Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian việt nam...

Tài liệu Biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian việt nam

.PDF
67
1034
102

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -------------------- LƯU THN THU BIỂU TƯỢNG MẶT TRỜI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học dân gian Người hướng dẫn khoa học TS.GVC. NGUYỄN THN NGỌC LAN HÀ NỘI - 2016 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình triển khai đề tài Biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, các thầy cô Tổ Văn học Việt Nam và đặc biệt là TS.GVC Nguyễn Thị Ngọc Lan – người hướng dẫn trực tiếp Tác giả khóa luận xin bày tỏ lòng cảm ơn và gửi lời biết ơn trân trọng nhất tới các thầy cô. Hà Nội, Ngày 20 tháng 4 năm 2016 Tác giả khóa luận Lưu Thị Thu LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Khóa luận Biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có sự tham khảo ý kiến của những người đi trước, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.GVC Nguyễn Thị Ngọc Lan. Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, công trình có sẵn nào. Hà Nội, Ngày 20 tháng 4 năm 2016. Tác giả khóa luận Lưu Thị Thu MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 6 5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 6 6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................. 6 7. Bố cục ................................................................................................................. 7 NỘI DUNG ............................................................................................................ 8 CHƯƠNG 1. GIỚI THUYẾT VỀ BIỂU TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG MẶT TRỜI ...................................................................................................................... 8 1.1. Biểu tượng – một loại mã văn hóa tiêu biểu ...................................................... 8 1.1.1. Khái niệm biểu tượng..................................................................................... 8 1.1.2. Ý nghĩa biểu tượng ....................................................................................... 11 1.1.3. Đặc điểm của biểu tượng ............................................................................. 12 1.1.4. Phân biệt “biểu tượng” và “hình tượng”..................................................... 13 1.2. Biểu tượng mặt trời......................................................................................... 13 CHƯƠNG 2. BIỂU TƯỢNG MẶT TRỜI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ... 16 2.1. Biểu tượng mặt trời trong tín ngưỡng dân gian ............................................... 16 2.2. Biểu tượng mặt trời trong nghệ thuật tạo hình dân gian................................... 21 2.2.1. Biểu tượng mặt trời trong hội họa, điêu khắc ............................................... 21 2.2.2. Biểu tượng mặt trời trong kiến trúc .............................................................. 23 2.3. Biểu tượng mặt trời trên trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc Việt Nam ...................................................................................................................... 25 CHƯƠNG 3. BIỂU TƯỢNG MẶT TRỜI TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM .......................................................................................................... 30 3.1. Biểu tượng mặt trời trong thần thoại ............................................................... 30 3.1.1. Biểu tượng mặt trời - thể hiện mong ước lí giải các hiện tượng tự nhiên của người xưa .............................................................................................................. 31 3.1.2. Biểu tượng mặt trời - thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên của người xưa .............................................................................................................................. 36 3.2. Biểu tượng mặt trời trong ca dao..................................................................... 41 3.2.1. Mặt trời - biểu trưng cho sự gắn kết tình yêu lứa đôi ................................... 42 3.2.2. Mặt trời - biểu trưng cho sự cách trở tình yêu lứa đôi ................................ 47 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 53 PHỤ LỤC ............................................................................................................. 55 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong bài mở đầu cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, tác giả viết rằng: Thời đại không có biểu tượng là thời đại chết; xã hội thiếu biểu tượng là xã hội chết. Một nền văn minh không còn có biểu tượng thì sẽ chết, nó chỉ còn thuộc về lịch sử [14;XXXIII] Biểu tượng có một tầm quan trọng không hề nhỏ. Có thể nói, trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta đều sử dụng các biểu tượng. Một dòng sông, một bông hoa, một cánh chim bay... tất cả đều là biểu tượng. Thật đúng khi nói không chỉ là chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng, mà còn có cả một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta. Trong cái thế giới ấy, có vô vàn các biểu tượng khác nhau. Đó có thể là biểu tượng cho hòa bình, cho sự sống, sự bất tử, cho một lối sống thanh cao, không bon chen danh lợi... hay biểu tượng cho một tín ngưỡng thờ cúng. Và một trong những biểu tượng quan trọng trong tín ngưỡng thờ cúng chính là biểu tượng mặt trời - một biểu tượng gần gũi, gắn bó mật thiết với đời sống của con người. Biểu tượng “mặt trời” đã đi sâu vào tiềm thức của người dân đất Việt từ bao đời nay. Với mỗi người Việt Nam, mặt trời đã trở thành biểu tượng văn hóa linh thiêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tượng trưng cho sức sống, sự thống lĩnh, niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Mặt trời là thái dương hay đại diện cho nguyên lý thuần dương, biểu hiện của dương tính mạnh mẽ. Biểu tượng mặt trời từ đời sống văn hóa, đi vào văn học dân gian mang nhiều nét nghĩa biểu trưng độc đáo. Sự biến đổi về ý nghĩa của biểu tượng diễn ra một cách tự nhiên và hoàn toàn phù hợp với quy luật sáng tác nghệ thuật dân gian. Hiện diện trong văn học dân gian, biểu tượng mặt trời được khai thác với những nét nghĩa khác nhau nhưng đều thể hiện sự sáng tạo tài tình của người nghệ sỹ dân gian. Có thể thấy, đây là vấn đề khoa học còn rất nhiều điều để khám phá và nếu thực hiện tốt, chắc chắn sẽ đem lại cho ta những phát hiện thú vị về một biểu tượng văn hóa đặc sắc. 1 Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài Biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam với mong muốn hiểu được ý nghĩa linh thiêng của biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và sự diễn hóa của nó khi xuất hiện trong các tác phNm văn học dân gian. 2. Lịch sử vấn đề Biểu tượng mặt trời, có thể xem là một trong những “mã văn hóa” tiêu biểu nhất trong hệ thống biểu tượng thế giới tự nhiên. Biểu tượng này, chứa đựng nhiều nét nghĩa biểu trưng và thể hiện rõ quan niệm thNm mỹ của dân gian qua nhiều thời đại. Nghiên cứu về biểu tượng mặt trời, có thể kể tới một số công trình sau: 1. Năm 2003, trong Giáo trình văn học dân gian, phần viết về Thần thoại do tác giả Nguyễn Bích Hà biên soạn, đã giới thiệu khái quát về nhân vật dũng sĩ có kỳ tích phi thường. Theo đó, các nhân vật như Hậu Nghệ, Chàng Quải, Giàng Do (Mông), Lương Vung (Mường)... đều được xếp vào kiểu nhân vật dũng sĩ “bắn rơi mặt trời”. Những chàng dũng sĩ đó vừa khổng lồ về sức vóc, vừa tài ba trong hành trạng, vừa dũng mãnh trong hành động, vừa vô tư trong ý thức chiến đấu vì cộng đồng. Họ chính là đại diện xuất sắc cho những mơ ước vĩ đại của con người trong cuộc chiến đấu không cân sức với tự nhiên. [13;28]. Trong trường hợp này, mặt trời là hiện thân của lực lượng tự nhiên và câu chuyện về chàng dũng sỹ bắn rơi mặt trời thực chất là miêu tả mối xung đột giữa con người với tự nhiên (mặt trời) – một mối xung đột phổ biến trong thời đại thần thoại. 2. Năm 2009, tác giả Nguyễn Thị Tuấn Tú có bài viết Nghệ thuật chạm khắc trên kiến trúc đình làng thế kỉ XVII ở châu thổ Sông Hồng đăng trên Tạp chí Di sản văn hóa [12] đã đề cập đến nghệ thuật chạm khắc trong kiến trúc đình làng, đặc biệt là biểu tượng mặt trời. Trong kiến trúc đình làng thế kỉ XVI, biểu tượng mặt trời xuất hiện không nhiều thường được chạm nổi bằng một vành tròn trong bố cục rồng chầu, tiếp đó là đường chỉ chìm kép hoặc cánh hoa cúc ngắn, hai bên mặt trời có các đao mũi nhọn lượn bay ra (Đình La Phù - Hà Nội). Sang thế kỉ XVII, biểu tượng này đã phát triển khá mạnh mẽ chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn nửa đầu thế kỉ, mặt trời vẫn kế thừa kiểu công thức thế kỉ XVI, mặt khác đã thể hiện 2 dưới dạng ½ đĩa tròn hiện lên trên một đấu vuông thót đáy, hai bên là hệ thống vân xoắn (Đình làng Xuân Dục - Hà Nội). Hoặc mặt trời là một vành tròn nổi, xung quanh được ôm bởi một lớp cánh hoa cúc, hai bên không có dao nhọn (Đình làng Phù Lưu - Bắc Ninh). Cuối thế kỉ XVII, mặt trời đã được thể hiện với nhiều đao mác ở hai bên. Giai đoạn sau thế kỉ XVIII, hình thức mặt trời cũng có nhiều nét tương đồng với thế kỉ XVII, nhưng các đao mác mập hơn và cứng hơn [12]. Bài viết đã chỉ ra sự xuất hiện khá sớm của biểu tượng mặt trời trong kiến trúc đình làng. Ngay từ thế kỉ XVI, biểu tượng mặt trời đã được thể hiện dưới dạng đơn sơ nhất. Trải qua các thế kỉ, biểu tượng mặt trời trong kiến trúc đình làng ngày càng được hoàn thiện với những đường nét phức tạp, cầu kì hơn. Tuy nhiên, bài viết chưa đề cập đến các dạng biểu hiện khác của biểu tượng mặt trời trong kiến trúc đình làng. Chẳng hạn như dạng lưỡng long chầu nhật, lưỡng long hồi quy... 3. Năm 2010, trên website của Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, tác giả Trần Lê Bảo có bài viết So sánh thần thoại của Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản [21]. Bài viết đã chỉ ra nét tương đồng cũng như đặc thù của thần thoại về mặt trời của ba nước trên một số phương diện như: Thần Mặt Trời cổ xưa nhất đều là nữ; mặt trời xuất hiện với số lượng nhiều (9 hoặc 10 mặt trời); xuất hiện người anh hùng chinh phục mặt trời… Mỗi nước đều có những cách lí giải khác nhau về hiện tượng mặt trời lặn và mọc nhưng vẫn có những điểm chung như: mặt trời lặn là do bị các anh hùng chinh phục (bị bắn hoặc bị xúc phạm); mặt trời mọc có liên quan tới tiếng gà gáy; sau khi mặt trời mọc, vũ trụ lại được xác lập theo trật tự thường ngày… Bằng những dẫn chứng và phân tích cụ thể, bài viết đã có những phát hiện thú vị về biểu tượng mặt trời. Đây cũng là những gợi ý quan trọng để chúng tôi thực hiện các vấn đề nghiên cứu của đề tài. 4. Năm 2012, trên trang web://www.doko.vn/luan-van/ls011bieu-tuongmat-troi-tren-san-pham-det-mot-so-dan-toc-thieu-so-viet-nam198701 có đăng bài Biểu tượng mặt trời trên sản ph m dệt của một số dân tộc thiểu số Việt Nam trong chuyên mục luận văn /văn hóa nghệ thuật /lịch sử. Tác giả bài viết đã đi sâu nghiên cứu về biểu tượng mặt trời trên sản phNm dệt của một số dân tộc thiểu số 3 Việt Nam có hoa văn mặt trời được xem là mô típ chính, tiêu biểu như: dân tộc Mường (trong nhóm ngôn ngữ Việt - Mường), dân tộc Thái, dân tộc Tày, dân tộc Nùng (trong nhóm ngôn ngữ Tày - Thái), dân tộc Mông, dân tộc Dao (trong nhóm ngôn ngữ Mèo - Dao); ngoài ra còn có dân tộc Lô Lô (trong nhóm ngôn ngữ Hán Tạng). Từ đó, phân loại các dạng hoa văn mặt trời trên các sản phNm dệt. Bài viết đã cho chúng ta thấy sự đa dạng và phức tạp của hoa văn mặt trời trên các sản phNm dệt của một số đồng bào dân tộc thiểu số. Điều này một lần nữa khẳng định, biểu tượng mặt trời hiện diện rất phổ biến trong mọi mặt đời sống của con người. 5. Năm 2014, trong Tạp chí Nghiên cứu văn hóa của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, tác giả Nguyễn Văn Cương có bài Ý nghĩa và biểu tượng của một số mô típ trang trí tiêu biểu trong điêu khắc đình làng [23]. Theo khảo sát của tác giả, biểu tượng trang trí thường là động vật như rồng, rùa, kì lân, phượng hoàng... hay lấy cỏ cây để trang trí như tùng, trúc, cúc, mai... họa tiết trang trí là thiên nhiên vũ trụ, nổi bật là biểu tượng thái cực, mặt trăng, mây... trong đó có cả biểu tượng mặt trời. Tác giả khẳng định mặt trời - biểu tượng cho sự chủ động và sự thống lĩnh. Mặt trời là thái dương hay đại diện cho nguyên lý thuần dương, biểu hiện của dương tính mạnh mẽ. Trong truyền thuyết Trung Hoa, mặt trời (vầng thái dương) cũng có khi là biểu tượng của hoàng đế. Mô típ mặt trời thường được sử dụng với hình tượng “lưỡng long chầu nhật”, được đắp nổi bằng vữa có gắn mảnh sành trên nóc đình, hoặc trong các đồ án trang trí ở cửa võng. 6. Cũng trong năm 2014, trên Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 10 có bài Từ huyền thoại về lửa/ mặt trời đến xu hướng "giải huyền thoại" (Trường hợp truyện kể về Cố Bợ ở Nghệ Tĩnh) [20] của Nguyễn Thị Thanh Trâm. Bài viết đã nghiên cứu mối liên hệ giữa mặt trời và lửa trong huyền thoại và tục thờ. Mối liên hệ giữa mặt trời và lửa trước hết được biểu hiện về mặt ý nghĩa của biểu tượng mặt trời. Một trong các lớp nghĩa đa dạng của thần Mặt Trời là lửa. Mặt trời được xem là lửa trong mối quan hệ nhị nguyên với mặt trăng - nước. Và trong ý nghĩa hai mặt của nó, mặt trời vừa được coi là “ban phát khả năng sinh sản, nhưng nó cũng có thể đốt cháy và giết chết”; “vừa là người nuôi dưỡng, vừa là kẻ phá hoại, 4 là bản nguyên của sự khô hạn”. Như vậy, lửa là một thuộc tính/dạng thức của mặt trời, được biểu hiện ở sức nóng, khả năng đốt cháy, sự phá hủy. Sự đồng nhất giữa mặt trời và lửa với ý nghĩa trên có thể thấy trong huyền thoại nhiều dân tộc như Nhật thực, nguyệt thực (Xơ Đăng), Nguồn gốc vũ trụ và muôn loài (Khơ Me), Thần Lửa (Ba Na)... Ở một khía cạnh khác, mối liên hệ giữa mặt trời và lửa còn biểu hiện ở sự tương đồng và giao thoa trong tục thờ “mặt trời” và “thờ lửa”. Sự giao thoa giữa tục thờ mặt trời và thờ lửa cũng thể hiện trong lễ hội hoa đăng được tổ chức hàng năm ở Việt Nam, Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonexia với hàng nghìn quả cầu lửa tung lên trời hoặc thả xuống mặt nước; trong nghi lễ đốt pháo thăng thiên, lễ dâng ống lửa cho mặt trời được tiến hành trong dịp năm mới như là hình thức thực hành ý niệm dâng lửa cung cấp thêm ánh sáng cho mặt trời. Tục thờ lửa trên bàn thờ người Việt trong ba ngày tết (qua hình thức thắp nhang, đèn, nến) nhằm thể hiện ý niệm cầu mong ánh sáng đầy đủ trong năm phải chăng cũng là hình thức giao thoa của việc thờ lửa và thờ mặt trời [18]. Như vậy, bài viết đã chỉ ra mối liên hệ đồng nhất giữa lửa và mặt trời cũng như sự giao thoa giữa tục thờ lửa và thờ mặt trời, theo nguyên lý lửa là hình thức bắt chước mặt trời, tín ngưỡng thờ lửa trong chừng mực nào đó là một biểu hiện của tín ngưỡng thờ mặt trời. Có thể thấy, đã có một số công trình nghiên cứu về biểu tượng mặt trời ở cả góc độ văn hóa học, ngữ văn học song rõ ràng đây vẫn còn là một đề tài có thể được khai thác thêm trên nhiều phương diện, đặc biệt ở phương diện chuyển đổi các hướng nghĩa của biểu tượng. Vì vậy chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: Biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về một biểu tượng văn hóa vô cùng độc đáo. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu + Mục đích ngiên cứu: Khóa luận tập trung tìm hiểu sự hiện diện và ý nghĩa biểu đạt của biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam. Qua đó thấy được 5 sự phong phú, nét tinh tế trong quan niệm cũng như tư duy nghệ thuật của người bình dân. + Nhiệm vụ nghiên cứu: - Xác định nội hàm khái niệm biểu tượng, đặc điểm, ý nghĩa cũng như phân biệt “biểu tượng” và “hình tượng”; biểu tượng mặt trời. - Tìm hiểu ý nghĩa của biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa như trong tín ngưỡng dân gian, trong nghệ thuật tạo hình dân gian (hội họa, điêu khắc, kiến trúc...); Biểu tượng mặt trời trong văn học dân gian Việt Nam (thần thoại, ca dao). 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu + Đối tượng nghiên cứu: Biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam + Phạm vi nghiên cứu: - Về tư liệu: Khóa luận tiến hành khảo sát một số tư liệu liên quan đến các nội dung nghiên cứu, đặc biệt là để làm rõ biểu tượng mặt trời trong văn học dân gian, chúng tôi tập trung khảo sát hai thể loại: thần thoại, ca dao của dân tộc Kinh và một số dân tộc thiểu số như Mông, Thái, Xơ Đăng, Khơ Me, Chăm... - Về nội dung: Khóa luận tập trung làm rõ sự xuất hiện và ý nghĩa biểu đạt của biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa cũng như trong văn học dân gian Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu và triển khai các nội dung của khóa luận, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu như sau: - Phương pháp tiếp cận hệ thống - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp so sánh - Phương pháp liên ngành 6. Đóng góp của đề tài Đề tài Biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam có đóng góp trên 2 phương diện: 6 - Góp phần vào việc khám phá và giải mã một biểu tượng quan trọng trong đời sống văn hóa, văn học dân gian Việt Nam. - Khóa luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn hóa, văn học dân gian. 7. Bố cục Khóa luận ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính được chia thành 3 chương: Chương 1: Giới thuyết về biểu tượng và biểu tượng mặt trời Chương 2: Biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa Chương 3: Biểu tượng mặt trời trong văn học dân gian Việt Nam 7 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 GIỚI THUYẾT VỀ BIỂU TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG MẶT TRỜI 1.1. Biểu tượng – một loại mã văn hóa tiêu biểu 1.1.1. Khái niệm biểu tượng Nội dung trọng tâm mà đề tài hướng tới là biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam. Đề tài sẽ tập trung làm sáng tỏ ý nghĩa, vai trò của biểu tượng mặt trời trong đời sống văn hóa và văn học dân gian Việt Nam. Để làm sáng rõ được điều đó trước hết ta phải hiểu được khái niệm biểu tượng. Khởi nguyên, biểu tượng là một vật được cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay kim loại. Hai người mỗi người giữ một phần, chủ và khách, người cho vay và kẻ đi vay, hai kẻ hành hương, hai người sắp chia tay nhau lâu dài… Sau này, ráp hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối thân tình xưa, món nợ cũ, tình bạn ngày trước. Biểu tượng được dùng theo một nghĩa thực dụng: là một vật (đá, ngọc, sành, hay gỗ) được chia làm hai trong một giao ước như tín vật, khi gặp nhau chắp lại để làm tin. Biểu tượng chia ra và lại kết lại với nhau như vậy nên nó chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp. Điều này cũng có nghĩa mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ, ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ, vừa là nối kết những phần của nó đã bị vỡ ra. Trong Tiếng Anh biểu tượng được viết bằng chữ “symbol”. Thuật ngữ “symbol” được bắt nguồn từ Hi Lạp “Symbolon” có nghĩa là ký hiệu, lời nói, dấu hiệu, triệu chứng… Cũng có thuyết cho rằng symbol bắt nguồn từ động từ Hi Lạp “Symballo” có nghĩa là “ném vào một vị trí”, “liên kết”, “suy nghĩ về”… Biểu tượng là phương tiện phản ánh tư duy, hành vi, khát vọng, kể cả điều cấm kỵ, ám ảnh, sợ hãi. Biểu tượng thể hiện những góc khuất của tiềm thức và vô thức, cho nên biểu tượng bộc lộ rồi lủi trốn, càng tự phơi bầy sáng tỏ, nó lại càng tự giấu mình đi. 8 Trong Từ điển Tiếng Việt “biểu tượng” thuộc danh từ, là hình ảnh đặc trưng, còn theo chuyên môn biểu tượng là hình thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt. [10]. Định nghĩa này có nhiều điểm tương đồng với quan niệm trong Triết học Mác-Lênin. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, biểu tượng nằm trong giai đoạn đầu của quá trình nhận thức (đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng đến thực tiễn). Quá trình nhận thức cảm tính là “con người sử dụng giác quan, để tác động trực tiếp vào sự vật để nắm bắt sự vật ấy”. Sau hai hình thức “cảm giác” và “tri giác” con người thu được biểu tượng và lưu nó trong đầu óc mình. Như vậy biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất, phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh động [1]. Khi biểu tượng hình thành cũng là lúc con người có đầy đủ nhận thức về bản chất và dấu hiệu của các sự vật. Nó là hình ảnh có tính đặc trưng và tương đối hoàn thiện lưu lại trong bộ óc con người khi sự vật không còn tác động vào giác quan [1]. Và khi nhắc đến biểu tượng bộ óc con người sẽ có trường liên tưởng ngay đến một sự vật nào đó. Triển khai theo hướng mở rộng lĩnh vực của mình các nhà ngôn ngữ đã đưa ra cách hiểu về biểu tượng bằng sơ đồ sau: Ý nghĩa Tư duy Biểu tượng Biểu tượng được xem như kết quả của quá trình đi từ tư duy đến ý nghĩa. Con người có khi tư duy về các dấu hiệu bên ngoài và bản chất bên trong sự vật. Sau khi có nhận thức đầy đủ về sự vật con người sẽ khái quát ý nghĩa và nâng lên thành biểu tượng mang tính trừu tượng. Hoặc từ biểu tượng con người tư duy và tìm ra ý nghĩa của nó. 9 Vấn đề biểu tượng đã được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trên thực tế, có rất nhiều khái niệm biểu tượng với những nội hàm khác nhau. Có thể điểm qua một vài khái niệm như sau: Trong Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đưa ra khải niệm: Biểu tượng là khái niệm chỉ một giai đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt [7;tr.23] Jean Chevalier và Alain Gheerbrant trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới cho rằng: Tự bản chất của biểu tượng, nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái cực lại trong cùng một ý niệm. Nó giống như một mũi tên bay mà không bay đứng im mà biến ảo, hiển nhiên mà không nắm bắt được. Ta sẽ cần phải dùng các từ để gợi ra một hay nhiều ý nghĩa của một biểu tượng [14]. Bản chất của biểu tượng là khó xác định, sự hiểu biết về nó đương nhiên còn tuỳ thuộc vào sự từng trải và kinh nghiệm vốn có của mỗi cá nhân cũng như trình độ nhận thức của từng người. Không những thế, việc "giải mã" tìm ra ý nghĩa của biểu tượng cũng phải tính đến thói quen, phong tục, tập quán của các nền văn hoá trong từng cộng đồng dân tộc khác nhau. Điều bí Nn vẫn luôn còn nguyên vẹn và mơ hồ về mặt ý nghĩa nếu như biểu tượng chưa được "giải mã". Một biểu tượng thường có nhiều nghĩa và ngược lại một ý nghĩa lại có nhiều biểu tượng cùng biểu thị. Một sự vật, hiện tượng được gọi là biểu tượng khi nó đọng trong nó những ý nghĩa sâu sắc, nó được cộng đồng giai cấp, dân tộc, nhân loại thừa nhận, nó luôn hướng về một nghĩa cố định nào đó, nhưng đồng thời lại tiềm Nn khả năng mở ra những ý nghĩa khác trong sự cảm nhận của con người. Có thể nói, biểu tượng là những hình ảnh, sự vật cảm tính chứa đầy ý nghĩa và nó càng trở nên sinh động hơn trong đời sống văn hoá, trong cảm nhận của con người. Thực tế cho thấy, có nhiều định nghĩa khác nhau về biểu tượng. Một số ngành khoa học cũng hình thành những khái niệm riêng về biểu tượng như Triết học, Tâm lí học, Xã hội học… dù đứng trên những quan điểm và lập trường khác nhau nhưng chúng ta vẫn tìm được điểm chung của biểu tượng. Biểu tượng là 10 những hình ảnh, sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó được hình thành trong ý thức hay là những hình ảnh mới được hình thành trên cơ sở những hình ảnh có trước. Biểu tượng là hiện tượng chủ quan của đối tượng về hiện tượng khách quan đã được tri giác. Biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp bởi vì nó được hình thành nhờ sự phối hợp bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp. Chính vì thế, biểu tượng phản ánh được đặc trưng của các sự vật, hiện tượng. Ngày nay, biểu tượng đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như: Phân tâm học, Ngôn ngữ học, Xã hội học, Triết học và cả Văn học... 1.1.2. Ý nghĩa biểu tượng Trong cuốn Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa dân gian tác giả Nguyễn Thị Bích Hà có viết: Biểu tượng là cảm quan, nhận thức, được lắng đọng, chắt lọc trải qua bao biến cố thăng trầm vẫn không bị phai mờ mà ngược lại càng khắc sâu hơn vào tâm khảm con người. Biểu tượng bao giờ cũng có hai nửa, một nửa luôn ở bề nổi dễ nhìn thấy và dễ cảm giác được (biểu trưng), còn nửa kia chìm sâu khuất lấp (cái được biểu trưng). Người giải mã biểu tượng là người tìm ra và lí giải phần chìm kín đáo đó. Biểu tượng thường được hiểu rộng hơn ý nghĩa được gán cho nó. Giữa biểu tượng và cái được biểu trưng nhiều khi có mối quan hệ đứt nối, gián đoạn khiến người ta khó nhận ra, khó nắm bắt. Khi xa rời quy ước ban đầu đó, nó mở đường cho sự giải thích chủ quan nhưng phong phú và mới lạ [2;47]. Từ lâu, các nhà nghiên cứu phương Đông và phương Tây đều quan tâm đến biểu tượng và ý nghĩa biểu đạt của nó. Theo quan niệm của L.White, nhà nhân học văn hóa Mĩ thì Văn hóa là cơ chế của các hiện tượng, vật thể, hành động, tư tưởng, cảm xúc. Cơ chế này được tạo ra nhờ sử dụng các biểu tượng hoặc phụ thuộc vào các biểu tượng đó. White cũng quan niệm văn hóa chứ không phải xã hội là đặc điểm độc đáo của loài người. Trong đó hành vi biểu tượng là một trong những dấu 11 hiệu chính của văn hóa. Đó là năng lực “biểu tượng hóa”- một năng lực quy định cho các sự vật, hiện tượng nào đó những ý nghĩa mà nếu như chỉ bằng giác quan thông thường con người không thể nắm bắt được [2]. Như vậy, các nhà nghiên cứu đều tìm ra mối quan hệ mang tính liên thông, hệ quả giữa văn hóa và các biểu tượng văn hóa. Qua đó, ta có thể thấy rằng muốn tìm hiểu văn hóa, cách làm hữu ích nhất là tìm hiểu nó qua các biểu tượng văn hóa. 1.1.3. Đặc điểm của biểu tượng Biểu tượng có tính chất sống động, khó nắm bắt, khó xác định. Biểu tượng có mặt ở nhiều phương diện của đời sống, từ các hình tượng nghệ thuật (hội họa, âm nhạc, văn chương...) đến các mô thức ứng xử trong lối sống, phong tục, tập quán và cả trong những hoàn cảnh khó tri giác như chiêm mộng, huyền thoại... Biểu tượng có tính chất ổn định tương đối. Phải ổn định thì một thực thể hay một yếu tố nào đó mới trở thành biểu tượng. Bởi giữa cái biểu trưng và cái được biểu trưng phải ổn định, không thay đổi hoặc rất ít thay đổi trong một thời gian nào đó thì sự khám phá mới có ý nghĩa. Chẳng hạn, ta quan niệm “chim” là biểu tượng mặt trời. Như vậy, chim trên trống đồng, trên áo lông ngỗng... phải thống nhất với nhau. Hơn nữa, mỗi loại chim lại có tính biểu tượng riêng chẳng hạn như chim hải âu biểu tượng cho biển cả, chim công biểu tượng cho kẻ thích hình thức lòe loẹt, chim uyên ương biểu tượng cho tình yêu... Vì vậy, một mặt ta thừa nhận tính sống động khó nắm bắt của nó, nhưng một mặt ta cũng không thể không thừa nhận tính ổn định tương đối, trong thời gian dài và không gian rộng của biểu tượng. Biểu tượng có thể lí giải được nhờ những liên hệ, hỗ trợ với những yếu tố trong một trường liên tưởng. Một yếu tố đứng trong hệ thống, tính biểu tượng của nó sẽ nhờ hệ thống mà trở nên rõ ràng hơn. Ngược lại một yếu tố nào đó đứng độc lập sẽ rất khó xác định nó là biểu tượng hoặc không phải biểu tượng. Chẳng hạn, “con chim” mang biểu tượng mặt trời bởi tính bay cao ở phía trên, gần với mặt trời nhất. Khi con chim mang tính biểu tượng mặt trời nó khiến cho ta liên tưởng về cái diều, quả cầu, hình thức đánh đu... mô phỏng đường đi của mặt trời hoặc có mối quan hệ gần gũi với mặt trời, liên tưởng ấy rộng hơn xa hơn biểu tượng chim. 12 Biểu tượng luôn mang tính quan niệm. Nó thực sự không nằm ở bề mặt của các sự vật hiện tượng mà chìm sâu, lặn trong các lớp nghĩa của sự vật, hiện tượng đó. Quan niệm của con người ta về muôn vật như thế nào sẽ bộc lộ qua hệ thống các biểu tượng phản ánh quan niệm đó và qua hệ thống các biểu tượng của một cộng đồng dân tộc nào đó có thể hiểu được quan niệm của cộng đồng đó về vũ trụ, tự nhiên, con người... Chẳng hạn, người xưa quan niệm “trời tròn, đất vuông”. Quan niệm này chi phối tất cả các biểu tượng về trời và đất, từ tín ngưỡng đến văn hóa, đến văn chương, nghệ thuật. 1.1.4. Phân biệt “biểu tượng” và “hình tượng” “Biểu tượng” và “Hình tượng” đều có giá trị nhận thức cảm quan trong việc phản ánh thực tại, có phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ nhưng lại khác nhau: Sự tồn tại của hình tượng không bao giờ vượt qua giới hạn của hình thức biểu đạt cụ thể (luôn có phương tiện biểu hiện trọn vẹn nghĩa của hình tượng), còn sự tồn tại của biểu tượng lại vượt qua giới hạn của một sự biểu đạt, biểu hiện nghĩa (không một phương tiện nào có thể biểu đạt trọn vẹn ý nghĩa của biểu tượng) Hình tượng bao giờ cũng có tách riêng hoặc có xu hướng tách riêng ra khỏi một hệ thống nào đó để phù hợp với yêu cầu: tự do, hoàn thiện, độc đáo và khác biệt. Trong khi đó biểu tượng lại luôn nằm trong một hệ thống nhất định, không tách ra đứng độc lập trong nhận thức của con người. Điểm khác nhau lớn nhất giữa biểu tượng và hình tượng là biểu tượng có phạm vi lớn hơn hình tượng rất nhiều. Hình tượng có một số đặc tính của biểu tượng. Chính yếu tố này khiến cho biểu tượng trong văn học dân gian có khi chỉ có một nhưng lại diễn tả được nhiều hình tượng. Từ một biểu tượng chim chúng ta có thể thấy một số hình tượng được gửi gắm vào đó. Những hình tượng ấy thường có một số nét liên hệ và phụ thuộc vào biểu tượng. Chính sự liên hệ ấy làm cho hình tượng đưa ra có sức sống lâu bền và làm cho biểu tượng sống mãi trong lòng người đọc. 1.2. Biểu tượng mặt trời Mặt trời là một trong những biểu tượng văn hóa nên cũng đa nghĩa. Mỗi con người, mỗi quốc gia, trường phái lại có cách hiểu riêng về “biểu tượng mặt trời”. 13 Điều đó phụ thuộc vào ý nghĩa, vai trò của biểu tượng này trong đời sống sinh hoạt và tín ngưỡng của họ. Đầu tiên phải khẳng định rằng mặt trời được coi là “một trong những yếu tố cơ bản của vũ trụ”. Với trái đất của chúng ta mặt trời là yếu tố không thể thiếu để tạo ra sự sống cho muôn loài. Nhờ có ánh sáng của mặt trời mà các loài thực vật mới có thể quang hợp tạo ra chất dinh dưỡng nuôi chính mình. Nguồn ánh sáng này cũng là một yếu tố không thể thiếu đối với cơ thể con người và động vật. Buổi đầu khởi nguyên của loài người, khi con người chưa nhận thức được nhiều về thế giới tự nhiên, mặt trời và một số hiện tượng tự nhiên khác đã trở thành lực lượng thần thánh, siêu nhiên chi phối đời sống của họ. Họ coi mặt trời là một biểu tượng của thần linh, là người dẫn linh hồn. Mặt trời cung cấp nguồn ánh sáng. Nó gắn với chính đạo, cái đẹp và sự công bằng. Thế nên có “mặt trời chân lí” hay “mặt trời công lý”. Chẳng phải chúa Giêxu cũng hiện ra như một mặt trời tỏa sáng công lý. “Đại giáo sĩ của người Do Thái xưa kia đã mang trên ngực một cái đĩa bằng vàng biểu tượng của mặt trời thiêng liêng”. Không những thế, mặt trời còn được xem như là “trí tuệ của vũ trụ”, là trái tim, là trung khu của năng lực nhận thức của con người. Con người đã không ngần ngại gắn cho mặt trời mọi biểu tượng tốt đẹp nhất. Cái tâm của họ hướng về mặt trời với một lòng thành kính sâu sắc. Mặt trời còn được coi là đấng tối cao, biểu tượng của các bậc đế vương, “Mặt trời mọc không chỉ là biểu tượng trên quốc huy của nước Nhật mà còn chính là tên gọi của nước này - Nihon”. “Ông tổ của triều đại Angkor có tên là Bâlâditya cũng có nghĩa là mặt trời mọc”. Mặt trời - biểu tượng của sự sống và sự bất tử. Sự luân phiên sống - chết – tái sinh được tượng trưng bởi chu kỳ mặt trời, chu kỳ ngày. Những vị tiên Trung Hoa hấp thụ tinh chất của mặt trời, cũng như những hạt hướng dương mà sự tương hợp với biểu tượng mặt trời là hiển nhiên. Mặt trời cũng là biểu tượng của người cha. Ở các dân tộc có huyền thoại về thiên thể thì đều cho rằng mặt trời là biểu tượng của người cha. Trong các tranh của trẻ con và trong những giấc mơ của người lớn cũng là như vậy. Trong chiêm tinh 14 học: “Mặt trời ở đây được xem như là biểu tượng của bản nguyên giống đực và của nguyên lý quyền lực mà người cha là hiện thân cá nhân đầu tiên”. Như vậy, mặt trời đã trở thành những gì cao quý nhất, nơi uy quyền được thể hiện, chi phối mọi người. Mặt trời không còn mang ý nghĩa thực nữa mà trở thành một phần tâm linh - Người dẫn linh hồn cho con người. Mặt trời gắn với thần linh với các bậc đế vương. Mặt trời cũng gắn với sự sống, sự bất tử và là biểu tượng của người cha. Nhìn từ góc độ văn hóa, con chim được đồng nhất với mặt trời, điều này đã được lí giải một cách khá thuyết phục: chim là thế giới bên trên và là biểu tượng của mặt trời vì mặt trời ở trên cao gần với chim nên cùng họ với chim và chim bay lên thì chim cũng là trời, là mặt trời. Từ một con vật có cánh bay ở trên cao, tác giả dân gian đã nâng lên thành biểu tượng mặt trời... Tượng trưng cho mặt trời con chim trở thành đại diện cho thế giới trời - thế giới bên trên cái thế giới con người chỉ có thể ngược nhìn mà không thể với tới [8]. Còn rất nhiều quan niệm nữa về biểu tượng mặt trời song điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là cũng giống như “biểu tượng”, “biểu tượng mặt trời” là khái niệm đa nghĩa, luôn luôn vận động. Mỗi con người, mỗi bộ phận cư dân và lĩnh vực xã hội từ góc độ và tri thức của mình sẽ có cái nhìn khác nhau về biểu tượng mặt trời. Theo thời gian những giá trị của biểu tượng này sẽ tự thân biến đổi cho phù hợp với tư duy con người và thời đại. Tiểu kết: Trong chương này, khóa luận đã đề cập tới những vấn đề lí luận chung của đề tài. Qua việc chỉ ra và làm rõ những khái niệm về biểu tượng của nhiều nhà khoa học trong nước và thế giới; ý nghĩa của biểu tượng; điểm khác nhau giữa hình tượng và biểu tượng cũng được làm sáng tỏ. Cùng với đó, là những hiểu biết về biểu tượng mặt trời đã được chỉ ra và làm sáng rõ. Kết quả của chương này sẽ làm cơ sở, tiền đề để triển khai và phân tích các chương tiếp theo. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan