BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
SA THỊ ĐIỂN
BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU SỰ ĐỔI MỚI VỀ PHẠM VI PHẢN ÁNH
HIỆN THỰC TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN
SAU 1978 CỦA NGUYỄN KHẢI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Sơn La, năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
SA THỊ ĐIỂN
BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU SỰ ĐỔI MỚI VỀ PHẠM VI PHẢN ÁNH
HIỆN THỰC TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN
SAU 1978 CỦA NGUYỄN KHẢI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Mai Thị Chín
Sơn La, năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hoàn thành với sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của
Thạc sĩ Mai Thị Chín, giảng viên khoa Ngữ Văn. Qua đây, em xin gửi lời cảm
ơn chân thành sâu sắc nhất đến cô, người đã luôn quan tâm, giúp đỡ em
trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này.
Nhân dịp khóa luận được công bố, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới tổ
Văn học Việt Nam, tập thể các thầy, cô khoa Ngữ Văn, phòng Đào tạo, các
thầy cô Thư viện cùng cô giáo chủ nhiệm và tập thể lớp K51ĐHSP Ngữ Văn
đã động viên, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 4 năm 2014
Người thực hiện
Sa Thị Điển
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................................... 4
4. Giả thuyết khoa học ........................................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 4
6. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 4
7. Cấu trúc của đề tài .......................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 6
1.1. Đôi nét về nhà văn Nguyễn Khải. ................................................................ 6
1.1.1. Tiểu sử và con người Nguyễn Khải. ......................................................... 6
1.1.1.1. Tiểu sử ................................................................................................... 6
1.1.1.2. Con người .............................................................................................. 7
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác .................................................................................... 8
1.1.3. Quan niệm nghệ thuật ............................................................................... 8
1.2. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................. 9
1.2.1. Khái niệm đề tài ....................................................................................... 9
1.2.2. Khái niệm hiện thực ................................................................................. 9
1.3. Phạm vi, mức độ phản ánh hiện thực trong văn học Việt Nam .................. 10
1.3.1. Phạm vi, mức độ phản ánh hiện thực trong văn học Việt Nam trước 1975
......................................................................................................................... 10
1.3.2. Phạm vi, mức độ phản ánh hiện thực trong văn học Việt Nam sau 1975 12
1.4. Phạm vi phản ánh hiện thực trong truyện ngắn trước năm 1978 của Nguyễn
Khải. ................................................................................................................ 14
CHƢƠNG 2. SỰ ĐỔI MỚI VỀ PHẠM VI PHẢN ÁNH HIỆN THỰC
TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN SAU 1978 CỦA NGUYỄN KHẢI .... 18
2.1. Nguyễn Khải với việc phản ánh hiện thực các vấn đề đạo đức của xã hội . 19
2.1.1. Những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người vẫn luôn được giữ gìn và
phát huy ........................................................................................................... 19
2.1.2. Sự lung lay, rạn nứt của một số chuẩn mực đạo đức xã hội trước sự tác
động của xã hội ................................................................................................ 25
2.1.3. Sự thay đổi trong mối quan hệ xã hội ..................................................... 32
2.2. Nguyễn Khải với việc phản ánh hiện thực số phận con người.................... 36
2.2.1. Hiện thực về số phận của những con người trở về sau chiến tranh. ......... 36
2.2.2. Hiện thực về số phận con người trong sự hòa nhập với thời cuộc ........... 41
2.2.3. Hiện thực vế số phận của con người trước những thay đổi của thời cuộc
của cơ chế thị trường. ....................................................................................... 49
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………….……………………….56
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng tôi chọn đề tài: Bước đầu tìm hiểu sự đổi mới về phạm vi phản
ánh hiện thực trong một số truyện ngắn sau 1978 của Nguyễn Khải vì những
lí do sau đây:
1.1. Trong đội ngũ các nhà văn đương thời, Nguyễn Khải là một cây bút
tiêu biểu của nền văn xuôi cách mạng sau năm 1945 một cây bút viết khỏe, viết
đều và có những thành tựu to lớn từ những năm sau hòa bình. Dù sáng tác ở thể
loại nào: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, kí, tạp văn… Nguyễn Khải cũng đạt
được những thành tựu nhất định và để lại những ấn tượng độc đáo khó quên
trong lòng độc giả.
Những tác phẩm của Nguyễn Khải, đặc biệt là truyện ngắn của ông đã phản
ánh và bám sát các vấn đề thời sự nóng hổi của cuộc sống hàng ngày, những
cảnh đời, những số phận thật của cuộc sống. Tác phẩm của ông là những bức
tranh xã hội hết sức sinh động và độc đáo, có cả cái đẹp vĩnh hằng và cũng có cả
những cái xấu xí được tái tạo qua ngòi bút của nhà văn. Ngòi bút sắc sảo ấy còn
phản ánh được những hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống, nhưng đằng sau
những trang văn ấy là một cái tôi, một Nguyễn Khải đằm thắm, tha thiết, nặng
lòng yêu thương và chia sẻ với những cảnh đời, số phận của con người. Vì vậy
việc tìm hiểu, nghiên cứu về Nguyễn Khải là việc làm cần và không bao giờ đủ.
1.2. Tìm hiểu những truyện ngắn của Nguyễn Khải trước và sau năm
1978, tôi như được thấy, được trò chuyện, được đối thoại với chính nhà văn về
các vấn đề của cuộc đời về những giá trị thức thời và những mối quan hệ giữa
đạo đức con người... Tôi cũng đã thấy được những câu hỏi mà ông đặt ra: cuộc
sống và những cảnh đời éo le, sự hi sinh và vượt lên số phận hay mối quan hệ
của đạo đức con người? Vì vậy tôi thực hiện đề tài này với hi vọng tìm ra câu trả
lời, những ẩn số để cùng mọi người nhìn nhận và giải đáp những vấn đề trong
truyện ngắn của Nguyễn Khải.
1.3.Từ nhiều năm nay, nhiều tác phẩm của Nguyễn Khải đã được đưa vào
chương trình giáo dục ở các bậc học phổ thông, đại học và dành được sự yêu
mến của học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, những tiết học về nhà văn Nguyễn Khải
còn ít. Điều này đã gây ra không ít khó khăn cho người học, học sinh, sinh viên,
chưa có điều kiện tìm hiểu mảng truyện ngắn của ông. Do đó tôi chọn đề tài này
với hi vọng rằng khi đề tài được chỉnh sửa và đưa vào nghiệm thu có thể xem
xét như một tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên khoa Văn khi học tập và
tìm hiểu những tác phẩm cũng như tìm hiểu nhà văn Nguyễn Khải.
1
Với niềm ngưỡng mộ tài năng và với niềm say mê hứng thú khi đọc
những truyện ngắn của ông, tôi thực hiện đề tài này với mong muốn có một cách
nhìn, cách hiểu chính xác và đầy đủ hơn về nhà văn Nguyễn Khải. Qua đó,
mong muốn nhận được những bài học cho mình từ chính cuộc đời và những
trang viết của ông.
2. Lịch sử vấn đề
Với một sự nhạy bén, xông xáo với các vấn đề nóng bỏng mang tính thời
sự, nhà văn Nguyễn Khải đã gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp văn
chương của mình. Những trang viết sắc sảo, đầy “chất văn xuôi” của ông không
những chiếm được cảm tình của độc giả mà còn khơi gợi được hứng thú tranh
luận, trở thành nơi “giao tiếp, đối thoại” của đông đảo bạn đọc. Ngay ở những
tác phẩm đầu tay, Nguyễn Khải đã tạo được ấn tượng và sự chú ý của đồng
nghiệp và độc giả. Ngay sau khi tác phẩm Xung đột (1959) và Mùa lạc (1966) ra
đời thì ngòi bút của ông càng tỏ ra sung sức hơn, nhất là trong giai đoạn văn học
thời kì đổi mới. Nguyễn Khải là nhà văn luôn luôn tìm tòi, trăn trở, tìm cách
xuất hiện mới và khẳng định mình. Tác phẩm của ông ra đời đều phản ánh sự
thay đổi, những bước chuyển của xã hội con người. Chính vì vậy, ông luôn đóng
vai trò của một con người có tầm nhìn xa, sớm đứng về cái mới cái sẽ thắng thế.
Vì thế mà sáng tác của ông luôn là đề tài cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình,
tìm tòi, khám phá.
Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh là người có bài viết đầu tiên về Nguyễn Khải,
với Vài ý kiến về tác phẩm của Nguyễn Khải (Nxb Giáo dục, 1964), ông đã có
những nhận xét, đánh giá đầy thuyết phục: “Ở Nguyễn Khải có sự kết hợp nhịp
nhàng giữa khiếu quan sát sắc sảo của một nghệ sĩ và sự nhạy bén của một
người hoạt động xã hội” [13, 56]. Không chỉ có vậy, ông còn phát hiện
Nguyễn Khải là một nhà văn có phong cách hiện thực tỉnh táo. Tuy nhiên bài
viết mới chỉ đưa ra những nhận định chung về tác phẩm của Nguyễn Khải
chưa đề cập đến việc đổi mới về phạm vi phản ánh hiện thực trong truyện
ngắn của Nguyễn Khải.
Trong cuốn Nhà văn Việt Nam (1945-1975), tập 2 (Nxb Đại học và
THCN, 1983), nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ khẳng định rằng: “Nguyễn Khải
là một cây bút trí tuệ, luôn luôn suy nghĩ sâu lắng về những vấn đề mà cuộc
sống đặt ra và cố gắng tìm một lời giải đáp thuyết phục theo cách riêng của
mình” [13, 35].
Nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy trong bài nghiên cứu
Vài đặc điểm
phong cách nghê ̣ thuật Nguyễn Khải (Nxb Giáo dục, 1990) đã nhận định rằng :
“Từ lâu, Nguyễn Khải được chú ý vì cái độc đáo của cá tính, sáng tạo. Nhà văn
2
sớm định cho mình một phong cách riêng và ngày càng tỏ rõ bản lĩnh nghệ
thuật. Ở Nguyễn Khải, người ta thấy nổi bật lên khuynh hướng văn xuôi hiện
thực tỉnh táo giàu yếu tố chính luận và tính thời sự” [13, 86]. Đồng thời ông
cũng phát hiện: “Sáng tác của Nguyễn Khải là loại sáng tác mang luận đề và
tính chính luận rõ nét . Cái tạo nên sự hấp dẫn người đọc chính là sức thuyết
phục của lí lẽ” [13, 89]. Bài viết đã đề cập đến đặc điểm phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Khải nhưng về sự đổi mới về phạm vi phản ánh hiện thực trong
truyện ngắn của Nguyễn Khải thì chưa có sự đề cập và nghiên cứu trực tiếp.
Tác giả Bích Thu khi nghiên cứu về : Giọng điệu trầ n thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Khải những năm tám mươi đế n nay (Nxb Giáo dục, 1997) đã nhận
xét: “Sức chinh phục của truyện ngắn Nguyễn Khải những năm gần đây , một
phần đáng kể do nghệ thuật kể chuyện, trong đó giọng điệu trần thuật là một
trong những yếu tố quan trọng làm nên sức hấp dẫn trong các sáng tác tự sự
của nhà văn” [13, 122]. Tuy nhiên, đó chỉ là những khía cạnh riêng về giọng
điệu trần thuật, chưa có sự nghiên cứu về sự đổi mới về phạm vi phản ánh hiện
thực trong truyện ngắn của Nguyễn Khải.
Khi đọc “truyện ngắn và tạp văn ” của Nguyễn Khải (Báo Nhân Dân,
ngày 27-2-1999) nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn đã khẳng định: “Văn của
Nguyễn Khải không màu mè, không thiên về tả trời, mây, non nước. Bắt đầu vào
trang viết là gặp ngay nhân vật, biến cố, sự kiện; theo đó là sự giăng mắc những
suy tưởng, kí ức, cảnh ngộ, những lẽ đời, lòng mình và lòng người. Văn ông vì
thế giàu chất chiêm nghiệm, sự lịch lãm, trải đời; càng nhiều hơn là những toan
tính giả định, lật đi lật lại vấn đề, khiến người đọc cuốn hút theo biết bao những
trăn trở, suy tư và số phận nhân vật” [13, 383]. Tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã đi
sâu vào tìm hiểu cách thể hiện trong văn chương của Nguyễn Khải, nhưng chưa
quan tâm đến sự đổi mới về phạm vi phản ánh hiện thực trong truyện ngắn của
Nguyễn Khải.
Trong bài viết Thế giới nhân vật Nguyễn Khải trong cảm hứng nghiên cứu
phân tích (Nxb Giáo dục, 2001) tác giả Đào Thủy Nguyên đã nhận xét: “Coi
con người là trung tâm của sự khám phá và nghiền ngẫm hiện thực, Nguyễn
Khải ít xây dựng loại nhân vật tính cách mà thường xây dựng loại nhân vật
mang vấn đề, nhân vật tư tưởng. Nhà văn đặt vấn đề qua nhân vật, lấy nhân vật
làm nơi thể hiện các quan niệm nghệ thuật và các ý đồ tư tưởng của mình” [13,
149]. Như vậy, trong bài viết này tác giả đã đề cập đến thế giới nhân vật trong
tác phẩm của Nguyễn Khải nhưng chưa tìm hiểu về sự đổi mới về phạm vi phản
ánh hiện thực trong truyện ngắn của Nguyễn Khải.
3
Trên đây là các nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình văn
học về nhà văn Nguyễn Khải. Ông chính là nhà văn của các “vấn đề văn học”,
những vấn đề của hôm nay, được Nguyễn Khải bám sát và đưa những vấn đề ấy
vào trong những sáng tác của mình, nhất là trong mảng truyện ngắn chứng tỏ
ông là người nhạy bén, tinh tế, có sự tìm tòi khám phá mới mẻ. Chính phong
cách riêng ấy đã giúp nhà văn luôn bắt kịp mọi biến đổi của văn học cũng như
xã hội. Tuy nhiên, các ý kiến trên đều là những nhận định chung, xuất phát từ
toàn bộ sáng tác của Nguyễn Khải. Tuy đã có những công trình nghiên cứu với
quy mô nhỏ, song cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào tìm
hiểu một cách chuyên sâu về đề tài đổi mới về phạm vi phản ánh hiện thực trong
truyện ngắn sau năm1978 của Nguyễn Khải . Chính vì vậy, tôi mạnh dạn tiến
hành nghiên cứu đề tài: Bước đầu tìm hiểu sự đổi mới về phạm vi phản ánh hiện
thực trong một số truyện ngắn sau năm 1978 của Nguyễn Khải để góp phần hiểu
một cách đầy đủ và toàn diện hơn về sáng tác của Nguyễn Khải. Từ đó giúp
người đọc hiểu một cách sâu sắc hơn về những quan niệm và những suy ngẫm
về cuộc đời trong sáng tác của ông, nhất là mảng truyện ngắn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng
Nghiên cứu sự đổi mới về phạm vi phản ánh hiện thực trong một số
truyện ngắn sau 1978 của Nguyễn Khải.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 18 truyện ngắn trong tuyển tập truyện
ngắn Nguyễn Khải.
4. Giả thuyết khoa học
Tìm hiểu và đánh giá thành công sự đổi mới về phạm vi phản ánh hiện
thực trong một số truyện ngắn sau 1978 của Nguyễn Khải.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích: Phân tích các nguồn tư liệu đã có và các dẫn
chứng nhằm làm nổi bật được sự đổi mới về phạm vi phản ánh hiện thực trong
mô ̣t số truyện ngắn sau năm 1978 của Nguyễn Khải.
5.2. Phương pháp so sánh: So sánh về phạm vi phản ánh hiện thực trong
truyện ngắn trước và sau năm 1978 của Nguyễn Khải.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài mang lại cái nhìn đầy đủ hơn về sự đổi mới về phạm vi phản ánh
hiện thực của Nguyễn Khải qua một số truyện ngắn.
4
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, cấu trúc của đề tài gồm 2 chương
cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Sự đổi mới về phạm vi phản ánh hiện thực trong một số
truyện ngắn sau năm 1978 của Nguyễn Khải.
5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Đôi nét về nhà văn Nguyễn Khải
1.1.1. Tiểu sử và con người Nguyễn Khải
1.1.1.1. Tiểu sử
Nguyễn Khải tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải, ông sinh ngày 3 tháng
12 năm 1930, tại Hà Nội, trong một gia đình viên chức. Quê nội Nguyễn Khải ở
phố Hàng Than, thành phố Nam Định. Quê ngoại ở xã Hiếu Nam, huyện Tiên
Lữ, tỉnh Hưng Yên. Thuở nhỏ Nguyễn Khải sống ở quê ngoại nên có nhiều thời
gian học ở Hải Phòng và Hà Nội.
Vừa học xong năm thứ 3 (tương đương với lớp 8 bây giờ) ở một trường
trung học ở Hà Nội thì kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Nguyễn Khải rời thành
phố cùng mẹ và em tản cư về quê ngoại. Năm 16 tuổi (1946) Nguyễn Khải tham
gia kháng chiến ở Hưng Yên. Năm 1948, Nguyễn Khải làm y tá đồng thời có
viết bài cho tờ Dân quân Hưng Yên. Nhờ vậy, 1949 Nguyễn Khải được điều lên
làm phóng viên cho tờ báo này. Cuối 1950, Nguyễn Khải đi dự lớp nghiên cứu
văn nghệ tại huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, do hội văn nghệ Trung ương và
Chi hội văn nghệ Khu Bốn phối hợp tổ chức. Ở đây ông đã được làm quen với
nhà văn Nguyễn Tuân. Tháng 5 năm 1951, Nguyễn Khải lại được cử đi dự trại
viết của hai Chi hội Văn nghệ Liên khu ba và Liên khu bốn, tổ chức ở Kim Tân,
Thanh Hóa. Lần này ông được gặp nhà văn Nam Cao và nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng. Năm 1955, Tổng Cục Chính trị cử Nguyễn Khải tham gia trại viết truyện
anh hùng. Năm 1956, Nguyễn Khải chuyển hẳn công tác về tờ Sinh hoạt văn
nghệ của Tổng cục Chính trị (từ 1957 là tạp chí Văn nghệ quân đội). Liên tục
trong hai năm 1957- 1958 ông lần lượt đưa in các tập trong phần đầu của tiểu
thuyết Xung đột. Với tác phẩm này, Nguyễn Khải “ bắt đầu ý thức về chức năng
người cầm bút và thật sự bước vào con đường viết truyện”.
Nguyễn Khải là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Từ Đại
hội lần thứ II (1963) cho đến hai kì Đại hội III (1983) và Đại hội IV (1989) tiếp
theo, ông là Uỷ viên Ban chấp hành rồi Uỷ viên Ban thường vụ Hội Nhà văn
Việt Nam. Năm 1985 và năm 1988 Nguyễn Khải được nhận giải thưởng của Hội
nhà văn Việt Nam. Năm 2000, ông nhận giải thưởng văn học Asean. Ngày 1
tháng 9 năm 2000, Nguyễn Khải được Chủ tịch nước kí quyết định phong tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt II) cho chùm sáng tác: Gặp gỡ cuối năm, Xung
đột, Cha và con và…
Ông mất ngày 15 tháng 1 năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh, thọ 78 tuổi.
6
1.1.1.2. Con người
Nguyễn Khải một nhà văn chan chứa tình người sâu sắc, ngay từ thời niên
thiếu, Nguyễn Khải sống ở vùng quê đồng bằng với lớp người nghèo đói, lúc nào
cũng thấp thỏm lo âu về miếng cơm manh áo, phải chịu đựng nhiều nỗi đắng cay,
bị khinh rẻ, bị hắt hủi trong việc kiếm sống hàng ngày. Việc đi làm công ở thành
phố khi mới lớn lên, tất cả đã sớm tạo cho Nguyễn Khải một cái nhìn không đơn
giản, dễ dãi về cuộc đời. Những nỗi éo le, uẩn khúc, những sự giả tạo, bất công
trong gia đình và dòng họ, mà Nguyễn Khải là nạn nhân trực tiếp cũng nhen lên ở
tuổi ấu thơ của Nguyễn Khải một mối ác cảm gần như là sự căm ghét đối với hạng
người có của và quyền thế. Tuy bố của Nguyễn Khải là quan lại, nhưng Nguyễn
Khải là con vợ lẽ nên bị khinh rẻ và hắt hủi, thậm chí gần như là từ bỏ, do quan
niệm vợ lẽ con thêm và do tính cách lạnh lùng của người cha. Không được sống
trong sự chăm sóc đầy đủ của tình cảm gia đình, vì thế từ nhỏ Nguyễn Khải đã phải
đối mặt với cuộc mưu sinh và sớm có ý thức về tư cách làm người. Khi được tiếp
xúc với những cái mới mẻ của cách mạng, con người trẻ tuổi đó đã tự nguyện đứng
trong đội ngũ với tất cả tấm lòng sôi nổi, nhiệt thành đóng góp sức mình cho kháng
chiến. Sau này khi đến với nghề văn, Nguyễn Khải là nhà văn sớm có ý thức dùng
văn học để phục vụ sự nghiệp cách mạng, góp phần làm cho cuộc sống của con
người ngày một tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Những sáng tác của ông thẫm đấm
tình người sâu sắc, ở đó ông đã chia sẻ cảm thông với những con người, kiếp
người bất hạnh gặp khó khăn trước cuộc sống, thời cuộc.
Mặc dù không sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn học, nhưng
Nguyễn Khải đã sớm có hứng thú với nghề viết văn. Trước khi bắt tay vào nghề
văn thì Nguyễn Khải đã có khả năng viết báo, ông được đi dự lớp tập huấn ngắn
hạn. Từ đó Nguyễn Khải nuôi dưỡng lòng say mê và ham muốn sáng tác.
Nguyễn Khải là người thông minh hoạt bát, cây bút thời sự luôn xông
xáo, năng nổ, nhạy bén, giàu sức chiến đấu. Ông theo dõi kịp thời những biến
chuyển của lịch sử cách mạng, nắm bắt ngay những dấu vết nóng bỏng của sự
kiện, đi sát với diễn biến tư tưởng con người trong từng thời điểm. Tác phẩm
của Nguyễn Khải luôn luôn nhằm vào những sự thực lớn lao của đất nước ngày
hôm nay: cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nguyễn Khải luôn hướng thẳng vào đời sống hiện tại, vào vấn đề hiện
tại. Ông luôn lựa chọn những đề tài là hiện thực đời sống hôm nay, là vấn đề tư
tưởng hay tâm trạng của con người hôm nay. Trung tâm chú ý của Nguyễn Khải
là cái đang vận động, đang diễn biến.
Nguyễn Khải là con người mang bản chất chiến sĩ rõ nét. Ông là người có
trách nhiệm với cuộc sống và nghề viết văn của mình. Từ khi nhập ngũ với tư
7
cách người lính, lúc nào Nguyễn Khải cũng hết sức xông xáo và giữ vững cây
bút như cây súng. Cho đến nay Nguyễn Khải được đánh giá là: một cây bút viết
khỏe, viết đều… Tuy ông chưa có tác phẩm nào thật lớn về mặt khối lượng
nhưng tác phẩm nào của ông cũng độc đáo, cũng gây được ít nhiều tiếng vang
trong dư luận. Ông được đánh giá là một nhà văn dám nói thật, với cả mặt phải
lẫn mặt trái, cả sự đẹp đẽ hay cả sự xấu xí của nó.
Bằng tài quan sát và trí thông minh sắc sảo, Nguyễn Khải đã khám phá
những vấn đề cơ bản của thời đại; những kiểu nhân vật phong phú, đa dạng và
hấp dẫn; những con người tiên tiến giàu tình cảm và trách nhiệm trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Khải bắt tay vào sự nghiệp văn chương từ năm 1950. Năm 1951
ông được tặng giải khuyến khích về văn xuôi trong cuộc thi văn nghệ 19511952 với truyện Xây dựng, và bắt đầu được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột (phần 11957, phần 2- 1962). Nguyễn Khải có nhiều tác phẩm viết về nông thôn trong qua
trình xây dựng cuộc sống mới như: Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Một chặng
đường (truyện dài, 1962), Tầm nhìn xa (truyện, 1963), Người trở về (tập truyện
vừa, 1964), Chủ tịch huyện (truyện, 1972), những tác phẩm viết về bộ đội trong
những năm chống Mĩ như: Họ sống và chiến đấu (kí sự, 1966), Hòa vang (bút kí,
1967), Đường trong mây (tiểu thuyết, 1970), Ra đảo (tiểu thuyết, 1970), Chiến sĩ
(tiểu thuyết, 1973), Tháng ba ở Tây Nguyên (kí sự, 1976).
Từ sau năm 1975 sáng tác của Nguyễn Khải đề cập đến nhiều vấn đề xã
hội chính trị có tính thời sự và đặc biệt quan tâm đến tính cách, tư tưởng, tinh
thần của con người bấy giờ trước những biến động phức tạp của cuộc sống. Tiêu
biểu là các tiểu thuyết: Cha và con và… (1979), Gặp gỡ cuối năm (1982), Thời
gian của người (1985) và các tập truyện ngắn: Một người Hà Nội (1990), Một
thời gió bụi (1993), Hà Nội trong mắt tôi (1995), Sống ở đời (2002)… Năm
2000 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
1.1.3. Quan niệm nghệ thuật
Mỗi một nhà văn đều có một quan niệm nghệ thuật riêng đó là dấu ấn của
nhà văn và Nguyễn Khải cũng vậy! Nguyễn Khải thuộc số ít nhà văn sớm xác
định cho mình một quan niệm độc đáo và riêng biệt về nghệ thuật, về vai trò của
văn học và trách nhiệm của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Khải
hết sức tiến bộ và được hoàn thiện dần qua các thời kì, qua những trăn trở của
nhà văn về nghề văn chương của mình.
- Năm 1957 tại Hội nghị thành lập Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Khải
đã phát biểu về quan niệm nghệ thuật của mình như sau: “Tôi quan niệm nghệ
8
thuật đơn giản như sau: Là khoa học thể hiện lòng người, là lịch sử của lòng
người… sự thực chỉ có thể viết về những tấm lòng những tâm trạng của các
giai cấp trong xã hội với mọi sự tinh vi và ngoắt ngoéo có thật của nó như thế
mới là sự chân thật theo quan niệm của tôi”. Với quan niệm này đã chứng tỏ
ngay từ khi cầm bút Nguyễn Khải đã ý thức được đối tượng chính của văn học
là con người.
- Những năm sau này vẫn giữ niềm tin Văn học là nhân học, nhưng
Nguyễn Khải lại không ngừng bổ sung, điều chỉnh bằng nhiều nhận thức và trải
nghiệm để không tự trói buộc mình trong những khuôn thước chật hẹp. Vì thế
Nguyễn Khải đã quan niệm: “Chẳng có thứ nghệ thuật nào không có chính trị,
chính trị là mục đích và nội dung của nghệ thuật”.
- Mấy chục năm sau ông lại đưa ra điều chiêm nghiệm: “Văn chương nói
cho cùng là những khắc khoải, mơ tưởng về một giấc mơ chưa thành, nhưng vẫn
cho phép cả người đọc lẫn người viết đắm đuối trong hi vọng, trong mong đợi
để cuộc đời thêm hương vị thêm ánh sáng. Nó là tôn giáo của cái Đẹp, cái đẹp
phải với tới, có thể mãi mãi không tới”.
Vậy là ngay từ những ngày đầu cầm bút, Nguyễn Khải đã ý thức được
nhiệm vụ của người cầm bút và luôn luôn khám phá, tìm tòi để bổ sung cho quan
niệm nghệ thuật của mình một cách linh hoạt để đáp ứng được yêu cầu của cuộc
sống mới. Vì vậy, Nguyễn Khải đã từng nói: “Tôi tuyệt đối không viết theo thời và
cũng không viết theo những yêu cầu không thể chấp nhận được của thị trường sách
báo”. Đó là ý thức của một người có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Đó cũng
là điều mà không phải bất cứ nhà văn nào cũng làm được, mà chỉ có những nhà văn
thực sự có tâm huyết, lương tâm với ngòi bút của mình mới làm được.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
Khóa luận của chúng tôi tập trung nghiên cứu về: Bước đầu tìm hiểu sự
đổi mới về phạm vi phản ánh hiện thực trong một số truyện ngắn sau năm 1978
của Nguyễn Khải. Để triển khai nội dung của khóa luận, chúng tôi xin dẫn ra
một số khái niệm cơ bản sau đây:
1.2.1. Khái niệm đề tài
Đề tài là khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản
ánh trực tiếp trong sáng tác văn học, đề tài là phương diện khách quan của nội
dung tác phẩm.
1.2.2. Khái niệm hiện thực
Hiện thực là sự thực khách quan, cơ sở của tư tưởng và hành động. Hiện
thực chủ trương lấy đề tài trong cuộc sống hằng ngày xây dựng nhân vật hành
động theo những môi trường có thực được miêu tả bằng lời văn khách quan.
9
Hiện thực tức là sự gắn bó với đời sống, nhà văn hiện thực không phải là
một người ghi chép thụ động dửng dưng, mà với ý thức chủ động khám phá.
Điều quan trọng nhất là sự trung thành, chính xác trong nhận thức tái hiện bản
chất cuộc sống tầm quan trọng của những tư tưởng mà nhà văn muốn thể hiện.
1.3. Phạm vi, mức độ phản ánh hiện thực trong văn học Việt Nam
1.3.1. Phạm vi, mức độ phản ánh hiện thực trong văn học Việt Nam
trước 1975
Từ 1945 đến 1975, trên đất nước ta diễn ra nhiều biến cố lịch sử trọng đại,
tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội và con người. Cuộc tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945 đã giật tung xiềng xích hơn tám mươi năm thống trị
của thực dân Pháp và tiếp đó là phát xít Nhật; đồng thời lật đổ ngai vàng mục
ruỗng của chế độ phong kiến hàng nghìn năm; giành chính quyền về tay nhân
dân; thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; mở ra một trang mới vẻ vang
trong lịch sử. Tháng 7 năm 1954, hiệp định Giơnevơ được kí kết; hòa bình được
lập lại trên đất nước ta nhưng cả dân tộc lại phải tiến hành cuộc chiến đấu chống
đế quốc Mĩ xâm lược; thắng lợi trọn vẹn ngày 30 tháng 4 năm 1975; giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Những biến cố lịch sử trọng đại ấy
đã tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội và con người. Văn học Việt
Nam từ sau cách mạng táng Tám 1945 đến 1975 phát triển gắn liền với những
bước đi của lịch sử và hướng vào thể hiện, phản ánh hiện thực của đất nước,
hiện thực của cách mạng- kháng chiến và hiện thực của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội
Về phạm vi phản ánh, văn học ở giai đoạn trước năm 1975 tập trung phản
ánh hiện thực của đất nước, tất cả mọi nhà văn, nhà thơ đều gặp nhau ở một
cảm hứng lớn bao trùm, là niềm vui sướng tràn ngập, niềm tự hào và niềm yêu
mến tha thiết với đất nước, với cuộc đời mới, văn học đã ghi lại được ít nhiều
hình ảnh và không khí hết sức tưng bừng, say sưa của những ngày đầu cách
mạng, hình ảnh những đoàn quân Nam tiến và cuộc chiến đấu chống thực dân
Pháp, đế quốc Mĩ xâm lược.
Văn học ở giai đoạn này còn phản ánh hiện thực của cách mạng kháng
chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ.
Văn học tập trung tái hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cuộc
đấu tranh cách mạng của nhân dân để giữ đất, giữ làng… Cuộc kháng chiến
chống Pháp được tái hiện trong nhiều cuốn tiểu thuyết như Đất nước đứng lên
của Nguyên Ngọc, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, Một chuyện chép ở bệnh
viện của Bùi Đức Ái… Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc) là câu chuyện kể về
cuộc đấu tranh giữ đất, giữ làng của dân làng Kông Hoa, một buôn làng người Ba
10
Na ở Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Pháp với nhân vật chính là anh
hùng Núp, một người dũng cảm, kiên cường, thông minh, mưu trí, gan góc… đã
đánh thắng được kẻ thù của mình đó là bọn xâm lược thực dân Pháp. Văn học đã
phản ánh được đầy đủ và khái quát nhất về hiện thực cuộc đấu tranh gian khổ và
quyết liệt của quân và dân ta chống lại kẻ xâm lược thực dân Pháp.
Năm 1964 cả nước ta lại bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ với nhiều
thử thách vô cùng ác liệt, gay gắt. Hướng vào cuộc kháng chiến chống Mĩ văn
học đã có sự chuyển biến mạnh mẽ và thống nhất cao độ, văn học tập trung thể
hiện hình tượng Tổ quốc, nhân dân và người anh hùng. Được thể hiện ở các tác
phẩm Hòn đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu)…Hòn đất
(Anh Đức) là câu chuyện viết về cuộc chiến đấu của dân và quân huyện Hòn Đất
tỉnh Kiên Giang chống lại quân đội Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kì trong giai
đoạn chiến tranh đặc biệt.
Tác phẩm Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu) đã dựng lên khung
cảnh rộng lớn và hào hùng của hành trình chiến đấu bảo vệ đất nước của các
binh đoàn chủ lực, tập trung khắc họa người lính, cách mạng trên nhiều bình
diện, nhiều nhân vật thuộc các thế hệ khác nhau, đến từ nhiều vùng đất khác
nhau nhưng họ đều mang một phẩm chất chung là lòng yêu nước và có ý thức
trách nhiệm với Tổ quốc.
Nhìn chung văn học thời kì kháng chiến chống Pháp, Mĩ đã làm tốt nhiệm
vụ của một nền văn học, cổ vũ chiến đấu, tập trung phản ánh những mảng hiện
thực lớn trong cuộc cách mạng của dân tộc.
Văn học giai đoạn này không chỉ phản ánh hiện thực về đất nước, hiện
thực cách mạng- kháng chiến mà còn phản ánh một mảng hiện thực lớn đó là
hiện thực về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bước sang một chặng đường
mới, nền văn học cũng tập trung đi vào thể hiện những hiện thực mới bao quát
đời sống của cuộc sống mới ở miền Bắc, khẳng định cuộc sống mới, con người
mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng và cảm hứng chung của
những tác phẩm tập trung thể hiện. Với những tác phẩm như Mùa lạc (Nguyễn
Khải) nói về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cụ thể là nông
trường Điện Biên và sự đổi đời của người dân nhờ cách mạng. Với nhân vật
Đào, nhờ cách mạng đã đem lại cho chị niềm vui, sự hạnh phúc. Tập Truyện Tây
Bắc (Tô Hoài) nói lên cuộc sống hồi sinh của con người nhờ cách mạng, tiêu
biểu với tác phẩm Vợ chồng A Phủ…
Văn học giai đoạn này đã có nhiều thành tựu lớn nhưng bên cạnh những
thành tựu ấy thì mức độ phản ánh còn có nhiều hạn chế. Phản ánh cuộc sống của
con người còn manh tính phiến diện, xuôi chiều, chỉ phản ánh những mặt tốt,
11
mặt tích cực, chưa phản ánh những mặt trái, mặt tồn tại của con người và xã hội.
Trong tác phẩm Hòn đất của Anh Đức, hầu hết nhân vật trong truyện đều là nhân vật
tốt như : má Sáu, chị Sứ, út Quyên, Ngạn, anh Hai Thép, anh Tám Chấn, Năm
Nhớ…chỉ có nhân vật thằng Xăm là người độc ác xấu xa, nhưng nhân vật này được
xây dựng lên cũng nhằm tôn lên vẻ đẹp của các nhân vật tốt khác.
Kế thừa những truyền thống và kinh nghiệm nghệ thuật của một nền văn học
có lịch sử lâu đời, văn học Việt Nam trước 1975 đã xứng đáng với sứ mệnh cao cả
của một nền văn học cách mạng, tập trung phản ánh được các biến cố lịch sử trọng
đại, đời sống cộng đồng của đất nước.
1.3.2. Phạm vi, mức độ phản ánh hiện thực trong văn học Việt Nam
sau 1975
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, giải
phóng miề n Nam , thống nhất đất nước của dân tộc ta đã giành được thắng lợi
trọn vẹn. Sự kiện ấy mở ra một thời kì mới của lịch sử dân tộc, đồng thời cũng
đem đến một giai đoạn mới trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam. Từ chiến
tranh bước sang thời kì hòa bình, từ nền kinh tế tập trung, bao cấp chuyển sang
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ mối quan hệ về chính trị,
kinh tế hầu như chỉ khép kín trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước
đây, đến chủ trương mở cửa, hội hập toàn diện với thế giới, những điều đó tất
yếu kéo theo nhiều thay đổi về mặt xã hội.
Từ năm 1975 đến nay nền văn học Việt Nam đã trải qua hai chặng đường
phát triển, qua mỗi chặng đường nền văn học đều có sự biến đổi nhưng vẫn là sự
tiếp nối có tính liên tục.
Văn học trong 10 năm đầu sau giải phóng, đây là chặng đường chuyển
tiếp từ nền văn học trong chiến tranh sang nền văn học của thời kì hậu chiến. Về
cơ bản ở giai đoạn này văn học vẫn tiếp tục khai thác mảng hiện thực lớn của đất
nước, cách mạng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng cách viết của các
nhà văn ở giai đoạn này khác với cách viết của các nhà văn ở giai đoạn trước
1975. Bước sang những năm đầu thập kỉ 80 tình hình kinh tế-xã hội của đất
nước gặp nhiều khó khăn chồng chất và rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm
trọng. Nền văn học cũng chững lại và không ít người viết lâm vào tình trạng bối
rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. Ý thức nghệ thuật của số đông
người chưa chuyển biến kịp với thực tiễn xã hội, những quan niệm và cách tiếp
cận hiện thực vốn quen thuộc trong thời kì trước đã tỏ ra bất cập trước hiện thực
mới và đòi hỏi của người đọc. Nhưng cũng chính trong những năm này đã diễn
ra sự vận động ở chiều sâu của đời sống văn học, với những trăn trở vật vã, tìm
tòi thầm lặng mà quyết liệt ở một số nhà văn có mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc
12
sống và có ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình. Đó là những người đi
tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, mà người “mở đường tinh anh và
tài năng” đã đi được xa nhất ở chặng đầu này là Nguyễn Minh Châu. Góp phần
tạo nên chuyển động theo hướng mới của văn học trong những năm này còn
phải kể đến những tác giả như: Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Trọng
Oánh, Chu Lai, Nguyễn Chí Huân…với các tác phẩm tiêu biểu như: Năm 1975
họ đã sống như thế (Nguyễn Chí Huân), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Nắng
đồng bằng (Chu Lai), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Mùa lá rụng trong vườn
(Ma Văn Kháng)…Truyện Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng) lấy bối
cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất nước
bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh, gây ra nhiều thay
đổi tốt có, xấu có; truyện đã phản ánh chân thực những biến động trong xã hội
thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình-tế bào của xã hội.
Những tìm tòi và thành công bước đầu ấy đã mở ra cho văn học những
hướng tiếp cận mới với hiện thực nhiều mặt, đặc biệt là hiện thực đời thường với
những vấn đề đạo đức, thế sự đang tồn tại nổi cộm, đòi hỏi văn học phải nhận
thức, khám phá. Những tác phẩm ấy giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa
văn học và đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích
cực cho chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kì đổi mới.
Văn học trong thời kì đổi mới, ngoài những hiện thực mà nền văn học ở
giai đoạn trước phản ánh thì nền văn học trong thời kì đổi mới đã mở rộng về đề
tài và phạm vi, mức độ phản ánh.Trong chiến tranh giữ nước và giải phóng dân
tộc, sức mạnh của tinh thần yêu nước và ý thức cộng đồng đã được phát huy cao
độ, cuộc sống cá nhân, riêng tư của mỗi người phải thu hẹp lại nhường chỗ cho
đời sống của tập thể, của cả dân tộc, con người được nhìn nhận, đánh giá trước
hết và chủ yếu ở tư cách con người của dân tộc, của nhân dân, của cách mạng.
Nay hòa bình trở lại, con người trở về với cuộc sống bình thường, văn học
không chỉ tập trung phản ánh hiện thực của đất nước, cách mạng, công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội mà còn phản ánh đời sống cá nhân con người với cái đời
thường phồn tạp, muôn vẻ lẫn lộn tốt xấu, trắng đen, bi hài…, ý thức cá nhân
với mọi nhu cầu của con người như một cá thể, một thực thể sống đã được thức
tỉnh trở lại. Các giá trị về xã hội, đạo đức, nhân cách… trước đây bền vững là
thế thì lúc này nhiều điều đã không còn thích hợp và vì thế đã lung lay, rạn nứt.
Trong truyện Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, đây là câu chuyện đau xót
về những tình cảm gia đình đã mất đi trong cơn lốc của thời mở cửa, một vị
tướng rời quân ngũ trở về với gia đình và hoàn toàn lạc lõng trong một đời sống
đang thay đổi với những giá trị bị đảo lộn hàng ngày. Tình cảnh gia đình ông
13
Thuấn dường như rất phổ biến trong xã hội Việt Nam lúc giao thời khi đồng tiền
len lỏi và chi phối trong mọi mối quan hệ. Ông Thuấn như người xa lạ trong
chính ngôi nhà của mình trước cô con dâu sắc sảo, người con trai nhu nhược và
một bà vợ lẩn thẩn.
Như trong tác phẩm Mùa trái cóc ở miền Nam của Nguyễn Minh Châu,
nhân vật Toàn hiện lên có cả những điểm tốt lẫn điểm xấu, điểm tốt là tận tụy
sẵn sàng, có trách nhiệm với công việc, điểm xấu là ghen tị với những người có
thành tích cao hơn mình, xu nịnh cấp trên để thăng tiến, gài mìn giết chết bạn,
anh ta cảm thấ y xấu hổ vì mẹ và đối xử bất hiếu với mẹ của mình… Nhân vật
Toàn được xây dựng lên với sự đan xen giữa cái tốt và cái xấu.
Phạm vi hiện thực sau 1975 không chỉ là hiện thực của đất nước, của cách
mạng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đời sống cộng đồng mà còn là hiện
thực của đời sống hàng ngày của cá nhân con người với các mối quan hệ đan
xen phức tạp, đa đoan đa sự, điều đó đã mở ra một không gian vô tận, phong
phú, đa dạng nhưng cũng không kém phần phức tạp cho các nhà văn khai thác
và thể hiện.
1.4. Phạm vi phản ánh hiện thực trong truyện ngắn trƣớc năm 1978
của Nguyễn Khải
Nguyễn Khải thuộc số ít nhà văn có sức viết dẻo dai bền bỉ và luôn có mặt
trong những nơi mũi nhọn của cuộc sống. Nguyễn Khải cũng hướng sáng tác
của mình vào mảnh hiện thực lớn của đất nước, có ý nghĩa tiêu biểu cho đời
sống cách mạng, đất nước của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm
của ông thường gắn với những vấn đề thời sự - chính trị, bám sát với nhiệm vụ
cơ bản của mỗi giai đoạn cách mạng, đồng thời lại đi sâu nghiên cứu, khám phá
những bí ẩn của cuộc sống và những khía cạnh phức tạp của tâm lí con người.
Thế giới nhân vật của ông phong phú và đa dạng. Với cái nhìn sắc sảo, tinh tế và
nhạy cảm của người nghệ sĩ, Nguyễn Khải luôn phản ánh hiện thực một cách
riêng, làm nên một quan niệm nghệ thuật riêng của mình.
Nguyễn Khải là nhà văn sớm có ý thức dùng văn học để góp phần làm
cho cuộc sống của con người ngày càng tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Ông có một
niềm tin mãnh liệt lấy văn học làm vũ khí chiến đấu và đem hết sức mình góp
phần xây dựng cuộc sống. Ông chọn những nơi cuộc sống diễn ra sôi nổi, quyết
liệt, tiêu biểu cho hiện thực cách mạng của đất nước để làm cơ sở cho việc phản
ánh và sáng tạo văn học. Nguyễn Khải đặc biệt chú ý đến mảng hiện thực rất
quan trọng là vùng nông thôn trên con đường cải tạo và xây dựng cuộc sống
mới, với tất cả những diễn biến phức tạp của cuộc sống, một hợp tác xã tiên tiến
đang ngày càng phát triển cùng với sự đổ thay của số phận con người. Đó là
14
những vấn đề mà truyện ngắn Nguyễn Khải trước 1978 quan tâm thể hiện. Tiêu
biểu nhất là những tác phẩm: Mùa lạc, Tầm nhìn xa, Hãy đi xa hơn nữa, Đứa
con nuôi…
Trước hết, truyện ngắn của Nguyễn Khải trước 1978 bàn về vấn đề số
phận con người và sự thay đổi của họ nhờ cách mạng. Ngòi bút của Nguyễn
Khải tập trung phản ánh những con người có số phận bất hạnh, như chị Đào
(Mùa lạc), như bé Tấm (Đứa con nuôi)… đã tìm được cuộc sống mới trong tập
thể tràn đầy tình yêu thương giữa con người với con người, Đào là một con
người kém may mắn, chị là một người con gái kém về nhan sắc lại sinh ra trong
một gia đình nghèo. Lớn lên chị lấy chồng khi 17 tuổi, cuộc sống vợ chồng cũng
không mang lại cho chị hạnh phúc. Chồng chị thì cờ bạc, rượu chè, nợ nần nhiều
đã bỏ chị vào Nam sinh sống. Mấy năm sau trở về vợ chồng chị có với nhau
được một đứa con trai. Tưởng như chị đã được sống trong một gia đình hạnh
phúc thì tai họa đã ập xuống đầu chị. Đứa con trai lên hai thì chồng chết, vài
tháng sau con chị cũng bỏ chị mà đi. Từ đây chị sống một cuộc sống bất cần
“muốn chết mà đời vẫn còn dài”. Chị sống trong tình cảnh “tối đâu là nhà ngã
đâu là giường”. Khi Đào lên nông trường Điện Biên với tâm lí “con chim bay
mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo
lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua, còn
những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ” [12, 22]. Đào đã tìm thấy
niềm vui và hạnh phúc trong một tập thể mà ở đó con người chăm chỉ lao động,
vui vẻ cười đùa, quan tâm đến nhau đó chính là nông trường Điện Biên. Bé Tấm
trong Đứa con nuôi từng bị những thành kiến xấu xa của xã hội cũ tiêm nhiễm
từ ngày còn thơ ấu, em không còn tin trên đời này có người tốt. Nhưng rồi đã
được gia đình anh chị Cừ Lụa yêu thương đùm bọc. Và Tấm được đi học, tìm
thấy tương lai. Đối với những con người bất hạnh tìm được hạnh phúc trong xã
hội mới, Nguyễn Khải đã miêu tả với một sự thông cảm đặc biệt. Song ông
không đơn giản tâm trạng của họ mà lí giải một cách hợp lí và đầy thuyết phục.
Phải nói rằng những trang viết về số phận những nhân vật có cuộc đời bất
hạnh đã để lại những hình ảnh đẹp của con người hăng say lao động cùng những
nét diệu kì của cuộc sống mới. Đó là điều mà văn học giai đoạn trước không thể
hiện được. Qua đó, Nguyễn Khải muốn khẳng định bản chất tốt đẹp của xã hội
mới do cách mạng mang lại.
Truyện ngắn của Nguyễn Khải trước 1978 còn bàn về vấn đề xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Ở mảng hiện thực này Nguyễn Khải tiếp tục phản ánh những
phẩm chất tốt của con người, ông nhìn thấy những phẩm chất tốt đang sinh
thành và cũng nhìn thấy rõ những cái cũ lạc hậu trong mỗi con người. Bên cạnh
15
- Xem thêm -