richteng.htm). Đặc biệt trong điều kiện
dịch cúm hiện nay nếu môi trường chăn nuôi không tốt, sức đề kháng của gia
cầm giảm sút sẽ là nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Ô nhiễm môi trường chăn
nuôi chủ yếu từ nước thải chăn nuôi, chất thải rắn, bụi, tiếng ồn, xác gia súc,
gia cầm chết chôn lấp không đúng kỹ thuật. Đối với gia cầm nguồn chất thải
chính là phân có chứa rất nhiều các thành phần kim loại như Cu, Fe, Al, Zn,
Cr, Nitơ, photpho và các chất hữu cơ. Ngoài ra trong chất thải rắn, lỏng chứa
nhiều vi sinh vật, trứng giun, hiệu giá BOD, COD cao nếu không có biện
pháp thu gom và xử lý sẽ ảnh hưởng rất lớn gây ô nhiễm môi trường xung
quanh từ đó đến sức khoẻ con người, vật nuôi. Do đó xây dựng các biện pháp
xử lý môi trường nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho sinh trưởng và phát triển
của vịt, cắt đứt quá trình lây lan của dịch bệnh có ý nghĩa quan trọng.
10
Việc nghiên cứu xử lý chất thải chăn nuôi được nhiều nước quan tâm.
Tuỳ thuộc vào vị trí chuồng trại, khả năng đầu tư thiết bị mà mỗi nước áp
dụng các hệ thống xử lý chất thải khác nhau: như hệ thống đồng cỏ, hầm chứa
lộ thiên, hệ thống các bể lắng lọc, ao sinh học, hệ thống biogas, dùng hoá chất
xử lý.... Xử lý chất thải bằng hệ thống biogas được nhiều nước áp dụng.
Trung Quốc, Ấn Độ dùng loại hình biogas xây chìm dưới lòng đất có nắp
hình vòm cuốn đắp nổi. Đài Loan, Comlombia dùng hầm biogas túi ủ bằng
chất dẻo. Dengliang Wei, 2000 (trích theo Phùng Thị Vân và CS, 2003 [40])
cho biết hiệu quả xử lý phân lợn bằng hệ thống IC-SBR (là một hệ thống bao
gồm lò phản ứng IC gây phân huỷ yếm khí nguyên liệu ban đầu nối liền với
lò phản ứng phối hợp SBR để xử lý chất thải phân huỷ yếm khí trực tiếp).
Hiệu giá COB giảm 80,7%. Sau khi tiếp hệ thống SBR hiệu quả giảm ô nhiễm
môi trường đạt được như sau: COD giảm 95,5%. Ni tơ tổng số 93%, phốt pho
tổng số giảm 75,2%, NH3-N giảm 99,94%.
Trên thế giới đã nghiên cứu nhiều chế phẩm dùng để xử lý môi trường như
khử mùi, tạo chất xúc tác hoá học, phá huỷ các mối liên kết hoá học của chất thải
để dễ dàng phân huỷ nhằm tăng hiệu quả trong quá trình xử lý: như Anolyte,
De-odorase, EM,...... Hiện nay tại Bỉ tập đoàn ASPAC Intl đã sản xuất chế
phẩm BUN ODOUR là một sản phẩm tự nhiên tổng hợp độc đáo và hiệu
quả từ 52 loại tinh dầu chiết xuất nguồn gốc tự nhiên và có khả năng phá
huỷ rất nhiều hợp chất mùi khó chịu trong không khí chuồng trại chăn nuôi....
Bun odour có quy mô là sản phẩm mới có ứng dụng rộng rãi: đưa vào bể xục
khí CO2, trạm bơm, nhà máy xử lý nước thải, hố bùn, rác, lò giết mổ, khu
chứa rác, thiết bị tái sinh và trộn phân, trại chăn nuôi , vườn thú. ... Hiện nay
Bun dour dùng xử lý môi trường là công nghệ mới, một sự lựa chọn rẻ, thân
thiện với môi trường.
Phương pháp sản xuất dung dịch hoạt hoá điện hoá (Electrochemical
activation ECA) được nhà bác học người Nga Bakhir V.M tìm ra từ năm 1972
và cho đến nay được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới trong các ngành y tế,
nông nghiệp, dịch vụ sinh hoạt với vai trò là chất khử trùng ưu việt: hiệu quả
khử trùng cao, thân thiện với môi trường, giá rẻ (Nguyễn Hoài Châu, 2005
[8]).
Hiện nay ứng dụng công nghệ vi sinh trong xử lý chất thải chăn nuôi đã
được áp dụng rộng rãi trên thế giới (Arora,1996 [44]; Bagnaso,1998 [46];
Kenedy, 2002 [62]). Hầu hết các vi sinh vật để xử lý phế thải chăn nuôi là các
chủng vi sinh vật đa chức năng có tác dụng phân giải xenluloza, protein, phân
giải lân, khử mùi hôi, thối giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường,
ngoài ra sản phẩm sau ủ còn sử dụng như loại phân hữu cơ bón cho cây trồng.
Phân hữu cơ sản xuất theo phương pháp này không chỉ đảm bảo độ an toàn về
vệ sinh thực phẩm mà còn là sản phẩm hang hoá có giá trị đáp ứng nhu cầu
dinh dưỡng cho cây trồng và phát triển nông nghiệp bền vững.
11
Chantsavang và CS, 1992 [50] nghiên cứu xử lý chất thải của lợn bằng
phương pháp sử dụng các visinh vật có ích (EM). Kết quả cho thấy EM rất
thích hợp cho việc xử lý chất thải từ quá trình chăn nuôi lợn, khi vệ sinh lợn
và chuuồng nuôi hang ngày với EM pha loãng có thể kiểm soát hiệu quả các
mùi hôi thối thoát ra từ chất thải của lợn.
Cracas và pilippine, 2000 [52] đã sử dụng giun để xử lý phân gia súc và
hỗn hợp rác thải hữu cơ. Phương pháp này sử dụng các loại giun như giun quế
(Lumbricus rubellus) và một số loại giun khác như tác nhân chính để xử lý
phân gia súc. Nguyên tắc cơ bản của phương pháp này là sử dụng giun như
loại động vật để phân huỷ chất hữu cơ trong phân gia súc và rác thải. Giun sẽ
sử dụng phân gia súc và rác thải hữu cơ như một loại thức ăn và sản phẩm
thải ra từ giun được coi là sản phẩm của quá trình xử lý .
Phương pháp ủ phân truyền thống đã được ứng dụng ở một số nước
trên thế giới như Trung Quốc, Ân Độ, Mỹ. Với kỹ thuật tương đối đơn giản
sau khi phân lợn được thu gom từ các trại chăn nuôi, phân có thể được xử lý
bằng 2 cách: ủ chìm và ủ nổi thời gian ủ 4-6 tháng, sau khi thấy phân hoại
mục không còn hôi thối là có thể dụng bón cho cây trồng.
Trong phương pháp làm phân compost thông thường, các thành phần
được trộn với nhau sau đó vun thành đống để ủ. Vật liệu bổ sung và chất độn.
Vì quá trình compost xảy ra một cách tự nhiên, nên quá trình đòi hỏi các điều
kiện chính xác để diễn biến nhanh, giảm sự thiểu phát sinh mùi và tránh các
vấn đề gây nhiễu. Có tới trên 20 yếu tố cần phải kiểm soát ảnh hưởng tới quá
trình ủ compost.
1.1.4. M« h×nh ch¨n nu«i ®¶m b¶o an toµn sinh häc vµ hiÖu qu¶ trong ch¨n
nu«i vÞt
N¨m 2005, kho¶ng 2-3 triÖu vÞt ®−îc nu«i trong hÖ thèng an toµn sinh
häc cao khÐp kÝn. Trong khi ®ã hÖ thèng chuång nu«i më kh«ng ®−îc thùc
hiÖn ë lo¹i vÞt thÞt, ®Æc biÖt lµ viÖc xuÊt khÈu cã liªn quan tíi an toµn thùc
phÈm vµ biÖn ph¸p kiÓm so¸t dÞch bÖnh. Tuy nhiªn, vÞt ®Î vÉn ®−îc nu«i trong
hÖ thèng chuång ®−îc phñ b»ng nyl«ng ®Ó chÆn chim hoang d· x©m nhËp.
Gi¸m s¸t an toµn sinh häc vµ kiÓm so¸t dÞch bÖnh ®−îc thùc hiÖn nh− trªn
nh−ng cø 3 th¸ng l¹i ph©n tÝch mÉu mét lÇn.
Tháng 10 năm 2005 chính phủ Thái Lan đã cấm việc chăn thả vịt hoặc di
chuyển từ vùng này sang vùng khác, người chăn nuôi sẽ bị phạt nếu vi phạm.
Nếu xảy ra dịch cúm gia cầm xảy ra trên các đàn vịt nuôi thả đồng họ sẽ
không được nhận tiền bồi thường. Hiện tại việc nuôi chăn thả cũng đã được
hạn chế, việc thực hiện an toàn sinh học cũng được nâng cao ở Thái lan
(Songserm Thaweeksak và cộng sự, 2006 [71]). Các giống nuôi thịt, Bắc
Kinh và Chery valley được nuôi ở chuồng khép kín, 5.000-6.000 con trên một
chuồng. Vịt con 01 ngày tuổi được nuôi lấy thịt thời gian 50-65 ngày được
nuôi theo hệ thống cùng vào cùng ra.
12
1.2. Tình hìmh nghiên cứu trong nước
1.2.1. Tình hình chăn nuôi và phương thức chăn nuôi vịt
Việt Nam là một nước có số lượng vịt đứng thứ hai trên thế giới (sau
Trung Quốc). Điều đó chứng tỏ nghề chăn nuôi vịt ở nước ta phát triển khá
mạnh mẽ và đóng góp một phần không nhỏ vào thu nhập của người chăn
nuôi.
Số lượng đầu con thủy cầm giai đoạn 2001 – 2006
ĐVT: triệu con
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Số
lượng
Số
lượng
Số
lượng
57,9
63,6
68,9
Năm 2004
Năm 2005
Số
So với
Số
lượng năm trước lượng
(%)
59,0
89,5
59,9
So với
năm trước
(%)
101,5
Năm 2006
Số
lượng
62,6
So với
năm trước
(%)
104,5
Nguồn: Cục Chăn nuôi – Bộ nông nghiệp & PTNT, 2007
Năm 2001 tổng đàn thuỷ cầm 57,9 triệu con, năm 2003: 69,9 triệu con,
do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm nên năm 2004 chỉ còn 59 triệu con. Do
xu hướng bùng phát mạnh của dịch cúm gia cầm trên đàn thủy cầm nên Bộ
nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo gắt gao thực hiện việc không
cho phép ấp nở, tăng đàn thủy cầm trong hai năm từ 4/2/2005 đến 28/2/2007,
song đàn thủy cầm vẫn phát triển. Cụ thể năm 2005 đàn vịt cả nước 59,9 triệu
con tăng 1,5% so với năm trước. Năm 2006: 62,6 triệu con tăng 4,5%. Năm
2007 tổng đàn thủy cầm đã hơn 68 triệu con (Báo Lao động số 280 ngày
1/12/2007 [5]).
Chăn nuôi vịt đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân
Việt Nam, Vịt ®−îc nu«i chạy đồng mang lại công ăn việc làm, hiệu quả kinh
tế cho người nông dân, trang trại, tuy nhiên vấn đề còn tồn tại là chăn nuôi vịt
chạy đồng gây ô nhiễm nguồn nước, dễ lây lan dịch bệnh.
Tõ nhiÒu n¨m nay, ch¨n nu«i vÞt mang l¹i nhiÒu viÖc lµm vµ lµ nguån
kinh tÕ quan träng cña hµng triÖu hé n«ng d©n, nhiÒu trang tr¹i ®Æc biÖt lµ
vïng ®ång b»ng s«ng Cöu Long (24,6 triÖu con) vµ ®ång b»ng s«ng Hång
(17,6 triÖu con), hai ®ång b»ng nµy sè l−îng vÞt chiÕm 61,1% tæng ®µn vÞt c¶
n−íc (§inh Xu©n Tïng, 2008 [37]).
Chăn nuôi vịt kết hợp với trồng lúa được nông dân áp dụng rộng rãi,
ngoài vai trò chủ yếu là tạo thu nhập cho người nông dân thì con vịt cßn cã t¸c
®éng trong hệ sinh thái nông nghiệp vì chóng diệt ®−îc rầy nâu, sâu bọ, ốc biêu
vàng. Con vịt bơi lội làm tăng lượng oxy hòa tan trong nước giúp cây lúa phát
triển tốt hơn. Các mô hình nuôi trồng kết hợp vịt cá lúa có hiệu quả nhờ giảm
lượng phân bón, không sử dụng thuốc trừ sâu (Dương Xuân Tuyển, 2006 [39])
13
T¹i đồng bằng sông Cửu Long chăn nuôi vịt lấy trứng ®−îc th¶ ®ång
theo vụ lúa để tận dụng lúa rơi và nguồn thức ăn sẵn có từ những cánh đồng lúa
sau thu hoạch, thời gian cho vịt chạy đồng chiếm trung bình 74% tổng thời
gian của một vụ nuôi, trong thời gian nuôi các hộ cho vịt chạy đồng liên tục
của 3 tháng cho chuyển sang đồng mới. Với phương thức chăn nuôi này tiết
kiệm chi phí hơn so với nuôi vịt nhốt vịt ở nhà trung bình 350 đồng/trứng,
tương ứng với tỷ lệ tiết kiệm là 48%, chi phí tính trên 1 trứng trong phương
thức chạy đồng chỉ bằng 52% chi phí/1 trứng nếu nuôi nhốt ở nhà. Tuy nhiên
ph−¬ng thøc ch¨n nu«i chạy đồng cũng thường gặp phải những rủi ro về giá
bán vịt giống, b¸n trøng. Nhưng rủi ro lớn nhất là hao hụt về số lượng do dịch
bệnh (Mai Văn Nam, 2007 [22]).
N¨m 2003 tæng s¶n l−îng thÞt thuû cÇm 106 ngh×n tÊn, n¨m 2004: 85,4
ngh×n tÊn, n¨m 2005: 87,9 ngh×n tÊn t¨ng so víi n¨m 2004 lµ 2,9%. N¨m
2006 sè l−îng trang tr¹i ch¨n nu«i gia cÇm cã 2.837 chiÕm 16% so víi tæng
sè trang tr¹i toµn quèc, trong ®ã ch¨n nu«i vÞt lµ 668 trang tr¹i. C¸c trang tr¹i
ch¨n nu«i ph¸t triÓn ch−a theo quy ho¹ch, ®Çu t− vµ ph©n bè kh«ng ®Òu trªn
c¸c vïng sinh th¸i.
Từ khi xảy ra dịch cúm gia cầm Việt Nam đã có nhiều biện pháp nhằm
giảm thiểu rủi ro do dịch bệnh gây nên, từ tháng 4/2/2005 đến tháng 28/2/2007
đã cấm ấp trứng và nuôi mới thủy cầm.
Năm 2005 chính phủ đã phải chi với số tiền là 480 nghìn tỷ đồng để tiêm
phòng vaccin cho toàn bộ đàn gia cầm trên cả nước, nhưng các nhà chuyên
môn và quản lý vẫn khuyến cáo rằng tiêm phòng vaccin chỉ là 1 biện pháp
trong nhiều biện pháp tổng hợp để khống chế dịch bệnh và khẳng định biện
pháp an toàn sinh học vẫn là hàng đầu.
Một số thí nghiệm nghiên cứu về ảnh hưởng của mùa vụ, phương thức
nuôi và các vùng sinh thái đến một số chỉ tiêu sản xuất của đàn vịt CV Super
M: Kết quả nuôi khô hoàn toàn một số chỉ tiêu năng suất thấp hơn vịt nuôi bơi
lội nhưng chi phí đến sản phẩm cuối cùng là vịt con một ngày tuổi thì thấp hơn
nuôi nước (Nguyễn Hồng Vĩ và cộng sự, 2005 [42]).
Hiện nay chăn nuôi vịt ở nước ta cũng theo 4 phương thức chủ yếu:
Chăn nuôi nông hộ, chăn nuôi vịt chạy đồng, chăn nuôi bán công nghiệp và
chăn nuôi công nghiệp.
Chăn nuôi vịt ở nước ta thường nuôi theo lối tận dụng, phân tán, tự do,..
bởi vậy từ tháng 10/2007 trở lại đây, trên nhiều tỉnh, thành phố đã xuất hiện
nhiều ổ dịch cúm gia cầm mà nguồn bệnh do vịt chiếm tới 86%. Trong đó các
đàn vịt chạy đồng từ xã này sang xã khác, huyện này sang huyện khác, tỉnh
này sang tỉnh khác, thậm chí là vịt xuyên biên giới Việt Nam – Campuchia,..
chính là nguyên nhân chủ yếu gây sự bùng phát và lây lan dịch bệnh trên diện
rộng. Từ nguyên nhân cơ bản phải định hướng cho người chăn nuôi theo các
14
phương thức chăn nuôi phù hợp với từng vùng sinh thái đồng thời đảm bảo
tính bền vững.
Theo số liệu điều tra của Đinh Xuân Tùng, 2008 [37] phương thức chăn
nuôi vịt ở nước ta khi dịch cúm gia cầm xẩy ra đã có sự thay đổi: phương thức
bán thả rông trước khi bị dịch cúm gia cầm: 59% sau dịch là 18%. Nuôi nhốt
trên cạn có rào quây trước khi bị dịch cúm gia cầm: 4% sau dịch là 10%. Một
phần nuôi nhốt có rào quây (ao cá,..) trước khi bị dịch cúm gia cầm: 37% sau
dịch là 72%.
Thay đổi về cung cách chăn nuôi vịt (%)
Diễn giải
Bán thả rông
Nuôi nhốt trên cạn có rào quây
Một phần nuôi nhốt có rào quây
(ao cá,..)
Bị dịch
Trước Sau
47
17
6
12
47
71
Không bị dịch
Trước Sau
66
18
3
10
32
72
Tất cả
Trước
Sau
59
18
4
10
37
72
Nguồn: Đinh Xuân Tùng, 2008
Bïi Xu©n MÕn, khoa n«ng nghiÖp, tr−êng ®¹i häc CÇn Th¬ cho biÕt: Có
một lựa chọn mà người chăn nuôi trong vùng áp dụng là phương thức nuôi vịt
nhốt hoàn toàn. Người chế biến và tiêu dùng an tâm với sản phẩm từ phương
thức chăn nuôi này do vịt được nuôi trong điều kiện có kiểm soát, nhất là
trong tình hình cúm gia cầm H5N1 vẫn còn tồn tại và phát bệnh trên đàn gia
cầm ở nhiều địa phương hiện nay. Vịt chạy đồng trước khi bán cũng được áp
dụng phương thức nuôi nhốt vỗ béo khi mà vịt chưa đủ độ giết thịt và cũng
cải thiện được chất lượng thân thịt.
Theo phương thức nuôi nhốt vịt hiện nay mang lại hiệu quả cao. Mặc dù
phương thức nuôi nhốt đã được người chăn nuôi ở vùng nông thôn ứng dụng
và vẫn tận dụng nguồn thức ăn ngoài tự nhiên với một lượng nhỏ, để bổ sung
thêm như ốc bươu vàng, rau bèo các loại và phải có lao động đi thu lượm.
Như vậy, nguồn thức ăn cho vịt nuôi nhốt hoàn toàn phải đi mua, ngoại trừ
với những người nuôi vịt với số lượng ít và tận dụng các nguồn phụ phẩm phế
thải trong sinh hoạt của nông hộ để chăn nuôi.
1.2.2. An toµn sinh häc vµ quy tr×nh thó y phßng bÖnh cho vÞt
Ngày 14/3/2008 theo “tin nhanh.com” [33] ở Quảng ngãi, vịt chết hàng
loạt do dịch tả vịt. Báo Sài Gòn Giải phóng ngày 31/5/2008 [3] đã viết “Ở Phú
Yên, dịch tả vịt bùng phát, lan rộng ở nhiều địa phương như Tuy An, Tây Hoà,
Phú Hoà, riêng xã Hoà Trị - Phú Hoà trong tuần đã có trên 1300 con vịt chết do
dịch tả vịt.
Qua phân tích trình tự nucleotide 8 đoạn ARN của 9 chủng virus cúm
H5N1 từ người (2 chủng), chim cút (1 chủng), vịt (2 chủng), và gà (4 chủng)
trong đợt dịch 2003-2004 và lập cây phả hệ, Nguyễn Tiến Dũng và cộng sự,
15
2004 [13] cho thấy các chủng virus H5N1 lưu hành ở Việt Nam đều giống
nhau và có cùng nguồn gốc từ Trung Quốc và xuất phát từ một ổ dịch ban
đầu.
Một nghiên cứu khác của Nguyễn Tiến Dũng, 2004 [12] trên đàn gia cầm
của tỉnh Thái Bình và Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy ngoài virus cúm
H5N1, đàn gia cầm còn nhiễm các loại virus typ A có kháng nguyên H3, H4,
H6, H9, H11và H12 với tỉ lệ nhiễm khác nhau.
Một nghiên cứu khác của Viện Thú y về sự lưu hành của virus trong đàn
chim di cư qua việc phân tích 320 mẫu phân chim tại một số địa phương trong
đó có Vườn Quốc gia Xuân Thủy, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định bằng
phương pháp RT -PCR, kết quả không phát hiện thấy virus cúm.
Viện Thú y đã nghiên cứu thử nghiệm vaccine H5N2 của Intervet (Hà
Lan); H5N2 và H5N1 của Trung Quốc. Kết quả cho thấy vaccine tiêm cho
đàn gia cầm đều đạt yêu cầu về độ tinh khiết, độ an toàn và hiệu lực theo
đúng tiêu chuẩn của nhà sản xuất. Đặc biệt vaccine H5N1 của Trung Quốc có
thể tiêm cho đàn vịt có huyết thanh dương tính vẫn đạt tỉ lệ bảo hộ tốt và an
toàn.
Bụi và những giọt nước nhỏ trong không khí thường mang nhiều loại vi
sinh vật, cả vi sinh vật vô hại và vi sinh vật gây bệnh, đáng chú ý là vi khuẩn
Salmonella sp, E. Coli, Clostridium sp. Ngoài ra còn có cả các loại độc tố và
bào tử của nấm mốc (Đỗ Ngọc Hoè, 1996 [19]).
Khí hậu của nước ta rất thuận lợi cho vi khuẩn gây bệnh và nấm mốc phát
triển. Nhiều vi sinh vật gây bệnh cũng có thể tồn tại rất lâu ở môi trường
ngoài cơ thể như trong phân, đất, nước, chất độn chuồng… đặc biệt là các bào
tử vi khuẩn, nấm, oocyte cầu trùng và trứng ký sinh trùng (Nguyễn Thị Hoa
Lý, Hồ kim Hoa, 2005 [20]).
Bệnh xảy ra ở vịt mọi lứa tuổi, tuy nhiên vịt từ 15 ngày tuổi trở đi bị
nhiễm nhiều nhất (Nguyễn Xuân Bình, 2006 [6]).
Ở vịt bị nhiễm bệnh, virus có trong máu, chất tiết và các cơ quan phủ
tạng. Tại Việt Nam đã nghiên cứu sự nhân lên của virus ở cơ thể vịt bị gây
nhiễm nhân tạo (Trần Minh Châu, 1987 [9]). Vịt bệnh mang virus rất lâu và
có thể tái phát bệnh ở thể ẩn tính.
Nông nghiệp Việt Nam, 2009 đã đưa ra tiêu chuẩn an toàn sinh học cho 1
trạm ấp trứng như sau: nếu trứng bẩn phải tiến hành rửa bằng Formol 0,9%
hoặc thuốc sát trùng. Nếu trứng không quá bẩn thì không cần rửa nhưng trước
khi chuyển về kho bảo quản phải được xông, sát trùng bằng Formol+ thuốc
tím với tỷ lệ 17,5g thuốc tím + 35ml Formol/1m3 buồng xông, thời gian xông
15 phút. Sau đó nếu chưa đưa vào ấp ngay thì phải chuyển vào kho bảo quản.
Trứng được xông sát trùng cho tỷ lệ nở/phôi cao hơn không xông sát trùng là
2 - 3%.
16
Máy ấp sử dụng phương pháp ấp đơn kỳ thì sau mỗi đợt ấp phải rửa
sạch. Khi ấp đa kỳ tối đa có trứng của 4 lứa tuổi khác nhau. Máy nở và dụng
cụ sau mỗi đợt nở xong phải rửa và sát trùng. Toàn bộ khu trạm ấp trong và
ngoài thường xuyên phun sát trùng định kỳ 1 tuần/lần. Bố trí phương tiện vận
chuyển nội bộ riêng trong trại; các xe vận chuyển trước khi vào trại phải được
phun xịt khử trùng bằng hóa chất.
Tại khoản 2, điều 2 vệ sinh thú y cơ sở ấp thuộc quyết định số 17/QĐBNN ngày 27/02/2007 [27] của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về
điều kiện ấp trứng có nêu rõ: Trứng ấp phải có nguồn gốc từ cơ sở sản xuất
trứng giống có khai báo, đăng ký của cơ quan thú y.
Trong điểm 4.4 tiêu chuẩn TCN 878-2006 [31], quy định rất chi tiết về
tiêu chuẩn vệ sinh an toàn sinh học cho cơ sở ấp trứng gia cầm.
Phương pháp sản xuất dung dịch hoạt hoá điện hoá (Electrochemical
activation ECA) được nhà bác học người Nga Bakhir V.M tìm ra từ năm 1972
và cho đến nay được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới trong các ngành y tế,
nông nghiệp, dịch vụ sinh hoạt với vai trò là chất khử trùng ưu việt: hiệu quả
khử trùng cao, thân thiện với môi trường, giá rẻ (Nguyễn Hoài Châu, 2005
[8]).
1.2.3. C¸c gi¶i ph¸p xö lý chÊt th¶i ®¶m b¶o vÖ sinh m«i tr−êng
Ở Việt Nam, xử lý phân bằng phương pháp truyền thống cũng đã được
áp dụng từ rất lâu đời ở những vùng chuyên canh như vùng đồng bằng Bắc
Bộ (Lê Văn Căn, 1976 [7]). Hiện tại ở Việt Nam có 3 phương pháp ủ phân
bao gồm: phương pháp ủ nóng, phương pháp ủ nguội và ủ nóng trước ủ nguội
sau.
Võ thị Hạnh và cộng sự, 2004 [17] đã tiến hành nghiên cứu và ứng
dụng chế phẩm BIO-F để xử lý phân chuồng, biến chất thải này thành thứ
phân bón hữu cơ vi sinh. Chế phẩm BIO-F là loại chế phẩm vi sinh do nhóm
tác giả phân lập và tuyển chọn bao gồm: xạ khuẩn Stretomyces sp., nấm mốc
Trichoderma sp và vi khuẩn Bacillus sp. Những vi sinh vật trên có tác dụng
phân huỷ nhanh các hợp chất hữu cơ trong phân lợn, gà và bò (protein và
celloluse), gây mất mùi hôi. Trước đó chế phẩm BIO-F đã được sử dụng để
sản xuất thành công phân bón hữu cơ vi sinh từ bùn đáy ao, vỏ cafe và xử lý
rác thải sinh hoạt.
Trịnh Quang Tuyên và CS, 2007 [38] nghiên cứu sử dụng chế phẩm
sinh học EM thứ cấp, EM Bokashi, compost maker để xử lý phân lợn thành
phân hữu cơ, sản phẩm sau xử lý đều hết mùi hôi, tiêu diệt được trứng vi
khuẩn và giun sán.
Hiện nay công nghệ vi sinh đã và đang được áp dụng với quy mô lớn
mang tính chất thương mại đối với ngành hàng phân bón. Các loại vi sinh vật
đa chức năng (vi sinh vật phân giải xellulose, vi sinh vật phân giải lân, vi sinh
17
vật cố định đạm) đã được sử dụng theo hướng thương mại trong sản xuất hữu
cơ vi sinh phục vụ sản xuất nông nghiệp an toàn (Phạm Văn Toản, 2000).
Nguyễn Thị Ngọc Liên, 2005 [18] nghiên cứu đánh giá một số chỉ tiêu vệ
sinh chuồng nuôi và sử dụng chế phẩm EM trong chăn nuôi vịt tại Trung tâm
nghiên cứu vịt Đại Xuyên cho thấy khi sử dụng EM phun vào chất độn chuồng
nuôi vịt đẻ đã làm giảm đáng kể vi sinh vật gây hại và mùi hôi. Sử dụng EM bổ
sung vào nước uống cho vịt nuôi vỗ béo làm tăng khả năng tăng trọng.
Viện sinh học nông nghiệp- Đại học nông nghiệp Hà Nội [41] nghiên cứu
chế phẩm EMINA dùng trong chăn nuôi. EMINA là chế phẩm vi sinh hữu hiệu
gồm: vi khuẩn quang hợp, lactic, Bacillus subtilic, B mesentericus, B.
Megaterium, xạ khuẩn nấm men. Các vi sinh vật hữu hiệu này được phân lập từ tự
nhiên hoàn toàn không độc với người, động vật và môi trường. EMINA có thể
dùng bổ sung vào thức ăn, nước uống cho gia súc, phòng và trị được bệnh tiêu hoá
cho vật nuôi. EMINA còn có tác dụng khử mùi, phân giải xellulose nên dùng để
phun trực tiếp vào chuồng nuôi, đổ vào hố ga và xử lý phân.
1.2.4. Mô hình chăn nuôi vịt an toàn sinh học
Theo Www. dost.Bentre.gov.vn ngày 24/8/2007 cho biết Trung tâm
khuyến nông Quốc gia đã chuyển giao mô hình chăn nuôi vịt an toàn sinh học
cho 9 hộ ở Mỹ Thạnh - Phong Mỹ - Giồng Chôm và xã Tân Xuân- An Phú
Trung- Ba Tri. Kết quả cho thấy với mô hình 2000 con/hộ (có sự hỗ trợ
6.150đồng/con bao gồm cả giống, thức ăn, thuốc thú y và được tập huấn về
kỹ thuật chăn nuôi, thú y, an toàn sinh học) đã giúp người dân ý thức được
cách thức chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, hạn chế thả rông để dễ dàng
khống chế khi có dịch xẩy ra, đồng thời nâng cao thu nhập.
Theo Www. khuyennongvn.gov.vn ngày 19/4/2008 [43] gia đình ông
Lê Đình Đời ấp Mỹ Hoà - Tháp Mười- Đồng Tháp có truyền thống nuôi vịt
thả đồng cho biết nuôi vịt chạy đồng vất vả, với 1000con vịt nuôi thịt chạy
đồng phải cần 3 người, tỷ lệ nuôi sống thấp, hao hụt do thất lạc, chết bởi
thuốc trừ sâu và chi phí thả đồng là 220 - 250.000đồng/ha thời gian nuôi 2,5
tháng. Trong khi nuôi tập chung đảm bảo an toàn sinh học chỉ cần 1 người
nuôi tỷ lệ nuôi sống cao (95%), sau 2 tháng thu lời 15 triệu đồng.
Cũng như vậy ông Nguyễn Cử tại xã Nhị Mỹ- Cao Lãnh sau 17 năm
nuôi vịt chạy đồng đã chuyển hướng chăn nuôi sang nuôi tập trung với quy
mô 1000 vịt thịt, sau 70 ngày đạt 3,3 kg lãi 20 triệu đồng.
Theo Http;//niemgiam nongnghiep.vn ngày 28/3/2010 [15] ông Phan
Thanh Bình ở Núi Voi- Tịnh Biên- An Giang với 2 ha đất đã nuôi vịt theo
hướng an toàn sinh học với 3000 con vịt đẻ cùng với 1 lò ấp trứng đã thu
được 10.000- 12.000đồng/con vịt con và thu cá trên ao nuôi vịt đã có lời 700
triệu đồng/năm.
18
- Xem thêm -