Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chất trữ tình và chất trí tuệ trong thơ xuân quỳnh...

Tài liệu Chất trữ tình và chất trí tuệ trong thơ xuân quỳnh

.PDF
64
533
76

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC NGUYỄN THỊ HỒNG KHANH CHẤT TRỮ TÌNH VÀ CHẤT TRÍ TUỆ TRONG THƠ XUÂN QUỲNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC NGUYỄN THỊ HỒNG KHANH CHẤT TRỮ TÌNH VÀ CHẤT TRÍ TUỆ TRONG THƠ XUÂN QUỲNH Chuyên ngành: Lí luận văn học KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Giảng viên hƣớng dẫn: TS. Nguyễn Văn Bao SƠN LA, NĂM 2014 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn phòng Đào tạo, phòng Quản lí khoa học và Quan hệ quốc tế, các thầy cô trong khoa Ngữ Văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Lí luận văn học – Văn học nước ngoài cùng các bạn sinh viên lớp K51 – ĐHSP Ngữ Văn đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận. Em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo – TS. Nguyễn Văn Bao đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Sơn La, tháng 5 năm 2014 Sinh viên Nguyễn Thị Hồng Khanh MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................................2 3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu .............................................................4 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ..........................................................................................4 5. Cấu trúc khóa luận ....................................................................................................5 NỘI DUNG .....................................................................................................................6 CHƢƠNG 1. XUÂN QUỲNH – NỮ THI SĨ TÀI HOA, ĐẰM THẮM................6 1. Thi sĩ – nghệ sĩ, tƣ chất nghệ sĩ.................................................................................6 2. Xuân Quỳnh – Cây xƣơng rồng trên cát ................................................................9 3. Những chùm hoa độc đáo .......................................................................................12 3.1. Quá trình sáng tác..................................................................................................12 3.2. Những tác phẩm tiêu biểu.....................................................................................15 Tiểu kết ..........................................................................................................................16 CHƢƠNG 2. THƠ XUÂN QUỲNH – GIÀU CHẤT TRỮ TÌNH ......................17 2.1.Trữ tình là gì? .........................................................................................................17 2.2. Thơ trữ tình ...........................................................................................................17 2.2.1. Thơ........................................................................................................................17 2.2.2. Thơ trữ tình .........................................................................................................19 2.3. Biểu hiện của thơ Xuân Quỳnh giàu chất trữ tình .........................................21 2.3.1. Chất trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh được thể hiện qua nội dung: tình yêu .........................................................................................................................................21 2.3.1.1. Tình yêu cuộc sống – thời đại ..........................................................................21 2.3.1.2. Tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước ......................................................24 2.3.1.3. Tình yêu gia đình, bạn bè .................................................................................26 2.3.2. Chất trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh được thể hiện qua hình thức ngôn ngữ...................................................................................................................... 30 2.3.2.1. Giàu hình ảnh, giản dị, gần gũi .......................................................................32 2.3.2.2. Đậm chất dân gian............................................................................................34 2.3.2. Giàu nhạc điệu ....................................................................................................36 Tiểu kết ..........................................................................................................................38 CHƢƠNG 3. THƠ XUÂN QUỲNH – ĐẬM CHẤT TRÍ TUỆ ...........................39 3.1. Khái niệm trí tuệ ...................................................................................................39 3.2. Chất trí tuệ trong thơ ...........................................................................................39 3.3. Chất trí tuệ trong thơ Xuân Quỳnh ...................................................................43 3.3.1. Chất trí tuệ được thể hiện qua nội dung thơ ....................................................43 3.3.1.1 Thơ viết về cuộc sống – thời đại........................................................................43 3.3.1.2. Thơ viết về tình yêu ...........................................................................................46 3.3.1.3. Thơ viết về thiếu nhi..........................................................................................47 3.3.2. Chất trí tuệ được thể hiện qua hình thức .........................................................48 3.3.2.1. Sự độc đáo trong cấu tứ của thơ Xuân Quỳnh ................................................48 3.3.2.2. Tạo dựng kết cấu theo dòng cảm nhận ............................................................51 Tiểu kết ..........................................................................................................................56 KẾT LUẬN ...................................................................................................................57 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................59 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử Việt Nam được bạn bè trong nước và ngoài nước biết tới như một lịch sử đầy oanh liệt với những chiến công chói lọi. Lịch sử đó đã trải qua biết bao nhiêu trận chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược đem lại bình yên cho nước nhà. Một cuộc Cách mạng Tháng Tám đầy gian nan, kháng chiến chống Pháp đầy vất vả song rất đáng tự hào. Đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ giành thắng lợi đã không chỉ đem lại cho Việt Nam một nền độc lập vững bền mà còn tạo sự tích cực trên thế giới. Làm nên kì tích đó phải kể đến những đóng góp không nhỏ của sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc trong đó có văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật thời chống Mỹ không chỉ cổ vũ tinh thần yêu nước mà còn thể hiện được tình yêu gia đình, yêu lẽ phải, công bằng, yêu cuộc sống. Trong đó đã có biết bao nhà thơ trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong số đó phải kể đến nhà thơ Xuân Quỳnh – một nữ thi sĩ tài hoa, đằm thắm. Thơ chị là tiếng nói của một tâm hồn giàu lòng yêu thương, chứa đựng những cảm xúc, tâm tình vừa sâu kín lại vừa bộc bạch của chính bản thân; vừa là tiếng nói của một trí tuệ sắc sảo, thông minh, nhạy bén trước thời cuộc…Thơ Xuân Quỳnh chính là một biểu tượng cả về trí tuệ lẫn tình cảm mà bạn đọc ai cũng biết đến. Lermontov – văn hào Nga thế kỉ XIX đã hóm hỉnh chia đàn bà thành hai hạng: một đó là hạng hồn nhiên, chỉ có tình cảm mà thiếu hụt về trí tuệ; còn một hạng đàn bà trí tuệ nhưng lại thiếu hụt về tình cảm. Ông đã thất vọng vì không kiếm đâu ra một người đạt được sự toàn vẹn, đầy đủ cả hai yếu tố đó. Và khi đã tiếp cận với thơ Xuân Quỳnh tôi đã tìm ra đáp án cho mình. Xuân Quỳnh chính là lời giải đáp ấy. Thơ Xuân Quỳnh có lẽ vì vậy mà được rất nhiều người yêu thích, nhiều thế hệ mến mộ và nó đã từng trở thành những cuốn sách gối đầu giường của biết bao độc giả. Thơ chị được đưa vào chương trình sách giáo khoa các cấp học làm cho thế hệ học sinh hiểu thêm hơn về sự đặc sắc, vẻ đẹp của thơ cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn thi sĩ. Là một trong những người mến mộ và yêu thích thơ chị, mong muốn tìm hiểu sâu hơn về chất trữ tình, cũng như chất trí tuệ trong thơ chị. Từ đó hiểu rõ hơn, sâu hơn về con người chị. Đồng thời để phục vụ cho việc giảng 1 dạy, bình giảng thơ Xuân Quỳnh sau này, tôi mạnh dạn chọn việc nghiên cứu: “Chất trữ tình và chất trí tuệ trong thơ Xuân Quỳnh” làm đề tài nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề Xuân Quỳnh – một người phụ nữ đa sầu, đa cảm; một người vợ, người mẹ hiền dịu, đặc biệt hơn chị còn là một người nghệ sĩ đa tài. Sự nghiệp văn học của chị được xây dựng trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: thơ trữ tình, truyện ngắn viết cho thiếu nhi… Ở mảng nào chị cũng gặt hái được những thành công đáng kể. Nhưng khi nhắc tới Xuân Quỳnh người ta thường biết chị như một nhà thơ trữ tình, một nữ thi sĩ. Xuân Quỳnh được bạn đọc biết tới nhiều trong kháng chiến chống Mỹ. Trong thời kỳ này, chị là một trong những cây bút trẻ, đầy nhiệt huyết đã phục vụ đắc lực trong mặt trận văn hóa văn nghệ của cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian khổ. Với Xuân Quỳnh, thơ trữ tình của chị sáng tác khá nhiều song số lượng bài viết, nghiên cứu về chị còn phần nào hạn chế, khiêm tốn. Trong số nghiên cứu về Xuân Quỳnh phải kể đến: 1. Nữ sĩ Xuân Quỳnh – cuộc đời để lại (Ngân Hà tuyển chọn và biên soạn, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin – Hà Nội 2001) 2. Xuân Quỳnh – cuộc đời và tác phẩm (Lưu Khánh Thơ, Đông Mai tuyển chọn, Nhà xuất bản Phụ nữ) 3. Bài viết: “Con người và nhà thơ” của Lại Nguyên Ân (Hội nhà văn Việt Nam – Báo văn học tuổi trẻ, tháng 6 năm 1995) Nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh chưa nhiều song phần lớn các ý kiến đều tập trung đánh giá về hai phương diện nội dung, nghệ thuật của những tác phẩm thơ: Trong “Nữ sĩ Xuân Quỳnh – cuộc đời để lại”, bài viết “Cánh chuồn trong giông bão” Chu Văn Sơn có viết: “Mỗi thi sĩ đích thực bao giờ cũng có một điệu hồn riêng thì lo âu đó mới thực là điệu hồn Xuân Quỳnh, điệu hồn ấy Xuân Quỳnh đã phổ trọn vẹn vào nước tiếng thơ da diết nhất của mình” [7, 171]. Còn Lại Nguyên Ân thì cho rằng: “Xuân Quỳnh không chỉ là xuất chúng trong “giới thơ phụ nữ”. Hai chục năm nay thơ Xuân Quỳnh đã đi vào người đọc trở thành tiếng nói tâm tình về những ngọt bùi, cay đắng ở đời. Tiếng nói của tình yêu, tình mẫu tử - một tiếng nói hồn hậu, dung dị chứa đựng những sự 2 sống đương thời mà cũng in dấu nếp nghĩ nếp cảm của tâm hồn người Việt tự xa xưa” [7, 259 -260]. Hay như Mai Quốc Liên có lần đã nhận xét: “Chưa có ai đã biểu hiện sự thương yêu sâu xa, đằm thắm đến thế trong thơ tình Việt Nam như Xuân Quỳnh” [1, 35]. Chu Nga trong bài viết: “Xuân Quỳnh – một chồi thơ xanh biếc” cũng đã bật lên những dòng cảm xúc rất thật của mình về thơ Xuân Quỳnh: “Tôi yêu thơ Xuân Quỳnh trước tiên vì nét trẻ trung, tươi tắn, cái vẻ hồn nhiên cởi mở của người làm thơ, yêu cách viết nghịch ngợm, dí dỏm, không cần làm duyên mà vẫn có duyên của người cầm bút” [6, 493]. Nguyễn Minh Thái bàn về nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh thì cho rằng: “Những câu thơ ấy giống hệt những giọt nước sau cơn mưa còn đọng lại trên lá cây. Chỉ cần một làn cảm xúc chợt đến khi chạm vào lá là những câu thơ ấy sẽ rơi rụng ngay xuống một vùng tâm thức, mồn một hiện lên giữa lòng ta” [7, 121]. Có thể thấy rằng, việc nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh ở hai đặc điểm chất trữ tình và chất trí tuệ chưa được nổi bật. Điểm thoáng qua ta có thể nhận biết rõ ràng một vài đánh giá về những đặc điểm đó: Trong: “Nữ sĩ Xuân Quỳnh – cuộc đời để lại”, bài viết “Cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh”, Lưu Khánh Thơ có viết: “Xuân Quỳnh là một tác giả có bản sắc tương đối rõ nét. Bản sắc ấy ngày càng được khẳng định và được biểu hiện nhiều sắc thái qua mỗi tập thơ…Thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng là tiếng nói rất riêng của một tâm hồn phụ nữ thông minh, sắc sảo, giàu yêu thương” [7, 9]. Hay cũng trong bài viết đó, Lưu Khánh Thơ còn cho rằng: “Thơ Xuân Quỳnh giàu tâm trạng. Nếu thơ ca là sự tự thể hiện ở mức cao nhất cái tôi trữ tình của nhà thơ, thì ở Xuân Quỳnh, đặc điểm bản chất này của thơ càng được bộc lộ nổi bật” [6, 10]. Còn trong “Con người và nhà thơ”, Lại Nguyên Ân cho rằng: “Xuân Quỳnh là hiện tượng rất quan trọng của nền thơ chúng ta. Có lẽ từ Hồ Xuân Hương, qua các chặng đường phát triển, phải kể đến Xuân Quỳnh, nền thơ ấy mới lại thấy một nữ thi sĩ mà tài năng và sự đa dạng của một tâm hồn được thể hiện ở một tầm cỡ đáng kể như vậy, dồi dào, phong phú như vậy” [7, 259]. 3 Các bài viết về thơ Xuân Quỳnh có những đánh giá khác nhau, song đều khẳng định tài năng thơ độc đáo của chị. Và hầu hết các bài viết đều có nhận thức về thành công của Xuân Quỳnh trên sự nghiệp văn học. Đó là kết quả rất xứng đáng của một con người luôn tâm huyết với sự nghiệp như chị. Là một người yêu thích thơ Xuân Quỳnh, tôi muốn tiếp cận và tìm hiểu toàn diện thơ chị để thấy được cái hay cái đẹp, cái triết lí cũng như những cảm xúc trữ tình được ẩn sau những vần thơ duyên dáng, nhịp nhàng ấy. Để từ đó thuận lợi hơn trong công việc học tập, nghiên cứu. Do vậy, tôi chọn đề tài: “Chất trữ tình và chất trí tuệ trong thơ Xuân Quỳnh” làm đề tài nghiên cứu. 3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu hai đặc điểm: chất trữ tình và chất trí tuệ trong tác phẩm thơ Xuân Quỳnh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp của Xuân Quỳnh - Nghiên cứu về chất trữ tình trong tác phẩm thơ Xuân Quỳnh - Nghiên cứu về chất trí tuệ trong tác phẩm thơ Xuân Quỳnh 3.3. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, đặc điểm về chất trữ tình, chất trí tuệ trong thơ Xuân Quỳnh đề tài góp phần làm rõ hơn hai đặc điểm đó trong thơ chị. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp để nghiên cứu: phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp đánh giá. - Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp cơ bản, được sử dụng thường xuyên trong quá trình nghiên cứu. Một số tác phẩm thơ sẽ được phân tích toàn bộ và kĩ lưỡng để nêu bật được chất trữ tình và chất trí tuệ trong thơ Xuân Quỳnh. Một số tác phẩm khác chỉ xoay quanh một khía cạnh, vấn đề nào đó. - Phương pháp thống kê: 4 Đây là phương pháp cơ bản, đưa vào những khảo sát cụ thể để chứng minh cho những nhận định, đánh giá. Phương pháp này giúp người nghiên cứu có thể lựa chọn được những tác phẩm tiêu biểu trong thơ Xuân Quỳnh. - Phương pháp đánh giá: Phương pháp quan trọng đóng vai trò đánh giá, khẳng định những thành công của nhà thơ. Cần phải đánh giá được cái hay, độc đáo, đặc sắc trong tác phẩm thơ Xuân Quỳnh để tăng tính thuyết phục cho vấn đề mà đề tài nói tới. 5. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm có ba chương: Chương 1: Xuân Quỳnh – Nữ thi sĩ tài hoa, đằm thắm Chương 2: Thơ Xuân Quỳnh - giàu chất trữ tình Chương 3: Thơ Xuân Quỳnh - đậm chất trí tuệ 5 NỘI DUNG CHƢƠNG 1. XUÂN QUỲNH – NỮ THI SĨ TÀI HOA, ĐẰM THẮM 1. Thi sĩ – nghệ sĩ, tƣ chất nghệ sĩ Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Nghệ sĩ là người sáng tạo hay biểu diễn nghệ thuật. Nghệ sĩ là tên gọi chung, ngoài ra nghệ sĩ hoạt động ở mỗi loại hình nghệ thuật còn có tên gọi riêng như nhà văn hay văn sĩ, nhà thơ hay thi sĩ (văn học), họa sĩ (hội họa), nhạc sĩ, ca sĩ (âm nhạc)” [5, 171]. Ở phạm vi đề tài này nghệ sĩ được hiểu là nhà văn, nhà thơ. Văn học thuộc phạm vi cái đẹp. Còn nhà văn, nhà thơ là người sáng tạo ra cái đẹp. Văn chương là sự kết tinh, là kết quả sự sáng tạo cái đẹp của người nghệ sĩ để từ đó tác động tới dòng cảm xúc riêng chung của người đọc. Nghệ sĩ – thi sĩ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cái đẹp trong văn chương. Để làm được nhiệm vụ thẩm mĩ riêng của mình, nghệ sĩ cần có những năng lực, phẩm chất đặc biệt: giàu tình cảm, tưởng tượng phong phú, tài quan sát tinh tế, một trí nhớ tốt… Trong các năng lực, quan sát được coi là năng lực đầu tiên. Trí tưởng tượng của nhà văn dù có phong phú đến đâu cũng không thể phong phú bằng chính bản thân thực tế. Cho nên không thể không biết cách quan sát những sắc thái và diễn biến tinh vi trong cuộc sống. Quan sát thông thường chỉ để nhận biết sự vật, hiện tượng, còn quan sát của người nghệ sĩ không chỉ để nhận biết mà còn để phát hiện những yếu tố thẩm mĩ. Nếu không có cách quan sát tinh tế thì Xuân Diệu không thể thấy mùa thu buồn, buồn tê tái như rặng liễu đứng chịu tang; nếu không quan sát thì Tố Hữu sao thấy được hình ảnh một chú bé liên lạc “loắt choắt như con chim chích”… Như vậy, quan sát là bước đầu tiên để nhận biết và lựa chọn, để thu lượm những kiến thức cần thiết nhưng mang giá trị thẩm mĩ để đưa vào trong tác phẩm. Mỗi tác phẩm là một kho tri thức của nhân loại, của cuộc sống được nhà văn quan sát, lựa chọn, sắp xếp một cách vừa khoa học, vừa nghệ thuật. Phải có một trí nhớ tốt nhà văn mới thực hiện được điều đó. Trí nhớ để lưu giữ, bảo tồn lượng kiến thức quan sát, thu lượm được từ cuộc sống để khi cần có thể đem ra sử dụng. Ví như Banzac nhớ rành rọt họ tên, lai lịch, hành động, ngôn ngữ, cử chỉ của mấy nghìn nhân vật trong tiểu thuyết của mình. Gớt có thể nhắc lại rành rọt nội dung của một tác phẩm viết dở dang từ hơn ba mươi năm trước. 6 Văn học có thể xem như một cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống. Đọc tác phẩm văn học ta có thể tìm thấy trong đó những cảm xúc của chính mình, ta có thể đồng cảm với chính tác giả. Do vậy, người nghệ sĩ phải quan sát, phải lựa chọn tích lũy để đưa vào tác phẩm vốn kiến thức của cuộc sống. Phải có trí nhớ tốt để lưu giữ và bảo tồn những kiến thức đó. Tư chất nghệ sĩ rõ nhất ở mỗi nhà văn là một con người giàu tình cảm, dễ xúc động và nhạy cảm. Trong khoa học, tình cảm chỉ nằm trong tiền đề sáng tạo. Còn trong văn học tình cảm nằm ngay trong thành phẩm sáng tạo. Chính vì thế mà nhà văn, chủ thể sáng tạo không thể chỉ có lí trí lạnh lùng đã đành, mà cũng không chỉ có tình cảm thông thường, hời hợt. Yêu ghét, vui buồn, thương mến hay căm giận… đến độ mãnh liệt ở nhà văn. Như Lỗ Tấn đã từng nói: “Gặp những cái gì hay và đáng yêu thì họ ôm choàng lấy, nếu gặp những điều trái, đáng giận thì họ sẽ bác bỏ” [10, 325]. Nguyễn Du khi đứng trước số phận nghiệt ngã của Thúy Kiều cũng thốt lên rằng: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Như vậy, nhà văn luôn luôn mang một tấm lòng rộng mở, thốt lên những lời đau xót trước cuộc sống còn nhiều khó khăn. Họ biết ngạc nhiên dù là với một vẻ đẹp bình dị, rất nhạy cảm với đổi thay xung quanh. Hoạt động nghệ thuật là hoạt động thẩm mĩ, hoạt động sáng tạo ra cái đẹp. Đối với người hoạt động trong lĩnh vực văn chương ngoài việc quan sát còn cần có một năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Nghệ sĩ quan sát, tích lũy để tìm ra đối tượng, để xây dựng hình tượng. Đó không phải là những quy luật, những công thức cứng nhắc như trong các ngành khoa học tự nhiên mà đó là một loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Người nghệ sĩ không phải là một viên đá trần trụi giữa cuộc sống mà tâm hồn họ phải là một cây đàn muôn điệu để họ tự biến tấu lên những khúc nhạc riêng của mình. Những âm thanh của cuộc sống, những hình ảnh rất đời thường khi được người nghệ sĩ cảm thụ qua con mắt cũng rất nghệ sĩ của mình thì những cái bình thường cũng được thổi hồn và tạo nên sức sống. Văn học là người thư kí trung thành của thời đại. Lịch sử không bao giờ lặp đi lặp lại đồng nghĩa với việc văn học cũng không ngừng tìm tòi những cái mới trong phong cách thể hiện. Trí tưởng tượng phong phú đã góp phần làm nên điều đó. Gorki đã từng nhấn mạnh: tưởng tượng là một trong những biện pháp 7 quan trọng nhất để nhà văn xây dựng hình tượng. Qua óc tưởng tượng nhà văn mới biểu hiện sống động dưới ngòi bút của mình những dáng điệu, nội tâm của nhân vật. Có một trí tưởng tượng phong phú nhà văn mới có thể tìm ra được những bố cục với những thế tương đồng và tương phản hợp lý. Trí tưởng tượng giúp nghệ sĩ khám phá, sáng tạo. Song nếu chỉ dừng ở trí tưởng tượng thì mới chỉ là ý nghĩ. Để tạo ra được một sản phẩm trọn vẹn cả về nội dung và nghệ thuật nghệ sĩ cần phải có năng lực biểu hiện. Biểu hiện giúp nghệ sĩ biến những suy nghĩ, tình cảm, trí tưởng tượng thành những hình tượng sinh động, thành khách thể tinh thần để người đọc có thể cảm nhận được. Biểu hiện là việc lựa chọn những hình ảnh ngôn ngữ thích hợp để xây dựng nên hình tượng có ý nghĩa khái quát, biến những cái trừu tượng thành những cái cụ thể. Những năm tháng đau thương trong thời kì kháng chiến được Nguyễn Đình Thi ghi lại về hình ảnh một đất nước thật anh hùng: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều” Cũng viết về hình ảnh đất nước nhưng trong một bài thơ khác Nguyễn Đình Thi nhận ra đất nước đẹp ở hình sông thế núi, với rừng vàng biển bạc: “Việt Nam đất nước ta ơi, Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mù che đỉnh Trường Sơn sớm chiều” (Bài thơ Hắc Hải) Có thể nói năng lực biểu hiện là một chất keo dính đặc biệt liên kết óc quan sát trí nhớ, trí tưởng tượng thành một khối hoàn hảo, thành một công trình nghệ thuật có giá trị. Nếu như thiếu một trong những yếu tố trên thì tác phẩm nghệ thuật sẽ trở nên rời rạc, công sức của nhà văn sẽ trở nên vô nghĩa. Người nghệ sĩ hòa mình với cuộc sống, ngâm mình trong những đợt sóng ào ạt dội về từ cuộc sống đó, nhà văn phải mở lòng để đón nhận tất cả. Do đó, sự hình thành nhân cách cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn có sự tác động rất lớn của xã hội. Họ sẽ thực sự khẳng định được vị trí của mình khi biết đón nhận những biến động của xã hội đó. 8 2. Xuân Quỳnh – Cây xƣơng rồng trên cát Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại xã La Khê, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay là làng La Khê, xã Văn Khê, thị xã Hà Đông). Xuân Quỳnh sinh ra và lớn lên ở mảnh đất giàu truyền thống văn hóa. Nơi quê lụa Hà Đông đã có biết bao những anh hùng nổi danh như: Bố Cái Đại Vương, Ngô Quyền…; có nhiều địa danh mang đầy chất thơ, sơn thủy hữu tình như: chùa Tây Phương, Hương Sơn đệ nhất động… Đây còn là nơi khơi nguồn cảm hứng của bài hát: Hà Tây – cửa ngõ thủ đô. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này đã nuôi nấng biết bao tâm hồn nhà văn, nhà thơ trong đó có Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh được sinh ra trong một gia đình công chức. Cha Xuân Quỳnh là Nguyễn Quang Thường (Nguyễn Quang Lục) được học chữ Hán và tiếng Pháp nên ông uyên thâm cả về Hán học và Tây học. Ông đã từng viết báo, tiểu thuyết, sách nghiên cứu, dịch sách và làm nhiều thơ. Mẹ Xuân Quỳnh là Nguyễn Thị Trích (Thục Trinh) biết chút Hán học, sinh ra trong một gia đình giàu có song vẫn cẩn miện trong Nha Phong, giữ gìn nền nếp khoa môn. Cha mẹ Xuân Quỳnh đến với nhau từ khi còn rất trẻ (16, 17 tuổi), họ đã có được ba người con trai song tất cả đều qua đời chỉ còn lại chị gái Đông Mai và Xuân Quỳnh. Tới năm 31 tuổi, mẹ Xuân Quỳnh bị mắc bệnh lao và qua đời khi chị vẫn còn nhỏ, sau một thời gian cha đã đi lấy vợ khác. Xuân Quỳnh chịu nỗi côi cút từ nhỏ nhưng không phải vì vậy mà chị trở nên yếu đuối. Hơn ai hết chị luôn hiểu hoàn cảnh của mình, luôn sống sao cho xứng đáng với người mẹ đã quá cố của mình và luôn làm tròn trách nhiệm của một người con, một người em trong gia đình. Xuân Quỳnh phải ở với bà nội, tuổi thơ của chị gắn bó với miền quê yên lành và người bà hiền hậu. Có thể nói truyền thống gia đình đã phần nào hình thành nên tư chất của một nhà thơ trong chị. Xuân Quỳnh vốn là một người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp. Chị có gương mặt tròn, đôi mắt đen hạt nhãn, đôi má lúm đồng tiền duyên dáng. Chính nét đẹp thuần khiết đó đã khiến biết bao chàng trai say mê. Chị còn là một người mẹ, người vợ hết lòng vì gia đình, tình mẫu tử, nghĩa phu thê đã ăn nhập vào từng dòng máu trong cơ thể chị. Với bè bạn và sự nghiệp, chị là một người có lòng nhiệt tình, đam mê nên chị được đồng nghiệp hết sức quý mến. 9 Ngay từ lúc còn nhỏ, Xuân Quỳnh đã bộc lộ rõ những năng khiếu văn nghệ trong mình. Với những truyền thống văn hóa tốt đẹp của quê hương, của gia đình chị đã học hỏi được rất nhiều. Năm 13 tuổi, chị đã được tuyển vào đoàn văn công nhân dân Trung ương (tháng 2 năm 1955) đóng tại trụ sở 66 phố Quán Sứ. Tại đây cùng với năng khiếu có sẵn cùng niềm đam mê, Xuân Quỳnh đã được đào tạo thành một diễn viên múa chuyên nghiệp. Một cô gái đẹp, đôi mắt tinh anh rất dễ mỉm cười, chị đã thực sự nổi bật. Năm 1959, Xuân Quỳnh vinh dự khi được đi biểu diễn ở nước ngoài, dự đại hội sinh viên thanh niên tại Viên (thủ đô của nước Áo). Trong thời gian này chị đã sáng tác một số bài thơ song chưa thực sự nổi bật. Tới những năm 1962- 1963, Xuân Quỳnh được đi học khóa I trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ tại Quảng Bá. Ở môi trường tập hợp nhiều tài năng và trí tuệ như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Công Hoan, Xuân Diệu,… đã tác động mạnh mẽ tới cuộc đời và sự nghiệp của Xuân Quỳnh. Lớp viết văn này được tổ chức chặt chẽ, có nhiều chuyến đi thực tế đều đặn. Đây cũng là lớp bồi dưỡng rất kịp thời để sau này tung lực lượng văn nghệ trẻ vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Xuân Quỳnh học tập rất chăm chỉ, chịu khó, kết quả cuối lớp học là tập thơ Tơ tằm, Chồi biếc của chị đã ra đời. Học xong, Xuân Quỳnh về báo Văn nghệ thực tập một thời gian ngắn. Chị không trở lại đoàn ca múa nhân dân Trung ương nữa mà quyết định đi theo con đường văn nghiệp. Sau đó, báo Phụ nữ Việt Nam đã nhận chị về công tác, trong hoàn cảnh miền Bắc xảy ra chiến tranh phá hoại leo thang của Mỹ, chị đã được cử đi thực tế tại các cơ sở. Với một tấm lòng nhiệt tình, chị đã phục vụ đắc lực, luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao. Những năm tháng Mỹ bỏ bom miền Bắc, Xuân Quỳnh theo cơ quan sơ tán với ý chí quyết tâm cao phục vụ kháng chiến. Xuân Quỳnh đã từng đi dọc dãy Trường Sơn hòa nhập cùng những đơn vị bộ đội. Đặc biệt ở vùng lửa Quảng Trị - Vĩnh Linh, chị đến với nhân dân ở đây bằng lòng nhiệt huyết, trong lòng hào sụt lở. Người phụ nữ gan góc dũng cảm ấy không hề sợ chết, chị luôn sẵn sàng cống hiến sức mình vì sự nghiệp chung. Chị đã vượt qua bao nguy hiểm của vùng đất lửa để trở về với hơi thở của cuộc sống hào hùng. Xuân Quỳnh kết hôn với Lưu Tuấn – một nhạc công violon của đoàn văn công nhân dân Trung ương. Song hạnh phúc gia đình không bền lâu bởi Xuân Quỳnh tự nhận thấy tình yêu của Lưu Tuấn không đủ đáp ứng được sự tinh tế và nhạy cảm của mình. Mặc dù đã có con song Xuân Quỳnh và Lưu Tuấn quyết 10 định chia tay. Đó là những tháng ngày vô cùng đau đớn với chị. Là một người không đầu hàng với số phận, luôn khát khao hạnh phúc, chị đã chủ động đi tìm tình yêu của mình: “Núi cao biển rộng sông dài Tôi đi khắp chốn tìm người tôi yêu” Giữa lúc Xuân Quỳnh đang hụt hẫng thì Lưu Quang Vũ đã đến bên đời chị. Anh là một người có tài, đã từng kết hôn và có một cậu con trai. Tuy Xuân Quỳnh hơn Lưu Quang Vũ tới bảy tuổi nhưng hai tâm hồn đó đã có điểm chung là đam mê nghệ thuật, khát khao cống hiến. Năm 1973, họ đã kết hôn và cùng nhau vượt qua cuộc sống túng thiếu của những năm tháng Mỹ leo thang phá hoại miền Bắc. Từ năm 1978 đến lúc mất, chị làm biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Cùng thời gian đó, Lưu Quang Vũ cũng vào làm ban biên tập ở Tạp chí sân khấu. Cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng họ đã tìm thấy hạnh phúc của đời mình. Sống trong mái ấm của một gia đình, Xuân Quỳnh luôn bộc lộ mình là một người vợ, một người mẹ yêu thương chồng con hết mực. Xuân Quỳnh không chỉ gặp bất hạnh trong tuổi thơ, tình duyên lận đận mà chị còn đau đớn về căn bệnh tim ở những năm cuối đời. Trong thời gian điều trị bệnh tại bệnh viện Hữu nghị Việt Xô, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ tuy phải thường xuyên đi xa song tình cảm vợ chồng của họ vẫn luôn sâu sắc. Ngày 27 tháng 8 năm 1988, gia đình Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ cùng gia đình của họa sĩ Doãn Châu xuống làm việc với đoàn kịch ở Hải Phòng. Chiều ngày 29 tháng 8 năm 1988, trên chuyến xe trở về qua cầu Phú Lương – Hải Dương thì chuyến xe chở họ đã gặp tai nạn. Gia đình gồm ba người đã mãi mãi ra đi. Vụ tai nạn trên đường Năm đã làm chấn động làng văn nghệ Việt Nam, làm ngơ ngác những người yêu quý cặp vợ chồng tài hoa bạc mệnh. Những người còn lại đã tự an ủi nhau: Tạo hóa đã dựng lên một huyền thoại về những con người tài năng – quả đúng như vậy, sự nghiệp của Xuân Quỳnh đang ở độ viên mãn và gặt hái được nhiều thành công nhất thì chị đã đột ngột ra đi và bạn đọc băn khoăn không biết ai sẽ có thể đi tiếp con đường đó. Cả cuộc đời, cả sự nghiệp của Xuân Quỳnh đi qua để lại dấu chân của sự thành công. Dưới những dấu chân đó, tạo hóa đã khéo léo cài đặt những khó khăn trắc trở. Xuân Quỳnh là một cô gái mồ côi nghèo khổ lớn lên giữa một thời kỳ đất nước phải đương đầu với vô vàn khó khăn về kinh tế, về chiến 11 tranh. Chị luôn gắn ý chí của mình với tình yêu cuộc sống, với thơ. Chị vẫn sống yêu đời, yêu mãnh liệt, sáng tác quên mình. Đó là sức sống của một cây xương rồng trên cát. Xuân Quỳnh khác nào một cây xương rồng kiên cường và kì diệu trên sa mạc, đã vắt kiệt mình để nở rộ những bông hoa tuyệt đẹp cho đời. Đó là một loại cây tốt tươi với sức sống bền bỉ, dai dẳng. Mặc dù sống trên cát trắng bụi mờ nhưng những chiếc gai của sự kiên trì vẫn vươn dài và cây xương rồng đó đã đứng vững trên sa mạc mênh mông. Tất cả những sóng gió của cuộc đời đã tôi luyện nên một Xuân Quỳnh thật bản lĩnh, thật cứng cỏi. 3. Những chùm hoa độc đáo 3.1. Quá trình sáng tác Xuân Quỳnh đã xây dựng sự nghiệp văn thơ của mình với ý thức cao của một thi sĩ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Chị và những cây bút trẻ cùng thời đã góp phần không nhỏ trong phong trào văn hóa, văn nghệ đem lại cho cuộc kháng chiến một tinh thần, một niềm tin mới. Xuân Quỳnh vốn công tác trong đoàn văn công nhân dân Trung ương nhưng chị đã quyết định chuyển sang nghiệp văn chương. Đó là một cái nghiệp mà: “Tác dụng thanh lọc của văn chương là đến từ sự phát hiện cái đẹp của cuộc đời, gắn với một giá trị nhân văn, vì hạnh phúc của con người. Trong cuộc tìm kiếm ấy, nhà văn như một kẻ tử vì đạo, dũng cảm trong sự chống trả và đối phó với mọi uy hiếp, đe dọa đến từ các hệ quyền lực và cả với sự không an toàn của xã hội. Lao động của nhà văn tựa như một sự vắt kiệt mình, đi trong một khát khao kiếm tìm chân lý, hướng tới lẽ phải và giảm nhẹ những khổ đau của con người” [8, 317]. Văn nghiệp là một con đường không tránh khỏi khó khăn nhưng Xuân Quỳnh vẫn tìm đến với nó. Chính bản thân chị cũng đã từng nói tới nguyên nhân bắt đầu hoạt động văn học của mình: “Thứ nhất là vì thích thú: làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa. Vì uất ức: khi mới vào nghề bị xô đẩy, khinh rẻ nên tôi quyết phải sống. Mà sống tức là phải viết” [7, 263]. Cũng giống như hầu hết các nữ sĩ Đông, Tây, Kim, Cổ, Xuân Quỳnh làm thơ tả cuộc sống của chính mình về tất cả các phương diện: những khát khao giao cảm với đời, những suy nghĩ về sự sống của một người phụ nữ. Vì lẽ đó mà 12 hầu hết thơ chị là thơ trữ tình. Đất nước, thời đại, thiên nhiên, con người đều được phản ánh và thông qua cái lăng kính trữ tình đó. Xuân Quỳnh là một nhà thơ có bản sắc và phong cách một cách rõ rệt, ngòi bút của chị dù đi vào những vấn đề lớn lao của thời đại, của đất nước hay len lỏi vào những ngõ ngách sâu xa của tâm hồn thì thơ chị vẫn là tiếng nói rất riêng của một người phụ nữ sắc sảo đầy nữ tính. Đối với người cầm bút và đặc biệt là với thế hệ nhà văn, nhà thơ trong thời kỳ này thì việc đi từ mình tới cuộc sống chung là hướng đi tất yếu của những con người mang sứ mệnh dệt lên tinh hoa cho văn học nước nhà. Qua thơ chị ta thấy ngay điều đó, dù rằng bước đi đầu không tránh khỏi những chập chững, vấp váp nhưng chị đã vượt qua và đã đạt được những thành công đáng kể. Xuân Quỳnh thực sự bước vào sự nghiệp văn chương khi chị được cử đi lớp đào tạo những người viết văn trẻ (1962 -1963), tập thơ đầu: Tơ tằm – Chồi biếc đã ra đời trong thời kỳ này. Đây là tập thơ đầu tay của chị, với tâm trạng của một người mới vào nghề, chị ý thức mình là một phần tử nhỏ nhoi trong dòng người vô tận và sẽ có lúc mình phải nhường cuộc đời tươi đẹp này cho những cặp tình nhân khác. Đó là tập thơ thể hiện ý thức cao của chị đối với cuộc sống này. Tập thơ ra đời đã được bạn đọc đón nhận sôi nổi. Ở thời điểm này chị đã sáng tác: Thuyền và biển, với tình yêu được thể hiện sâu sắc qua nỗi nhớ, sự chờ đợi. Đặc biệt với bài thơ Sóng (đăng trên báo văn nghệ 1968), chị đã thực sự cho bạn đọc thấy được một tâm hồn phụ nữ khát khao yêu thương. Sau đó cùng với sự cố gắng, chị đã được bầu vào Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm thơ đã được dịch và in tại Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Pháp. Khi nhắc tới thành công của chị trên bước đường của sự nghiệp thơ văn là nhắc tới những tác phẩm thai nghén trong giai đoạn của cuộc kháng chiến vĩ đại. Chị hòa chung nhịp sống của mình với thời đại. Trong hai năm 1969 -1970, chị lặn lội vào vùng đất lửa Quảng Bình hàng tháng trời, đi đâu chị cũng có những sáng tác mới: Gió Lào cát trắng, Hoa cỏ may, Hoa dọc chiến hào… Tất cả đều thể hiện được khát khao của một nhà thơ đang vươn tới để hòa nhập với đời, với cuộc sống, với thời đại. Chị luôn đặt tình yêu, niềm khao khát của mình hòa cùng tình cảm chung của thời đại. Chính vì lẽ đó mà thơ chị trong giai đoạn này được bạn đọc biết đến khá nhiều. Thơ chị đã thực sự góp phần làm phong phú thêm cho thơ ca chống Mỹ cứu nước. Trong thời kỳ đất nước đương đầu với cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ, chị cũng đã hòa nhập hết 13 mình với thời đại. Tập thơ Gió Lào cát trắng, Hoa dọc chiến hào (1974), Lời ru trên mặt đất (1978) đã chứng minh điều đó. Xuân Quỳnh cũng có mặt hầu hết trên khắp các chiến trường phát động phong trào văn hóa văn nghệ, góp một phần nhỏ công sức của mình làm nên thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống Mỹ. Hòa bình lập lại chị hòa chung cảm xúc thơ với niềm vui chung của thời đại. Khi đất nước đã giành được độc lập, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Xuân Quỳnh cũng hòa chung cùng không khí đó với sự ra đời của một loạt các tác phẩm: Sân ga chiều em đi (1984), Tự hát (1984). Thành công đó còn tiếp diễn ở những tập truyện ngắn viết cho thiếu nhi. Ngoài những bài thơ được in rải rác trong tập thơ người lớn, Xuân Quỳnh đã có ba tập thơ in riêng cho thiếu nhi: Cây trong phố, Chờ trăng, Bầu trời trong quả trứng… Những tác phẩm đó là kết quả sâu sắc của việc trao gửi tình cảm giữa một nghệ sĩ nhạy cảm đối với con trẻ, những nét đáng yêu, ngây thơ của chúng đã tiếp thêm cảm hứng cho ngòi bút. Với ngòi bút tài hoa đằm thắm và nhiều cảm xúc, chị đã gây được ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc. Nhiều bài thơ nổi tiếng nữa như Thuyền và biển, Hoa cỏ may, Tự hát đặc biệt là Sóng , Truyện cổ tích về loài người đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa phổ thông. Nghệ sĩ Phan Huỳnh Điểu đã phổ nhạc rất thành công những bài thơ: Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu của chị. Xuân Quỳnh làm công tác văn nghệ từ khi còn trẻ, tuổi nghề đã góp phần làm nên thành công trong công việc, luôn năng động, sáng tạo, nhiệt tình. Chị đã gây dựng được ấn tượng trong lòng văn nghệ Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Lúc đầu với những bước đi còn chập chững, những bài thơ còn mang tính chất chung chung khẩu hiệu, chị con quá non trẻ khi đi vào đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, những niềm đau chia cắt hai miền. Thấy được những hạn chế của mình, Xuân Quỳnh đã nỗ lực học hỏi. Cuộc sống có nhiều đổi thay, cùng với những bước đi vội vã của dòng thời gian, Xuân Quỳnh đã tự tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm. Chị đã hòa nhập với thực tế cuộc sống, lăn lộn cùng với những vất vả của cuộc kháng chiến để rồi cống hiến hết mình. Xuân Quỳnh xin chuyển từ đoàn văn công sang hội liên hiệp nghệ thuật công tác. Nhờ sự gắn bó với công việc, với thực tế, chị đã dần xây dựng được tiền đề cho những thành công tiếp theo. 14 Sau ngày mất, rất nhiều tác phẩm của Xuân Quỳnh được tái bản: Hoa cỏ may (1989), Thơ Xuân Quỳnh (1992), Thơ tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ (1994), Tuyển tập truyện thiếu nhi (1995). Tuy Xuân Quỳnh có thơ đăng từ cuối những năm năm mươi nhưng chị vẫn thuộc thế hệ những nhà thơ chống Mỹ - thế hệ nhà thơ có đóng góp đáng kể trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Mỗi nhà thơ trước hết đều quan tâm đến tính chiến đấu và ý thức trách nhiệm của mình, Xuân Quỳnh luôn cố gắng trau dồi ngòi bút. Ý thức đó gắn bó thơ chị với cuộc sống và chị thực sự có ích cho cuộc sống chung. Bên cạnh ý thức công dân chị còn có một cái gốc khỏe khoắn: đó là bản lĩnh, tài năng. Do vậy chị là một cây bút nữ có năng lực sáng tạo dồi dào, sự sáng tạo với chị là một niềm vui, một sự say mê thôi thúc. Tuy chị đã mãi mãi đi xa song những đóng góp của chị sẽ được ghi nhận trong lòng bạn đọc nói riêng và thơ ca dân tộc đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nói chung. Với lòng say mê, nhiệt tình, với tố chất của sự tài năng độc đáo, chị đã thu về một vụ mùa bội thu với những tác phẩm chính như: Tơ tằm – Chồi biếc. NXB Văn học – 1963 Hoa dọc chiến hào. NXB Văn học - 1968 Gió Lào cát trắng.NXB Văn học – 1974 Lời ru trên mặt đất. NXB Tác phẩm mới – 1978 Thơ tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ.NXB Văn học - 1994 Và những tác phẩm viết cho thiếu nhi như: Bầu trời trong quả trứng. NXB Kim Đồng – 1982 Truyện Lưu Nguyễn. NXB Kim Đồng – 1983 Mùa xuân trên cánh đồng. NXB Kim Đồng – 1984 Tuyển tập truyện thiếu nhi. NXB Phụ nữ - 1995 3.2. Những tác phẩm tiêu biểu Với những đóng góp lớn lao của Xuân Quỳnh trong nền văn học hiện đại Việt Nam, các tác phẩm của Xuân Quỳnh đã được những giải thưởng như: - Hoa cỏ may – giải thưởng về thơ của Hội nhà văn Việt Nam năm 1990. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan