Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm thành ngữ tiếng việt liên quan đến giới tính (2016)...

Tài liệu đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm thành ngữ tiếng việt liên quan đến giới tính (2016)

.PDF
53
161
130

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ---------  -------- PHẠM THỊ HUẾ ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT LIÊN QUAN ĐẾN GIỚI TÍNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Ngôn Ngữ HÀ NỘI, 2016 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ---------  -------- PHẠM THỊ HUẾ ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT LIÊN QUAN ĐẾN GIỚI TÍNH Mã số: KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Ngôn Ngữ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Thu Hƣơng HÀ NỘI, 2016 Lời cảm ơn Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành, sâu sắc của mình tới cô giáo hƣớng dẫn TS. Đỗ Thị Thu Hƣơng, ngƣời đã tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn em hoàn thành khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập nghiên cứu. Xin cảm ơn bạn bè, gia đình đã luôn động viên, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận. Do khả năng còn có hạn chắc chắn khóa luận này còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc sự giúp đỡ của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2016 Sinh viên Phạm Thị Huế i Lời cam đoan Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong khóa luận này là kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân tôi dƣới sự hƣớng dẫn của các thầy cô giáo, đặc biệt là TS. Đỗ Thị Thu Hƣơng. Những nội dung trong này không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Nếu sai tôi hoàn thành chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 5 năm 2016 Sinh viên Phạm Thị Huế ii Mục lục Lời cảm ơn ......................................................................................................... i Lời cam đoan .................................................................................................... ii Mục lục ............................................................................................................ iii Mở đầu ............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 5 3.1. Mục đích .................................................................................................... 5 3.2. Nhiệm vụ .................................................................................................... 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 6 4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 6 4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 6 4.3. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 6 5. Đóng góp ...................................................................................................... 6 6. Bố cục ........................................................................................................... 6 Nội dung .............................................................Error! Bookmark not defined. CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ....................................................................... 7 1.1. Khái quát về thành ngữ .............................................................................. 7 1.1.1. Khái niệm................................................................................................ 7 1.1.2. Đặc điểm ................................................................................................. 7 1.1.3. Phân loại ................................................................................................ 8 1.1.3.1. Thành ngữ đối.................................................................................... 10 1.1.3.2. Thành ngữ so sánh ............................................................................... 9 iii 1.1.4. Nhận diện thành ngữ (trong sự so sánh với từ ghép, quán ngữ, tục ngữ) Error! Bookmark not defined. 1.1.4.1. Khái quát ............................................Error! Bookmark not defined. 1.1.4.2. Phân biệt thành ngữ với từ ghép ....................................................... 11 1.14.3. Phân biệt thành ngữ với quán ngữ ..................................................... 12 1.1.4.4. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ ....................................................... 13 1.1.5. Quan niệm về giới trong xã hội Việt Nam truyền thống ....................... 13 Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................... 15 CHƢƠNG 2. MIÊU TẢ NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM THÀNH NGỮ LIÊN QUAN ĐẾN GIỚI TÍNH TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT................. 17 2.1. Kết quả thống kê ...................................................................................... 17 2.1.1. Tiêu chí thống kê .................................................................................. 17 2.1.2. Kết quả thống kê phân loại ................................................................... 17 2.1.3. Nhận xét sơ bộ kết quả thống kê ........................................................... 18 2.2. Miêu tả ngữ nghĩa của nhóm thành ngữ liên quan tới sự phân chia giới tính 18 2.2.1. Thành ngữ miêu tả ngoại hình của mỗi giới ........................................ 18 2.2.2. Thành ngữ miêu tả đặc điểm tính cách, phẩm chất của mỗi giới......... 36 2.2.3. Thành ngữ miêu tả vai trò xã hội, sự nghiệp, công việc của mỗi giới . 26 2.2.4. Thành ngữ miêu tả vai trò của mỗi giới trong gia đình ....................... 31 2.2.5. Thành ngữ miêu tả thói hư tật xấu của mỗi giới .................................. 41 Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................... 45 Kết luận ......................................................................................................... 46 Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 47 iv Mở đầu 1. Lí do chọn đề tài Thành ngữ là một trong những đơn vị có giá trị về ngôn ngữ - văn hóa của mỗi dân tộc. Hầu hết, các thành ngữ đều do nhân dân sáng tác đƣợc truyền từ đời này sang đời khác nên mang đậm tính chất dân gian và tính bình dị đời thƣờng. Thành ngữ chứa đựng đầy đủ những đặc tính sáng tạo của lối nói dân gian. Đó là lối so sánh, ví von mang tính hình tƣợng, cụ thể, gợi cảm, lối nói khoa trƣơng trào lộng, dí dỏm và tế nhị, lối nói linh hoạt và nhạc điệu đồng thời cũng rất giàu hình ảnh, sinh động, cô đọng, hàm súc theo lối cấu trúc đơn giản nên rất dễ nhớ, dễ thuộc. Do đó, thành ngữ đƣợc vận dụng rất nhiều trong cuộc sống một cách nhuần nhuyễn và tự nhiên. Trong tiếng Việt thành ngữ có một khối lƣợng lớn rất đa dạng và phong phú. Cùng phát triển với tiếng nói dân tộc, thành ngữ dần dần đƣợc nhân dân sử dụng nhƣ một công cụ giao tiếp chung. Phát triển thành ngữ là một trong những cách tốt nhất để bổ sung cho vốn từ của một ngôn ngữ. Xét về mặt tu từ, thành ngữ đã góp phần làm giàu, làm đẹp cho tiếng Việt về nhiều phƣơng diện. Thành ngữ trong mỗi ngôn ngữ có một vị trí rất đặc biệt. Nó là một bộ phận quan trọng của từ vựng , thành ngữ là nơi thể hiện rất rõ các đặc trƣng văn hóa, dân tộc. Có ý kiến cho rằng: “Nếu coi ngôn ngữ dân tộc là tinh thần của dân tộc thì có thể nói thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca… là các cách thức biểu hiện khác nhau của bản sắc văn hóa dân tộc. Trong thành ngữ, chúng ta có thể tìm thấy những đặc điểm riêng của tƣ duy dân tộc, quan điểm thẩm mĩ, đạo lí làm ngƣời, đối nhân xử thế giữa ngƣời với ngƣời, lối sống, cách cảm, cách nghĩ cũng nhƣ thái độ đối với cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn”. Về mặt văn hóa, thành ngữ chính là nơi thể hiện sâu sắc nhất 1 vốn văn hóa của một dân tộc. Cách nói năng, cách suy nghĩ, tƣ duy của một dân tộc biểu hiện rõ nhất trong vốn từ ngữ của họ mà đặc biệt là trong các thành ngữ chính vì điều này mà khi nghiên cứu thành ngữ, tức là chúng ta cũng đã nghiên cứu đƣợc một phần rất lớn của ngôn ngữ. Do đó, việc nhận diện đúng và hiểu đúng thành ngữ có vai trò rất quan trọng giúp mọi ngƣời tiếp nhận các thành ngữ dân tộc. Trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt, nhóm thành ngữ liên quan đến giới tính chiếm một số lƣợng lớn. Tìm hiểu nhóm thành ngữ này giúp chúng ta hiểu rõ hơn đặc điểm riêng của mỗi giới, đồng thời cũng thấy đƣợc quan niệm về giới của ngƣời Việt. Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm thành ngữ liên quan đến giới tính làm đề tài nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề Về thành ngữ tiếng Việt đã có rất nhiều công trình nghiên cứu dƣới các dạng khác nhau. Tuy nhiên, với những điều kiện khác nhau, mục đích khác nhau thành ngữ đƣợc xem xét, luận giải các phƣơng thức và mức độ khác nhau. Các công trình về thành ngữ có thể phân chia thành một số dạng nhƣ sau: Hƣớng thứ nhất: nghiên cứu đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa. Đối với thành ngữ tiếng Việt, Giáo sƣ Hoàng Văn Hành vẫn một quan điểm xuyên suốt trong tiếp cận vốn từ tiếng Việt, ông coi thành ngữ thuộc loại tổ hợp từ cố định nhƣng có đặc điểm bền vững về hình thái cấu trúc và hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa. Tính bền vững về hình thái cấu trúc thể hiện ở sự ổn định ở thành phần từ vựng (nhiều khi chặt chẽ đến mức loại bỏ khả năng thay thế từ đồng nghĩa, ví dụ chỉ có thể là nói toạc móng heo chứ không thể là nói toạc móng lợn) và sự bền vững về hình thái cấu trúc (đó là hệ quả của quá trình bị mờ nhạt, hay bị lãng quên đi những mối quan hệ về ngữ pháp và ngữ nghĩa). 2 Tuy nhiên, ông lƣu ý rằng, tính bền vững của thành ngữ trong hệ thống chuẩn và tính uyển chuyển của thành ngữ trong sử dụng là hai mặt không hề mâu thuẫn, không hề loại trừ nhau. Tính hoàn chỉnh về nghĩa của thành ngữ đƣợc ông lý giải từ góc độ nghĩa định danh. “Song, khác với các đơn vị định danh bình thƣờng, thành ngữ là loại các đơn vị định danh bậc hai”. Với cách nhìn này, ông cho rằng thành ngữ là đơn vị từ vựng có lƣợng nghĩa đôi và hai nghĩa này gần nhƣ song song tồn tại: nghĩa đen là cơ sở, là gốc; nghĩa bóng hay nghĩa phái sinh là nghĩa đƣợc sử dụng trong hành chức, là nghĩa hình thành qua quá trình biểu trƣng hóa. Biểu trƣng hóa về nghĩa của thành ngữ, theo ông, thể hiện dƣới hai hình thức: hình thức so sánh (ẩn dụ hóa) và hình thức ẩn dụ (so sánh ngầm). Hƣớng thứ hai, để nhận diện thành ngữ tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học còn đặt khái niệm thành ngữ trong sự phân biệt với các đơn vị nhƣ cụm từ tự do, từ ghép/từ phức, quan ngữ và tục ngữ. Mặc dù vậy, các tác giả có quan điểm khác nhau về những khái niệm này khiến cho việc phân biệt cũng không hề đơn giản. nhìn chung, khi đƣa ra các khái niệm nói treenhoj đều dựa vào hai tiêu chí quan trọng là cấu trúc và ngữ nghĩa. Song, do tính phức tạp của chúng, nhiều tác giả đã phải sử dụng thêm các tiêu chí khác để làn rõ hơn (chẳng hạn tiêu chí số lƣợng âm tiết, tiêu chí chức năng, tính độc lập/không độc lập của một đơn vị ngôn ngữ, tính biểu trƣng ). Bản thân những tiêu chí nhƣ vậy cũng vẫn chƣa có đƣợc sự thống nhất trong quan điểm giƣa các nhà nghiên cứu. Nhƣng dù sao, việc bổ sung thêm tiêu chí càng góp phần làm rõ và khu biệt khái niệm thành ngữ với cái khái niệm có liên quan. Nhìn trên tổng thể mà nói, về cơ bản, các nhà Việt ngữ học đã vạch đủ các ranh giới cần thiết để nhận diện thành ngữ. Song không phải lúc nào việc áp dụng các tiêu chí trên cũng mang lại kết quả nhƣ mong đợi. Chẳng han, sự phân biệt giữa khái niệm thành ngữ với tục ngữ dƣờng nhƣ vẫn còn rất dễ nhầm lẫn. Các đơn vị nhƣ Con giun xéo mãi cũng quằn, Cây ngay không sợ chết đứng… thƣờng có sự lẫn lộn khi nhận diện chúng là thành ngữ hay tục ngữ. Ví dụ trong một số ngữ cảnh, Con giun xéo mãi cũng quằn nhằm chỉ ra một tình huống. Đó là tình huống bị áp bức thì sẽ có đấu tranh. Trong trƣờng 3 hợp này, nó có thể đƣợc coi là thành ngữ. Nhƣng trong một số tƣờng hợp khác, nó có thể đƣợc coi là tục ngữ vì đã nêu ra một phán đoán rằng nếu bị áp bức nhiều quá thì sẽ có đấu tranh, cho nên có thể hàm ý đƣa ra một lời khuyên trong cách ứng xử. Chúng tôi đồng ý với một vài ngƣời đi trƣớc cho rằng, việc phân biệt thành ngữ và tục ngữ cần phải có căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể, vì thành ngữ vừa là một đơn vị ngôn nữ, vừa là một đơn vị văn hóa. Ngoài thành ngữ thì tục ngữ cũng nhƣ vậy, cho nên, nếu chỉ xét đơn thuần ở mặt ngôn ngữ học thì dù cố gắng đến đâu cũng không thể mình định đƣợcranh giới giữa thành ngữ và phân biệt nó với tục ngữ. Bản thân thành ngữ và tục ngữ do những nhân tố ngoài ngôn ngữ quy định, do đó, các tiêu chí ngôn ngữ dù sát thực đến đâu cũng không bù đƣợc những sự đắp đổi những nhân tố ngoài ngôn ngữ đƣa lại. Nhân tố ngoài ngôn ngữ chính là các đặc điểm văn hóa xã hội ở dân gian. Có sự xâm lấn của những nhân tố văn hóa xã hội ở dân gian. Có sự xâm lấn của những nhân tố văn hóa xã hội thì hẳn sẽ có tính dị bản và có nhiều cách hiểu khác nhau. Hƣớng thứ ba là nghiên cứu so sánh đối chiếu thành ngữ giữa hai ngôn ngữ và có quan tâm đến nội dung văn hóa ở thành ngữ. Trƣơng Đông San, một trong những nhà nghiên cứu thành ngữ đầu tiên của Việt Nam trên cứ liệu tiếng Nga, đã khảo sát thành ngữ tiếng Nga trong cách nhìn của ngƣời Việt và đƣa ra một số cách chuyển dịch sang tiếng Việt dựa trên các phƣơng thức cấu tạo ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Nga. Tuy nhiên. Ông mới chỉ chú trọng làm thế nào để dịch thành ngữ từ tiếng này sang thứ tiếng khác mà chƣa chú trọng nhiều đến đặc điểm văn hóa dân tộc trong thành ngữ. Sau này, các luận án khác đã chú ý đến những đặc trƣng văn hóa dân tộc trong thành ngữ nhƣ Phùng Trọng Toàn (1995), Nguyễn Xuân Hòa (1996), Trần Thị Lan (2002), Ngô Minh Thúy (2006), Phạm Minh Tiến (2008), Nguyễn Tô Chung (2010)… Chú ý đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa- xã hội trong thành ngữ, Nguyễn Công Đức cho rằng: “ Ngoài những đặc điểm của một đơn vị 4 ngôn ngữ, thành ngữ còn có những dấu ấn của một đơn vị văn hóa, còn tiềm ẩn, trầm tích những đặc điểm văn hóa dân tộc cho nên, cũng có thể xem thành ngữ là những đơn vị ngôn ngữ - văn hóa”. Tuy nhiên, ở tác giả này cũng mới chỉ là sự “chú ý đến” mà thôi. Mặc dù không chuyên nghiên cứu về thành ngữ, nhƣng trong “Ngôn ngữ và văn hóa: Tri thức nền và việc giảng dạy tiếng nƣớc ngoài”, Kim Ngọc (1999) lại có đề cấp đến thành tố văn hóa dân tộc trong thành ngữ. Theo khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng chƣa có một đề tài nào nghiên cứu về thành ngữ liên quan tới sự phân chia giới tính trong thành ngữ Tiếng Việt. Vì vậy, trong khóa luận này, chúng tôi đi vào tiến hành nghiên cứu một mảng đề tài mà những khóa luận trƣớc chƣa đề cập đến. Nhƣ vậy, có thể nói các công trình nghiên cứu thành ngữ nói chung và thành ngữ tiếng Việt nói chung rất phong phú và đã đạt đƣợc nhiều kết quả. Tuy nhiên, các vấn đề về giới tính hay quan niệm về giới của ngƣời Việt đƣợc phản ánh thì chƣa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu. Kế thừa những thành tựu nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt, đề tài của chúng tôi tập trung tìm hiểu vấn đề giới và quan niệm về giới của ngƣời Việt Nam trong thành ngữ tiếng Việt. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở khảo sát, tập hợp các thành ngữ có liên quan đến giới tính, khóa luận nhằm chỉ ra đặc điếm ngữ nghĩa của nhóm thành ngữ này. Từ đó, thấy đƣợc quan niệm về giới của ngƣời Việt thông qua thành ngữ tiếng Việt. 3.2. Nhiệm vụ Nhiệm vụ mà chúng tôi đƣa ra trong luận văn này là: 5 - Tồng hợp các vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài. - Khảo sát, thống kê và phân loại ngữ liệu. - Phân tích đặc điểm ngữ nghĩa của các thành ngữ liên quan đến giới tính trong tiếng Việt. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đặc trƣng ngữ nghĩa của nhóm thành ngữ tiếng Việt liên quan đến giới tính 4.2. Phạm vi nghiên cứu Ngữ liệu đƣợc khảo sát trong cuốn Từ điển Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực – Lƣơng Văn Đang 4.3. Phƣơng pháp nghiên cứu  Phƣơng pháp thống kê, phân loại  Phƣơng pháp phân tích  Phƣơng pháp so sánh – đối chiếu  Phƣơng pháp tổng hợp 5. Đóng góp 6. Bố cục Khóa luận của chúng tôi gồm 2 chƣơng và phần phụ lục nhƣ sau: Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Miêu tả ngữ nghĩa nhóm thành ngữ liên quan đến giới tính trong thành ngữ tiếng Việt 6 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Khái quát về thành ngữ 1.1.1. Khái niệm Thành ngữ là đối tƣợng đƣợc nhiều nhà ngôn ngữ học nghiên cứu và đƣa ra những khái niệm khác nhau, theo những hƣớng nhìn và khía cạnh khác nhau. Hoàng Văn Hành cho rằng: “ Theo cách hiểu thông thường nhất thì thành ngữ là một loại từ cố định bền vững về hình thái, cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày đặc biệt trong khẩu ngữ”. Ví dụ: Lẩn như chạch, Nằm gai nếm mật, Tham vàng bỏ ngãi, Đầu cua tai ngheo Sự khác biệt giữa các nhà nghiên cứu chủ yếu thể hiện ở điểm nhấn trong từng quan niệm về cấu trúc hình thức, đặc tính ngữ nghĩa hoặc chức năng của thành ngữ. Không tham vọng xây dựng một khái niệm mới về thành ngữ, khóa luận này chúng tôi chỉ muốn thể hiện một hƣớng nghiên cứu về thành ngữ xuất phát từ ngữ nghĩa của các thành tố tạo nên chúng. Chính vì vậy, chúng tôi chọn một cách hiểu thông thƣờng rút ra từ quan niệm của các nhà Việt ngữ học, cụ thể chúng tôi coi: “ Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định bền vững về hình thái cấu trúc hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa, thành ngữ là đơn vị có sẵn và đƣợc sử dụng tƣơng đƣơng với từ trong giao tiếp ngôn ngữ”. 1.1.2. Đặc điểm 1.1.2.1. Đặc điểm kết cấu 7 Thành ngữ là cụm từ có tính cố định, chặt chẽ. Chính nhờ có tính chất chặt chẽ, cố định mà thành ngữ đƣợc dùng tƣơng đƣơng nhƣ từ. Tuy nhiên, tính cố định, ổn định và bền vững về hình thái cấu trúc của thành ngữ không phải là bất biến, bất di bất dịch. Nghĩa là trong hoạt động giao tiếp, ngƣời ta vẫn chấp nhận việc sử dụng thành ngữ một cách sáng tạo, linh hoạt. Hai đặc tính trên của thành ngữ không hề mâu thuẫn, loại trừ nhau mà có tác dụng bổ sung cho nhau. Chính điều này khiến cho kho tàng thành ngữ ngày càng đƣợc mở rộng, phong phú hơn do xuát hiện nhiều biến thể của một thành ngữ. Thí dụ, thƣờng nói cứng đầu cứng cổ, chứ không nói hoặc rất ít nói cứng cố cứng đầu, hoặc tai to mặt lớn, không nói hoặc ít nói mặt lớn tai to 1.1.2.2. Điểm điểm ngữ nghĩa Đặc trƣng nối bật về nghĩa của thành ngữ là tính hoàn chỉnh, bóng bẩy và tính gợi cảm cao. Nghĩa của thành ngữ không phải là nghĩa đen của các yếu tố cấu thành cộng lại mà là nghĩa bóng, nghĩa toàn khối. Nghĩa này đƣợc suy ra từ nghĩa của các yếu tố cấu thành. Chẳng hạn thành ngữ Kén cá chọn canh không có nghĩa là kén chọn cá ngon, canh ngọt trong ăn uống mà dùng để chỉ ngƣời phụ nữ kén chọn chồng quá kĩ do cầu kỳ hoặc khó tính. 1.1.3. Phân loại Khi phân loại thành ngữ tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học thƣờng dựa vào những tiêu chí sau: chức năng, ngữ nghĩa, hình thức. Trong phạm vi khóa luận, chúng tôi lựa chọn cách phân loại dựa vào kết quả phân loại của Hoàng Văn Hành. Theo ông, thành ngữ đƣợc chia ra làm 2 loại lớn: + Thành ngữ so sánh + Thành ngữ đối Nếu căn cứ vào đặc điểm “có hay không tính đối xứng trong cấu trúc, lại có thể chia thành ngữ ra làm hai tiểu loại là: + Thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng 8 + Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng 1.1.3.1. Thành ngữ so sánh Thành ngữ so sánh là một cụm từ bền vững, đƣợc hình thành từ phép so sánh và thƣờng có nghĩa biểu trƣng. Ví dụ: Ăn ở như bát nước đầy, Chắc như cua gạch, Dai như đỉa đói, Gắt như mắm tôm, Len lét như rắn mồng năm, Khép nép như dâu mới về nhà chồng, Lừ đừ như ông từ vào đền Trong phép so sánh thông thƣờng thì việc so sánh một sự vật này với sự vật kia chỉ thực hiện đƣợc khi giữa hai sự vật này phải có một đặc điểm, thuộc tính nào đó đƣợc coi là tƣơng đồng. Nếu trong phép so sánh hai sự vật đƣợc đem ra so sánh bao giờ cũng phải thuộc cùng một phạm trù (chẳng hạn, Nam cao bằng Hải, Ngôi nhà này đẹp hơn ngôi nhà kia), thì trong phép so sánh nghệ thuật, các sự vật, hiện tƣợng đƣợc đem ra so sánh lại không cùng một phạm trù. Các đặc điểm, thuộc tính đƣợc dùng làm căn cứ so sánh giữa các sự vật hiện tƣợng... chỉ có tính chất tƣơng đối, lâm thời. Chính “đặc điểm này cho phép so sánh trong nghệ thuật có tính bất ngờ và tính hình tƣợng”. Theo lí giải của Hoàng Văn Hành, cấu trúc lôgic của phép so sánh là: At1 nhƣ Bt2, trong đó t1 là thuộc tính của A, t2 là thuộc tính của B. Cấu trúc lôgic này làm cơ sở cho cấu trúc ngôn ngữ của phép so sánh. Theo ông, giữa hai cấu trúc này không có tƣơng ứng hoàn toàn về thành tố. Trong cấu trúc ngôn ngữ của phép so sánh, t2 không bao giờ xuất hiện dƣới dạng hiển ngôn. Do đó, mẫu tổng quát của cấu trúc ngôn ngữ của phép so sánh là At nhƣ B với 4 dạng cụ thể nhƣ sau: – At nhƣ B – A nhƣ B – t nhƣ B – Nhƣ B "Trong thành ngữ so sánh, thành phần biểu thị quan hệ so sánh và cái so sánh [có thể gọi là cấu trúc so sánh (như B)] là bộ phận bắt buộc và ổn định trên cấu trúc bề mặt cũng nhƣ cấu trúc sâu. Nếu phá vỡ cấu trúc so sánh thì sẽ không còn thành ngữ so sánh nữa". Do tính chất bắt buộc và ổn định nhƣ vậy 9 nên việc lựa chọn từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh và cái so sánh, theo ý kiến của Hoàng Văn Hành, là "mang tính dân tộc sâu sắc". Trong tiếng Việt, các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh khá đa dạng: như, như thế, như thể là, tày, tựa, tựa như, bằng, là, như là, hơn..., nhƣng trong thành ngữ so sánh thì như và tày đƣợc dùng nhiều hơn cả 1.1.3.2. Thành ngữ đối  Thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng Thành ngữ đối là bộ phận quan trọng trong vốn thành ngữ của bất kỳ một ngôn ngữ nào đó. Đặc điểm nổi bật về mặt cấu trúc của thành ngữ đối là tính chất đối ứng giữa các bộ phận và các yếu tố tạo nên thành ngữ. Trong cuốn Kể chuyện thành ngữ tục ngữ Hoàng Văn Hành đã khái quát đặc điểm cơ bản của thành ngữ đối đƣợc xây dựng qua hai bậc – bậc đối ý và bậc đối lời. Đối ý là bậc đối ứng giữa hai vế của thành ngữ với nhau về mặt ý. Ví dụ: Thành ngữ Đời cha ăn mặn đời con khát nước. Thành ngữ gồm hai vế có quan hệ đối ứng (đời cha đối với đời con, ăn mặn đối với khát nƣớc). Ý nghĩa của thành ngữ này là: đời cha đã hƣởng nhiều, hƣởng hết, hƣởng quá phần đƣợc hƣởng thì đời con phải chịu nhiều thiếu thốn, chịu nhiều thiệt thòi. Nhƣ vậy, nghĩa của thành ngữ đối đƣợc xác lập chính là nhờ vào bậc đối ý này. Đối lời là quan hệ đối xứng giữa các yếu tố then cài trong hai vế của thành ngữ. Trong thành ngữ Mẹ tròn con vuông, sở dĩ ta nhận thấy quan hệ đối ý (sau khi sinh) mẹ khỏe khoắn, vẹn toàn, con lành lặn kháu khỉnh là nhờ có quan hệ đối ứng giữa các yếu tố mẹ với con, tròn với vuông. Các yếu tố đối xứng với nhau phải thuộc cùng một phạm trù từ loại, tức có cùng một thuộc tính ngữ pháp. 10 Nếu xét một cách tổng hòa đặc trƣng ngữ pháp ngữ nghĩa thì thấy giữa hai vế của các thành ngữ có hai kiểu quan hệ khác nhau, đó là quan hệ đẳng kết và quan hệ phi đẳng kết.  Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng Về mặt cấu trúc, chúng không có tính đối xứng, do đƣợc cấu tạo giống hệt nhƣ những cấu trúc ngữ pháp bình thƣờng (nên còn gọi là thành ngữ thƣờng). Hai là, chúng đƣợc tạo nghĩa chủ yếu bằng con đƣờng ẩn dụ hóa. Nếu đi sâu hơn nữa về mặt cấu trúc, thì trên đại thể có thể thấy những thành ngữ đang xét đƣợc cấu tạo theo hai kiểu kết cấu phổ biến:  Những kết cấu ngữ pháp có một trung tâm  Những kết cấu ngữ pháp có hai trung tâm Nói đến những kết cấu ngữ pháp có một trung tâm chính là nói đến những kết cấu danh ngữ, đồng ngữ và tính ngữ, còn kết cấu ngữ pháp có hai trung tâm chính là những kết cấu chủ - vị. 1.1.4. Nhận diện thành ngữ (trong sự so sánh với từ ghép, quán ngữ, tục ngữ) 1.1.4.1. Phân biệt thành ngữ với từ ghép Về điểm giống nhau: cả thành ngữ và từ ghép đều là những đơn vị ngôn ngữ để tạo câu. Về điểm khác nhau: Thành ngữ là những cụm từ mang ý ngĩa cố định về hình thái – cấu trúc còn từ ghép là các từ mà các tổ từ đều có nghĩa. Thành ngữ, có chức năng định danh tuy nhiên thành ngữ và từ ghép đƣợc phân biệt bởi phạm vi rộng hẹp và mức độ nông sâu trong nội dung ý nghĩa của chúng. Các từ ghép chỉ nêu lên khái niệm chung về sự vật, hoạt 11 động, tính chất hoặc trạng thái (nhà cửa, áo dài) thì thành ngữ lại hàm chứa một nội dung lớn hơn và sâu sắc hơn bởi thành ngữ nêu rõ những sự vật và những hoạt động ấy nhƣ thế nào, những tính chất hoặc những trạng thái ấy đến mức nào : Treo đầu dê bán thịt chó (chỉ những kẻ làm ăn giả dối, bề ngoài thì giới thiệu, đƣa ra cái thật, cái tốt, cái ngon (dê) nhƣng khi trao bán thì cho ngƣời ta thì bên trong đã đánh tráo thay bằng những thứ kém giá trị không còn giống nhƣ lúc giới thiệu (chó) để nhằm mục đích kiếm lợi cho bản thân). Chức năng định danh của từ ghép là chức năng đơn giản, còn thành ngữ là chức năng phức hợp. Điều đó dẫn đến mức độ phức tạp trong mối quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố tạo nên các đơn vị của thành ngữ cao hơn so với từ ghép và mức độ nhận biết giữa từ ghép và thành ngữ không mấy khó khăn. 1.1.4.2. Phân biệt thành ngữ với quán ngữ Quán ngữ là những cụm từ đƣợc dùng lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ thuộc các phong cách khác nhau. Chức năng của chúng là đƣa đẩy, rào đón để nhấn mạnh hoặc liên kết trong diễn từ và nghĩa của chúng là nghĩa suy trực tiếp từ ý nghĩa của các từ vị tạo ra nó. Ví dụ: Nói thật mất lòng, Khí không phải, Nói tóm lại,... Về mặt cấu trúc, quán ngữ không đƣợc ổn định nhƣ thành ngữ vì thật ra, quán ngữ thiên về cụm từ tự do, chẳng qua do nội dung biểu thị của chúng đƣợc ngƣời ta thƣờng xuyên nhắc đến cho nên hình thức và cấu trúc của chúng cũng tự nhiên ổn định và rồi lâu dần trở thành một đơn vị có sẵn mà thôi. Vì vậy nghĩa của chúng hoàn toàn hiểu theo nghĩa thực của những đơn vị cấu tạo nên quán ngữ. Còn thành ngữ là những cụm từ cố định có nghĩa hình tƣợng tổng quát không suy trực tiếp từ ý nghĩa của các đơn vị tạo ra nó. Thành ngữ gồm có những đơn vị mang nghĩa hình tƣợng chung, trong đó tất cả các từ vị tạo ra nó đều mất nghĩa đen và những đơn vị mang 12 nghĩa hình tƣợng bộ phận có một phần mất nghĩa đen và một phần vẫn giữ nghĩa đen nhƣ Treo đầu dê bán thịt chó, Trắng như trứng gà bóc,... 1.1.4.3. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ Thành ngữ và tục ngữ tuy có một số nét tƣơng đồng có thể chuyển hóa lẫn nhau, nhƣng về bản chất là khác nhau, xét về cả hình thái cấu trúc cũng nhƣ về mặt ngữ nghĩa, nội dung biểu đạt và chức năng của chúng trong giao tiếp xã hội. Những điểm đồng nhất và dị biệt ấy có thể tóm tắt bằng lƣợc đồ sau đây: Những đặc trƣng dùng làm tiêu chí nhận diện Thành ngữ Tục ngữ 1. Đặc trƣng về hình thái cấu trúc, có vần điệu, có đối điệp Tổ hợp từ cố định Câu (phát ngôn) cố định (cả đơn và phức), quan hệ cú pháp (hoặc kết cấu chủ vị), quan hệ hình thái 2. Chức năng biểu hiện nghĩa định danh Định danh sự vật, hiện tƣợng, quá trình… Định danh sự tình, sự kiện, trạng huống) 3. Chức năng biểu hiện hình thái nhận thức Biểu thị khái niệm bằng hình ảnh biểu trƣng Biểu thị phán đoán bằng hình tƣợng biểu trƣng 4. Đặc trƣng ngữ nghĩa Hai tầng ý nghĩa đƣợc tạo ra bằng phƣơng thức so sánh và ẩn dụ hóa Hai tầng ý nghĩa đƣợc tạo ra bằng phƣơng thức so sánh và ẩn dụ hóa 1.1.5. Quan niệm về giới trong xã hội Việt Nam truyền thống Năm tháng đi qua hằn in trên từng trang sách là những chiến công lịch sử những vết tích của chiến tranh thế hệ ngƣời Việt Nam. Ngƣời ra chiến trƣờng ngƣời, ngƣời đảm nhận việc trong nhà làm chỗ dựa vững chắc cho ngƣời ra đi. Mỗi giới đều gánh trên vai trách nhiệm của mình, không ai là 13 không phấn đấu vì một sự nghiệp nào đó. Có khi họ cùng giống nhau ở mục đích nhƣng thời xƣa cũng nhƣ thời nay có những quan niệm khác nhau về giới. Từ xƣa tới nay, trong truyền thống phụ nữ Việt Nam là nguồn nhân tố quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của xã hội Việt Nam. Lịch sử đã và đang luôn chứng minh sự hiện diện của phụ nữ trong các vai trò quan trọng trong xã hội. Lịch sử và dân tộc đã ghi nhận vai trò tích cực khả năng và cống hiến to lớn của ngƣời phụ nữ cổ Việt Nam trong sự nghiệp dựng nƣớc và giữ nƣớc trên mọi lĩnh vực. Song ách thống trị về mặt giai cấp của các thế lực phong kiến kéo dài hàng nghìn năm chất nặng lên đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Việt Nam, của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Chế độ phong kiến tập trung quyền hành vào ông Vua để thống trị nhân dân, và trong gia đình thì quyền hành tập trung vào ngƣời đàn ông gia trƣởng đề áp bức phụ nữ. Trong sách Bình Hồ gia huấn có câu: “Gái trong cửa kín như bưng, Khác nào chim chích vào rừng biết chi” Từ Luật Hồng Đức đến Luật Gia Long là quá trình phát triển ngày càng phản động của chế độ phong kiến đối với phụ nữ. Những cực hình, chỉ áp dụng riêng đối với phu nữ: thả bè trôi sông, gọt gáy bôi vôi, ngựa xé, voi giày... Đến tuổi lấy chồng, ngƣời con gái không có quyền đƣợc lựa chọn ngƣời chồng. Với tục “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” và với lệ thách cƣới ngƣời con gái trở thành một vật trao đổi mua bán. Một khi việc “gả bán” đã xong, ngƣời con gái rời nhà cha mẹ, sống cuộc đời “xuất giá tòng phu”, ngƣời vợ không còn giữ đƣợc địa vị tƣơng xứng với vai trò của mình trong gia đình, trái lại còn bị ngƣợc đãi đủ điều. Suốt đời họ phải chịu những hậu quả tai hại về thể xác và tinh thần. Và, với quan niệm “ trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ có một chồng”, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan