Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chùa mía và tiềm năng phát triển du lịch...

Tài liệu Chùa mía và tiềm năng phát triển du lịch

.PDF
66
355
61

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGHIÊM THỊ LÝ CHÙA MÍA VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Việt Nam học HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Việt Hằng - người hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các Thầy, Cô giáo trong khoa Ngữ Văn đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Khóa luận được hoàn thành, song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía Thầy, Cô và các bạn để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2016 Tác giả khoá luận Nghiêm Thị Lý LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng. Kết quả thu được là hoàn toàn trung thực và không trùng với kết quả nghiên cứu của những tác giả khác. Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2016. Tác giả khóa luận Nghiêm Thị Lý DANH MỤC VIẾT TẮT TS Tiến sĩ NXB Nhà xuất bản UBND Ủy ban nhân dân MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2 3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4 6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4 7. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 5 8. Cấu trúc đề tài ............................................................................................... 5 NỘI DUNG ....................................................................................................... 6 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................... 6 1.1. Sơn Tây – mảnh đất giàu truyền thống văn hóa ........................................ 6 1.1.1. Khái quát về Sơn Tây .............................................................................. 6 1.1.2. Những nét văn hóa tiêu biểu của Sơn Tây .............................................. 8 1.2. Chùa trong văn hóa Việt .......................................................................... 11 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển chùa Việt trong văn hóa Phật giáo .... 11 1.2.2. Kiến trúc chùa Việt ............................................................................... 12 1.2.3. Hệ thống tượng Phật ở chùa Việt Nam ................................................. 14 1.2.4. Chùa trong văn hóa tâm linh của người Việt ........................................ 16 Chương 2: CHÙA MÍA – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH ................................................................................ 19 2.1. Những nét văn hóa độc đáo của chùa Mía ............................................... 19 2.1.1. Tên chùa, vị trí và lịch sử chùa Mía ...................................................... 19 2.1.2. Kiến trúc chùa Mía ................................................................................ 20 2.1.3. Hệ thống tượng Phật chùa Mía ............................................................. 21 2.1.4. Hoành phi, câu đối ................................................................................ 34 2.1.5. Hệ thống động ....................................................................................... 37 2.2. Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch ở chùa Mía ............................ 42 2.2.1. Thực trạng phát triển du lịch ................................................................. 42 2.2.2. Tiềm năng phát triển du lịch ................................................................. 44 2.2.3 Giải pháp phát triển du lịch .................................................................... 47 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hà Nội từ lâu đã được biết đến là mảnh đất trăm nghề với nhiều làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng đến nay vẫn còn được lưu giữ. Không những thế nơi đây còn nổi tiếng với các danh lam thắng cảnh, nhiều di tích lịch sử nổi tiếng, những truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc và những câu chuyện đã đi vào huyền thoại lịch sử được nhiều người biết đến. Trong những năm gần đây tình hình kinh tế phát triển, chính trị xã hội ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện. Thói quen và nhu cầu đi du lịch của khách trong và ngoài nước được tăng lên đáng kể. Hà Nội không chỉ được biết đến là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp mà nơi đây còn có nhiều khu di tích đặc biệt quan trọng, một trong số đó phải kể đến khu di tích chùa Mía - ngôi chùa cổ có bề dày truyển thống lịch sử và hệ thống tượng thờ mang những giá trị nghệ thuật đặc sắc bậc nhất Việt Nam. Điều này góp phần tích cực vào việc thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân để từ đó quảng bá hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế khi đến du lịch. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà du lịch chùa Mía chưa thực sự phát triển vì vậy cần có những giải pháp để khu di tích luôn là điểm đến lý tưởng cho du khách. Là một sinh viên ngành Việt Nam học tôi mong muốn mình có thêm những kiến thức, hiểu biết về các ngôi chùa Việt Nam đặc biệt là chùa Mía. Do đó tôi chọn đề tài: “chùa Mía và tiềm năng phát triển du lịch” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình, để phục vụ cho công việc của tôi sau khi ra trường muốn trở thành một hướng dẫn viên chuyên nghiệp. Hơn thế nữa, tôi mong muốn người dân địa phương hiểu được những giá trị lịch sử, văn hóa 1 của khu di tích này nhằm góp sức vào công cuộc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và giữ gìn phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của quê hương, đất nước. 2. Lịch sử nghiên cứu Chùa Mía tọa lạc trên mảnh đất xứ Đoài giàu truyền thống, nơi hội tụ quần thể di tích gồm nhiều đền chùa, miếu mạo, phản ánh quá trình xây dựng và gìn giữ một vùng đất giàu truyền thống lịch sử. Chùa Mía tên hiệu là “Sùng Nghiêm Tự”, nằm trên vùng đồi của làng Đông Xàng, xã Đường Lâm, thành phố Sơn Tây, Hà Nội. Hiện nay đã có một vài công trình nghiên về chùa Mía như: Năm 1993, quyển sách chùa Việt Nam của tác giả Hà Văn Tấn đã nói đến toàn cảnh các ngôi chùa Việt Nam qua các thời kì lịch sử và trong đời sống văn hóa dân tộc cũng như đặc điểm Phật giáo và văn hóa tâm linh của dân tộc được thể hiện ở các ngôi chùa Việt Nam trong đó có chùa Mía. Tác giả đưa bạn đọc đến với 118 ngôi chùa tiêu biểu trên khắp mọi miền đất nước qua các thời kì: Từ đầu công nguyên, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Trần, nhà Nguyễn đến những ngôi chùa mới xây như chùa Non (Hà Nội), chùa trong giai đoạn hoàn thiện: chùa Bái Đính (Ninh Bình), chùa Thanh Long (Bình Phước). Các chùa được sắp xếp từ sớm đến muộn, từ Bắc vào Nam [14]. Năm 2002, cuốn sách bản sắc văn hóa Việt Nam của tác giả Phan Ngọc. Đây là một trong số rất ít những quyển sách với mục tiêu xây dựng những khái niệm nền tảng, những phương pháp cơ bản cho ngành văn hóa nói chung và ngành nghiên cứu văn hóa Việt Nam nói riêng để ngành này sớm trở thành một ngành khoa học độc lập [12]. Năm 2009, cuốn chùa Mía – Mia Pagoda của tác giả Lê Thanh Hương ra đời. Đây là cuốn sách được lưu hành rộng rãi viết về lịch sử chùa Mía, các 2 công trình kiến trúc cùng hệ thống tượng phật phong phú và một số làng nghề nổi tiếng của Đường Lâm, mặt khác tại thời gian đó việc phát triển du lịch chưa thực sự được quan tâm nhiều đặc biệt vấn đề khai thác tiềm năng du lịch chùa Mía chưa được đề cập tại đây [7]. Bên cạnh đó còn có nhiều bài viết về chùa Mía trên những trang báo điện tử như: http://sontay.gov.vn; http://www.chuamia.vn. Đây là những trang báo mạng của thư viện tổng hợp thành phố Sơn Tây thuộc bản quyền của UBND thành phố Sơn Tây, trong đó có các bài viết mang tính tổng hợp, kết quả nghiên cứu về vị trí, đặc điểm của di tích, chưa có sự đánh giá về thực trạng cũng như tiềm năng phát triển du lịch tại chùa Mía [22], [23]. Có thể nói do mục đích nghiên cứu cũng như đối tượng và hình thức tiếp cận khác nhau mà các công trình nghiên cứu và các bài viết nêu trên chưa đi sâu vào khai thác vấn đề phát triển du lịch tại chùa Mía, cùng với đó là những tác động làm ảnh hưởng không nhỏ đến khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt này. Tuy vậy để hoàn thành khóa luận với đề tài “chùa Mía và tiềm năng phát triển du lịch”, tôi đã chắt lọc những ý kiến, tham khảo một số công trình, bài viết về di tích lịch sử quốc gia đặc biệt chùa Mía, nhất là sự thâm nhập, điền dã vào ngày 26 tháng 3 năm 2016 nhằm khảo sát, thu nhập nguồn tư liệu quý báu ngoài sách vở. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài nhằm góp phần khảo cứu và điều tra đánh giá thực trạng của chùa Mía. Từ đó hướng tới việc bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích lịch sử - văn hóa, danh lam, thắng cảnh chùa Mía trong không gian văn hóa cổ Đường Lâm. Trên cơ sở đó đề xuất một số hướng khai thác các tiềm năng, xây dựng mô hình du lịch, hệ thống năng lực và những giải pháp cụ thể nhằm phát triển 3 du lịch tại chùa Mía để nơi đây trở thành một điểm đến lý tưởng cho khách du lịch trong và ngoài nước. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu quá trình hình thành của chùa Mía. - Khảo sát các giá trị văn hóa - lịch sử tại khu di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh chùa Mía. - Đề xuất phương hướng khai thác, bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử của chùa Mía đối với việc phát triển du lịch văn hóa. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những nét văn hóa độc đáo của chùa Mía và tiềm năng phát triển du lịch. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là khu di tích chùa Mía, thôn Đông Xàng, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. 6. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình triển khai đề tài chúng tôi có sử dụng một số phương pháp sau: Phương pháp thu nhập và xử lý thông tin: Đây là phương pháp nghiên cứu đề tài qua việc thu thập các tài liệu sẵn có: thông qua các tài liệu, văn bản, sách báo, tạp chí, website, truy vấn thông tin qua internet và tư liệu do địa phương cung cấp có liên quan đến tài liệu nghiên cứu. Cụ thể như: các website http://www.chuamia.vn, http://tailieu.vn. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả khóa luận cũng đã tiến hành nghiên cứu tài liệu của những tác phẩm nghiên cứu có liên quan đến khu di 4 tích chùa Mía, thừa kế và tổng hợp những kết quả nghiên cứu trước để đưa ra những đánh giá của riêng mình. Phương pháp khảo sát, thực địa: Là phương pháp nghiên cứu giúp chúng ta tiếp cận vấn đề một cách chủ động, trực quan kiểm tra, đánh giá một cách xác thực để có một cái nhìn toàn diện về đối tượng nghiên cứu. Cụ thể ở đề tài này, phương pháp nghiên cứu này thể hiện ở việc tham quan trực tiếp chùa Mía, cách bài trí tượng Phật. Các hoạt động chính khi tiến hành phương pháp này gồm: quan sát, mô tả, điều tra, ghi chép, chụp ảnh. 7. Đóng góp của đề tài - Mang đến cho độc giả những hiểu biết cơ bản về lịch sử hình thành, quá trình xây dựng của khu di tích chùa Mía trên cơ sở đó làm rõ các giá trị của khu di tích chùa Mía về kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc, giá trị lịch sử văn hóa tâm linh. - Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hóa tại chùa Mía, thôn Đông Xàng, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. 8. Cấu trúc đề tài Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của khóa luận được triển khai thành 2 chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Chùa Mía - thực trạng và giải pháp phát triển du lịch 5 NỘI DUNG Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Sơn Tây – mảnh đất giàu truyền thống văn hóa 1.1.1. Khái quát về Sơn Tây Thị xã Sơn Tây là cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội với tọa độ địa lý 210 độ vĩ bắc và 1050 độ kinh đông, cách trung tâm Hà Nội 42 km về phía Tây bắc, nằm trong vùng đồng bằng trung du bắc bộ, là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của cả vùng, có nhiều đường giao thông thuỷ, bộ nối với trung tâm Thủ đô Hà Nội và các vùng đồng bằng Bắc Bộ, với vùng Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc như: Sông Hồng - Sông Tích, đường Quốc lộ 32, Quốc lộ 21A, đường tỉnh lộ 414, 413… Thị xã Sơn Tây có tổng diện tích tự nhiên là 113,46 ki-lo-mét vuông, dân số khoảng 18 vạn người, được chia làm 15 đơn vị hành chính gồm 09 phường, 06 xã; có 53 cơ quan, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học và 30 đơn vị quân đội đóng trên địa bàn. Vùng đất Sơn Tây từ đời nhà Lê là trấn lị của xứ Đoài, rồi trấn lị của trấn Sơn Tây thời kì đầu nhà Nguyễn. Năm 1831, trấn Sơn Tây đổi thành tỉnh Sơn Tây và vùng đất thị xã Sơn Tây ngày nay trở thành tỉnh lị của tỉnh Sơn Tây. Thời kì Pháp thuộc, tỉnh lỵ của tỉnh Sơn Tây được đổi thành thị xã Sơn Tây. Năm 1965, hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây được sáp nhập lại thành tỉnh Hà Tây, khi đó Sơn Tây là một trong hai thị xã của của tỉnh Hà Tây. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XII, kì họp thứ ba, ngày 29/5/2008, từ ngày 1/8/2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, thành phố Sơn Tây được sáp nhập về thủ đô Hà Nội. Ngày 8/5/2009, Chính phủ ra Nghị quyết số 19/NQ – CP, về việc chuyển thành phố Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây thuộc thành phố Hà Nội [20]. 6 Trong năm năm gần đây, thị xã Sơn Tây đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận trên tất cả các lĩnh vực như: tốc độ phát triển kinh tế cao, mức tăng trưởng bình quân đạt 15% năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, công nghiệp xây dựng chiếm 48%; thương mại - dịch vụ chiếm 39,4%; nông - lâm nghiệp chiếm 12,6%; thu nhập bình quân đầu người đạt 11,2 triệu đồng/năm. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP đạt xấp xỉ 16%. Thương mại - dịch vụ: Tốc độ tăng trưởng bình quân 17,5%; trong ba năm gần đây tăng 20,3%. Hiện nay trên địa bàn thị xã Sơn Tây có hơn 208 doanh nghiệp, tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh. Nông nghiệp: Tỷ trọng cơ cấu ngành nông nghiệp giảm mạnh từ 19% năm 2004 còn 12,6% năm 2008. Giá trị 01 héc-ta canh tác năm 2008 đạt 42 triệu đồng (năm 2004 đạt 26 triệu đồng). Kinh tế trang trại và hộ gia đình phát triển mạnh đem lại hiệu quả cao. Hiện nay trên địa bàn thị xã có 168 trang trại (trang trại lâm nghiệp, kết hợp chăn nuôi; cây ăn quả; nuôi trồng thủy sản), trong đó 94 trang trại chăn nuôi công nghiệp, nhiều trang trại có lợi nhuận đạt từ 200 – 400 triệu đồng/năm. Làng nghề: Sơn Tây có hai làng nghề đã được công nhận làng nghề truyền thống bao gồm: làng nghề gốm Phú Nhi ở phường Phú Thịnh; làng nghề thêu ren Ngọc Kiên xã Cổ Đông. Ngoài ra, còn một số làng nghề truyền thống đang được khôi phục là nghề bánh tẻ Phú Nhi (phường Phú Thịnh). Tám làng nghề mới đang được phát triển gồm các nghề thêu ren, sinh vật cảnh, mộc, đan lát, đóng giày, tơ tằm… tập trung ở các xã Cổ Đông, Trung Sơn Trầm, Sơn Đồng, Đường Lâm, phường Xuân Khanh… Giáo dục: Chất lượng giáo dục và đào tạo của thị xã Sơn Tây luôn được nâng cao với 99% giáo viên các cấp học đạt chuẩn và trên chuẩn. Số học sinh giỏi và học sinh thi đỗ đại học, cao đẳng hàng năm đạt 30%. 7 Y tế: Chất lượng đội ngũ y tế của thị xã Sơn Tây từng bước được nâng cao, cơ sở vật chất tuyến cơ sở từng bước được đầu tư hiện đại. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân được chăm lo chu đáo. Con người: Con người nơi đây thân hiện, hiền hòa, giản dị, ấm áp, chân tình và rất hiếu khách. 1.1.2. Những nét văn hóa tiêu biểu của Sơn Tây Sơn Tây có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng như: Đồng Mô Sơn Tây là khu nghỉ dưỡng tuyệt vời, đến đây quý vị sẽ được trải nghiệm cảm giác lãng mạn khi đi qua hồ Đồng Mô để đến với hòn đảo xinh đẹp và khám phá khả năng chơi gôn của mình với các dịch vụ hoàn hảo, trang thiết bị tối tân tại sân gôn được các nhà thiết kế sân gôn hàng đầu thế giới đánh giá là sân gôn đẹp nhất Việt Nam, top đầu trong các sân gôn đẹp ở khu vực Đông Nam Á. Khi đặt chân lên đảo chắc chắn quý vị sẽ vô cùng ngạc nhiên trước vẻ đẹp thanh bình, thư thái và đắm chìm trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp nơi đây. Không dừng lại ở đó Sơn Tây còn nổi tiếng với khu di tích Thành cổ Sơn Tây - một công trình kiến trúc quân sự cổ độc đáo nhất Việt Nam được xây dựng vào năm 1822, năm Minh Mạng thứ ba. Ấn tượng đầu tiên mà du khách dễ dàng cảm nhận ở thành cổ Sơn Tây là hình ảnh những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi tỏa bóng mát quanh năm. Những bộ rễ sần sùi vươn dài ôm trọn lấy những bờ tường rêu phong, những cổng thành đổ nát tạo nên một nét đẹp cổ kính. Thành cổ Sơn Tây là tòa nhà quân sự được xây bằng đá ong có tổng thể hình vuông mỗi chiều khoảng 400m, cao 5m được xây theo kiểu Vauban với tổng thể 16 héc-ta. Trải qua gần 200 năm với biết bao thăng trầm lịch sử, thành cổ Sơn Tây chỉ còn lại những bức tường thành, cửa Tiền, cửa Hậu, hai khẩu súng thần công và một số phế tích như: Vọng lâu, điện Kính Thiên, giếng nước… Năm tháng cứ thế trôi qua nhưng thời gian không làm 8 mờ được dấu tích của lịch sử. Thành cổ vẫn còn đó, dù không trọn vẹn như trước nhưng vẫn oai phong, cổ kính, thể hiện uy thế trong một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc. Hơn thế, đó còn là một di sản văn hóa quý báu để con cháu ngàn đời sau trân trọng, giữ gìn. Bên cạnh thành cổ, khu di tích lịch sử - văn hóa Đường Lâm qua hai cánh cổng làng đã bạc màu sương gió, nằm dưới bóng một cây đa khổng lồ đã 300 năm tuổi là những ngõ xóm, đường làng, mái ngói, tường đá ong và các công trình kiến trúc cổ xưa trong một không gian sinh hoạt cộng đồng mang đậm bản sắc của một làng thuần nông và dấu ấn của một nền văn minh lúa nước. Người phương xa đến đây dễ nhận ra nét đặc sắc của làng cổ Đường Lâm, đó chính là những ngôi nhà gỗ với tường được xây bằng đá ong, nằm trong các khuôn viên có tường bao cũng bằng đá ong và đường làng lát gạch nghiêng chạy giữa những bức tường ấy. Đường Lâm có tới 956 ngôi nhà truyền thống trong đó các làng: Đông Sàng, Mông Phụ và Cam Thịnh lần lượt có 441, 350 và 165 nhà. Nhiều ngôi nhà được xây dựng từ năm 1649, 1703, 1850.... Căn nhà lâu đời nhất có tuổi thọ hơn 400 năm vẫn lưu giữ được bài văn cúng tế bằng chữ nho được viết bằng mực tàu trên một tấm ván. Các chi tiết làm nên "linh hồn" của nhà cổ gồm có tường đá ong, cổng đá ong, lối đi lát gạch nghiêng, bậu cửa cao và gian thờ tổ tiên. Nằm cùng trong cụm di tích làng cổ Đường Lâm có Đền Và. Đây là nơi thờ đức Thánh Tản Viên Sơn - một trong "Tứ bất tử" trên điện thần của dân tộc Việt Nam. Ngôi đình cổ kính có niên đại từ thời Lê Trung Hưng đến thời Nguyễn, nằm giữa rừng lim già đại thụ, tọa lạc trên gò đất rộng 5 hec-ta hình con rùa, đầu quay về hướng bắc, nổi tiếng là nơi cầu đảo rất linh hiển. Đền Và nằm kề bên địa danh Xã Tắc (nay thuộc phường Trung Hưng), là nơi diễn ra vụ tập kích Sơn Tây của không lực Hoa Kỳ năm 1970. Đến đây du khách không chỉ được chiêm bái, dâng hương tưởng nhớ đến vị thần đã có công với 9 đất nước, dân tộc mà còn được nghe những câu chuyện huyền thoại về Tản Viên Sơn thánh, về truyền thuyết nổi tiếng Sơn Tinh - Thủy Tinh qua đó làm tăng thêm niềm tự hào dân tộc để cho con cháu đời sau biết trân trọng giữ gìn những truyền thống quý báu ấy. Sơn Tây còn là vùng đất nổi tiếng với nhiều làng nghề thủ công truyền thống trong đó phải kể đến là nghề làm Bánh Tẻ Phú Nhi thuộc phường Phú Thịnh, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Năm 2007, Phú Nhi đã được công nhận là làng nghề sản xuất bánh tẻ truyền thống - danh hiệu làng nghề đầu tiên tại thị xã Sơn Tây. Năm 2010, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp Bằng công nhận thương hiệu bánh tẻ cho làng nghề Phú Nhi. Đây là cơ hội để địa phương duy trì và phát triển kinh tế bằng nghề làm bánh tẻ truyền thống. Bên cạnh đó, để bảo vệ thương hiệu bánh tẻ Phú Nhi, chính quyền địa phương đã tuyên truyền, vận động và tổ chức các lớp tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm để các hộ dân làng nghề sản xuất bánh tẻ đảm bảo chất lượng. Du khách đến đây không chỉ được tìm hiểu, tham quan các di sản văn hóa độc đáo của dân tộc mà còn được thưởng thức những đặc sản của mảnh đất xứ Đoài do chính bàn tay khéo léo của người dân lao động nơi đây làm ra. Không dừng lại ở đó, Sơn Tây còn có một hệ thống di tích đặc biệt quan trọng, đây là chốn văn hóa tâm linh - nơi các bà, các mẹ, thường tìm đến để cầu nguyện, ước mong, giãi bày những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống sau những giờ phút lao động vất vả, để tìm lại sự thanh tịnh, bình yên trong tâm hồn nơi chốn cửa chùa thanh tịnh. Do vậy, bất cứ nơi đâu trên mảnh đất Việt Nam ta đều có sự hiện hữu của các ngôi chùa, mảnh đất Sơn Tây cũng không ngoại lệ. Hệ thống chùa ở Sơn Tây chủ yếu là những ngôi chùa nhỏ gắn với tên làng. Người dân trong làng thường lui tới thắp hương hoặc cầu kinh vào các dịp lễ tết, ngày rằm, mồng một hàng tháng nên các ngôi chùa ở 10 đây không có điểm gì khác biệt so với các ngôi chùa khác. Tuy nhiên, có một điều đáng lưu ý là nơi đây lưu dấu ấn về một ngôi chùa ẩn mình trong sương sớm, nơi con người được chìm vào thế giới thâm nghiêm, nơi mọi người thường tìm đến để thắp nén nhang thể hiện ước mong, lòng thành kính đối với những vị thần có công với dân làng, với đất nước, để họ được tạm quên đi cuộc sống ồn ào, vội vã chốn phồn hoa đô thị, giải tỏa những căng thẳng sau những ngày làm việc vất vả và lấy lại sự cân bằng cho cuộc sống. Ngôi chùa ấy mang tên là chùa Mía (tên chữ là Sùng Nghiêm tự). Xưa kia vùng này là Cam Giá, tên Nôm là Mía nên chùa này được quen gọi là chùa Mía. Chùa Mía là ngôi chùa có bề dày lịch sử lâu đời, nơi đây lưu giữ được hệ thống tượng thờ có giá trị nghệ thuật độc đáo hàng đầu Việt Nam. Chính điều kiện thuận lợi này giúp chùa Mía thu hút đông đảo khách du lịch không chỉ trong nước mà cả nước ngoài đến tham quan. 1.2. Chùa trong văn hóa Việt 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển chùa Việt trong văn hóa Phật giáo Trong tiềm thức văn hóa dân tộc, hình ảnh ngôi chùa gắn bó mật thiết với đạo Phật. Đạo Phật được ra đời tại Ấn Độ và du nhập vào nước ta vào những thế kỉ đầu Công Nguyên. Suốt diễn trình hình thành và phát triển của Phật giáo trong lịch sử văn hóa dân tộc, chùa chiền ở Việt Nam cũng có nhiều thăng trầm. Thời nhà Lý, đạo Phật phát triển mạnh mẽ và trở thành quốc giáo, chùa được xây dựng nhiều, người đi tu không chỉ là những người dân bình thường mà còn là các bậc vua chúa, quan lại hoặc những người có địa vị xã hội lúc bấy giờ. Giai đoạn này, chùa có kiến trúc độc đáo, tỉ mỉ, đường nét hoa văn cầu kì, mọi hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng đều theo những khuôn phép chuẩn mực của đạo Phật, nhiều ngôi chùa được xây dựng theo lối kiến trúc thời Lý 11 vẫn còn tồn tại đến ngày nay như: chùa Diên Hựu (Hà Nội), chùa Trấn Quốc, chùa Hà, chùa Kim Liên, chùa Ngũ Xá, chùa Láng (Hà Nội),... Đến thời nhà Trần, Phật giáo tiếp tục phát triển trong sự dung hợp với Nho giáo, nhiều ngôi chùa được xây dựng và trùng tu như: chùa Phổ Minh (Nam Định), chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh), chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), chùa Yên Tử (Quảng Ninh) - đây cũng là nơi đã hình thành một Thiền phái mới đó là Thiền phái Trúc Lâm. Sang đến thời nhà Lê, Nho giáo được coi trọng, Phật giáo dần mất đi vị trí vốn có của nó, thêm vào đó chùa chiền bị hư hỏng nhiều do chiến tranh nhưng không được trùng tu lại, chính vì vậy mà chùa ảm đạm theo. Đến thế kỉ XVII, do ý thức của các nhà cầm quyền mà chùa chiền lại được phục hưng, nhiều chùa được trùng tu lại và xây dựng mới như: chùa Keo (Thái Bình), chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi)… Đến nay sau hơn hai mươi thế kỉ du nhập và truyền bá, có lúc thịnh lúc suy, Phật giáo Việt Nam đã được thống nhất từ Bắc vào Nam. Các hệ phái Phật giáo vẫn được bảo lưu, nét đặc trưng trong pháp môn tu hành vẫn được tôn trọng. Có thể thấy hình ảnh các ngôi chùa Việt luôn đi liền với sự hưng vong của Phật giáo, Phật giáo hưng thịnh thì chùa phát triển, Phật giáo chững lại thì chùa chiền cũng ảm đạm theo. Vì thế, mối quan hệ giữa chùa và Phật giáo luôn gắn bó mật thiết không thể tách rời tạo nên nét văn hóa độc đáo và phong cách riêng biệt cho những ngôi chùa nói chung và chùa Việt Nam nói riêng. 1.2.2. Kiến trúc chùa Việt Trong sự hình thành và phát triển của lịch sử, trải qua các thời kì khác nhau, kiến trúc của mỗi ngôi chùa cũng có sự thay đổi tùy thuộc vào sự thịnh suy của đạo Phật. Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình đơn lẻ mà là một quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc 12 nối vào nhau, bố cục mỗi ngôi chùa cũng khác nhau. Tên chùa truyền thống được đặt theo các chữ Hán có dạng gần với mặt bằng kiến trúc chùa. Chùa chữ “Đinh”, có nhà chính điện hay còn gọi là thượng điện, là nhà đặt các bàn thờ Phật, được nối thẳng góc với nhà bái đường hay nhà tiền đường phía trước như chùa chùa Hà, chùa Bộc (Hà Nội), chùa Nhất Trụ, chùa Bích Động (Ninh Bình). Chùa chữ “Công” là chùa có nhà chính điện và nhà bái đường song song với nhau, được nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là thiêu hương. Có nơi gọi gian nhà nối nhà bái đường với Phật điện này là ống muống như chùa Cầu (Hội An), chùa Keo (Thái Bình). Chùa chữ “Tam” là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường được gọi là chùa Hạ. Chùa Kim Liên ở Hà Nội, chùa Tây Phương, chùa Thầy (Hà Tây cũ) có dạng bố cục như vậy. Chùa được xây dựng theo kiểu “Nội công ngoại quốc” là chùa có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường (có thể là nhà tổ hay nhà tăng, ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc ở giữa. Bố cục mặt bằng chùa có dạng phía trong hình chữ “Công”, còn phía ngoài có khung bao quanh như chữ “Khẩu” hay chữ “Quốc” như chùa Mía (Hà Nội), Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Đậu (Hà Nội). Đây là bố cục của các công trình kiến trúc chính. Chùa có kiến trúc kiểu chữ “Công” là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên có một số ngoại lệ, tiêu biểu là chùa Một Cột ở Hà Nội có hình dáng một bông sen nở trên mặt nước, hay ngôi chùa mới được xây cất như chùa Vĩnh Nghiêm có hai tầng ở TP. Hồ Chí Minh mang trong mình cả những nét truyền thống Phật giáo và cả những thành tựu của kiến trúc. 13 Không chỉ đẹp trong những ngày đầu xuân khi bút lộc đâm chồi, khi hoa đào, hoa mai đua nở, chùa Việt Nam trong bốn mùa đều mang một vẻ đẹp kín đáo thầm lặng, lắng đọng sâu trong tâm hồn người hướng về điều thiện. Người lên chùa sẽ cảm nhận được vẻ đẹp trong sáng, sâu sắc hơn khi được hiểu biết thêm về lịch sử, kiến trúc xây dựng ngôi chùa và cuộc đời của những con người được thể hiện qua các pho tượng với nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ kì diệu qua bàn của những người thợ tài hoa [16]. 1.2.3. Hệ thống tượng Phật ở chùa Việt Nam Mỗi ngôi chùa đều có những cách sắp xếp tượng Phật khác nhau tùy thuộc vào số lượng tượng Phật trong chùa tạo nên sự độc đáo, nét riêng biệt của từng chùa. Chùa là nơi thờ Phật số lượng chùa ít nhất cũng có khoảng 10 tượng, chùa nhiều có hàng trăm. Chùa Giác Lâm, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh có tới 113 pho tượng, chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm Tự) huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội có tới 153 pho tượng, chùa Mía (Sùng Nghiêm Tự), thị xã Sơn Tây, Hà Nội có tới 287 pho tượng lớn nhỏ. Theo kinh Phật, Phật và một số đồ đệ có hạn, sở dĩ nhiều tượng trong một chùa như vậy là do trong các dịp lễ, trùng tu, tôn tạo, các Phật tử lại cúng thêm tượng, nhà chùa cứ bày biện thêm những pho tượng mới cúng đó, chứ không quan tâm đến nhiều pho tượng chỉ mang một nội dung và hình thức tạo tác giống với các pho tương tự. Tượng Phật thường được tạc bằng gỗ mít, màu vàng thớ nhỏ và mịn mềm, dễ đục đẽo, không bị cong vênh. Tượng to thường được tạc từng bộ phận rồi được ghép với nhau nhờ các mộng và sơn ta, sau đó người thợ lấy đất sét trắng trộn với sơn ta sống để hàn bịt những chỗ nối, nứt và khuyết. Người thợ cũng phủ lên toàn bộ bề mặt pho tượng thứ hỗn hợp này, rồi lấy bọt biển và mai mực mài cho hết những chỗ xù xì. Họ làm như vậy nhiều lần để tạo dáng, nét cho pho tượng, cho đến lúc nào ưng ý thì phủ sơn then lên 14 nhiều nước, nước trước để khô mới phủ nước sau, sau mỗi nước sơn lại mài bằng mai mực cho thật nhẵn. Lần cuối cùng, người thợ phủ lên một lớp vàng lá dát rất mỏng và sau đó quét một lớp quang dầu bên ngoài. Những tượng được tạc và sơn kĩ nếu không bị mưa nắng hủy hoại có thể tồn tại mấy trăm năm. Cũng có chùa, tượng được tạc bằng đá. Tượng tạc bằng đá có giá trị tồn tại vĩnh cửu, đòi hỏi nhiều công phu từ khi chọn khối đá đến những đường nét đục. Tượng đá khó trang trí và cũng dễ bị vỡ. Chùa ở Việt Nam có ít tượng đá. Chùa Phật Tích, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh có tượng A Di Đà được tạc bằng đá là một tác phẩm nghệ thuật quý hiếm ở nước ta. Trong vài chùa ở miền Bắc cũng có tượng nhục thân. Tượng nhục thân là tượng bằng người thật. Người tu hành sau nhiều năm tu luyện đã thấy giác ngộ đạt tới cõi “Không”, ngồi tụng kinh niệm Phật hàng tháng trời cho đến khi “hóa”, lúc đó da thịt đã biến hết chỉ còn bộ xương đó dùng làm cốt và phủ ra bên ngoài những lớp bột và sơn cho giống hình dáng của nhà sư lúc còn sống. Ở Việt Nam tại chùa Phật Tích (Hà Bắc), chùa Pháp Vũ (Hà Nội). Tượng Phật cũng được đúc bằng đồng hay vàng. Các sách sử còn ghi lại vào năm 1036 vua Lý Thái Tông làm lễ khánh thành tượng phật Đại Nguyên vừa đúc xong bằng đồng, năm 1041 cho đúc tượng Di Lặc bằng đồng nặng 7560 cân (cân ta) đặt tại viện Thiên Phúc. Năm 1051, đúc hai tượng Phạm Thiên và Đế Thích bằng vàng để thờ ở hai chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ. Năm 1134, khánh thành ba tượng Tam Tôn bằng vàng. Đời Trần vào năm 1329, nhà sư Pháp Loa đã cho đúc 1300 tượng Phật lớn nhỏ bằng đồng. Năm 1324, tư đồ Văn Huệ Vương và công chúa Thượng Trân đã cúng tới 900 lạng vàng để đúc tượng Phật Di Lặc. Qua đó, ta thấy việc đúc tượng Phật bằng đồng (có pho tượng năng tới 7650 cân ta) ngay từ thế kỉ XI, XII đã đạt đến kĩ thuật khá cao. Hầu hết, các 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan