ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM HỮU VIỆT
Bản đồ các thổ ngữ tiếng Nghi Lộc - tỉnh
Nghệ An
LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Người hướng dẫn: GS.TS. ĐOÀN THIỆN THUẬT
HÀ NỘI - 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM HỮU VIỆT
Bản đồ các thổ ngữ tiếng Nghi Lộc - tỉnh
Nghệ An
LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Người hướng dẫn: GS.TS. ĐOÀN THIỆN THUẬT
HÀ NỘI - 2004
MỤC LỤC
Trang
1
Mở đầu
Chƣơng 1
A.
Ngôn ngữ học địa lý và việc điều tra các thổ ngữ Nghi Lộc
Ngôn ngữ học địa lý
8
8
1.
2.
Định nghĩa
Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Ngôn ngữ học
8
8
3.
địa lý
Những nguyên tắc chính và phương pháp xây dựng Atlas trong
Ngôn ngữ học địa lý
14
B.
1.
Điều tra các thổ ngữ Nghi Lộc
Nguồn tư liệu và đối tượng nghiên cứu
25
25
2.
Địa điểm điều tra
26
3.
Phương pháp điều tra
29
4.
Kết quả điều tra thổ ngữ Nghi Lộc
31
Tiếng Nghi Lộc và các thổ ngữ đang tồn tại
Lịch sử địa lý và cư dân Nghi Lộc
Tiếng nói Nghi Lộc
Giọng Nghi Lộc và các thổ ngữ Nghi Lộc
34
1.
Khái niệm giọng Nghi Lộc
38
2.
II.
1.
2.
Các thổ ngữ Nghi Lộc
Tiếng Nghi Ân
Dẫn nhập
Miêu tả
38
40
40
42
2.1.
Thanh điệu
42
2.2.
Âm đầu
47
2.3.
2.3.1.
Phần vần
Âm đệm
53
53
2.3.2.
2.3.3.
Âm chính
Âm cuối
54
56
Tập bản đồ
58
Chƣơng 2:
A.
B.
I.
Chương 3:
34
38
38
Kết luận
84
Tài liệu tham khảo
87
Phụ lục
94
2
MỞ ĐẦU
1. Trong thời đại phát triển mạnh về kinh tế, bùng nổ công nghệ thông
tin như hiện nay; bên cạnh hoạt động viết, hoạt động nói ngày càng trở nên
quan trọng hơn. Đối với tiếng Việt của chúng ta cũng không nằm ngoài quy
luật ấy; hoạt động nói cũng đang ngày càng trở nên quan trọng hơn, mà trong
hoạt động nói không thể không chú ý đến cách phát âm của người Việt. Có thể
nói một cách tổng thể rằng, cho tới thời điểm này, hoạt động viết trong tiếng
Việt hầu như được thống nhất trên phạm vi toàn quốc; nhưng trong hoạt động
phát âm thì vô cùng phức tạp. Ở mỗi địa phương, người dân phát âm theo cách
riêng của mình. Đó là thứ tiếng nói mẹ để nơi mỗi người được sinh ra và gắn
bó với nó cho tới khi không tồn tại trên cõi đời này. Thứ tiếng nói ấy, lâu nay,
các nhà Ngôn ngữ học thường gọi chung là “giọng địa phương” (Hoàng Cao
Cương [17]), hay “tiếng địa phương” (Hoàng Thị Châu [11]).
Cũng giống như các ngôn ngữ khác trên thế giới, tiếng Việt có nhiều
phương ngữ khác nhau. Các phương ngữ tiếng Việt vừa có cái chung thống
nhất, vừa có cái riêng bộ phận khác biệt về các mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ
pháp. Cái chung thống nhất về các mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp đảm bảo
cho người Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước có thể nói, nghe và hiểu
nhau một cách dễ dàng. Nhưng cái riêng bộ phận lại tạo nên diện mạo riêng của
mỗi địa phương. Chúng ta vẫn thường nghe thấy người Việt phân biệt một
cách dân dã rằng: giọng Nam, giọng Bắc hay tiếng Nghệ, ….
2. Các nhà phương ngữ học tiếng Việt, tuy chưa thống nhất tuyệt đối
nhưng ý kiến phần đông của các nhà nghiên cứu đều cho rằng tiếng Việt có 3
vùng phương ngữ lớn. Đó là phương ngữ Bắc (Bắc Bộ), phương ngữ Trung
(Bắc Trung Bộ) và phương ngữ Nam (Nam Trung Bộ, Nam Bộ). Trong mỗi
vùng phương ngữ lớn lại bao gồm nhiều vùng phương ngữ nhỏ. Chẳng hạn như
phương ngữ Trung bao gồm 3 tiểu vùng phương ngữ: phương ngữ Thanh Hoá,
phương ngữ Nghệ Tĩnh và phương ngữ Bình Trị Thiên. Cả 3 vùng phương ngữ
lớn này cho tới nay đã được khảo sát nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau.
3
Có thể phân chia các hướng nghiên cứu phương ngữ tiếng Việt theo các bình
diện dưới đây:
a. Nghiên cứu phương ngữ liên quan đến lịch sử tiếng Việt, đến việc
phân chia và xếp tiếng Việt vào họ (ngữ hệ) nào, các tác giả tiêu biểu như:
Maspero [55], Haudricourt A.G [39], Phạm Đức Dương [26], Trần Trí Dõi
[22], …
b. Nghiên cứu liên quan đến bình diện ngữ âm của một số vùng lãnh thổ
như, các tác giả tiêu biểu như: Cao Xuân Hạo [38], M. Ferlus [30], võ Xuân
Trang [79], Huỳnh Công Tín [76], …
c. Nghiên cứu liên quan đến bình diện từ vừng có các tác giả tiêu biểu
như: Nguyễn Quang Hồng [43], Hồng Dân [18], Nguyễn Quý Trọng [80], Trần
Thị Ngọc Lan [49] - [50], Hoàng Trọng Canh [7], …. Đặc biệt từ vựng địa
phương cũng được miêu tả qua các từ điển của Nguyễn Văn Ái và các cộng sự
[3], Nguyễn Nhã Bản và các cộng sự [4], …
d. Nghiên cứu phương ngữ gắn liền với yêu cầu chuẩn hoá vào đời sống
xã hội có các nhà nghiên cứu như: Phạm Văn Hảo [34], Nguyễn Quang Hồng
[42] - [43], Vũ Bá Hùng [47], Võ Xuân Trang [78], …
3. Ở cấp độ tiểu vùng, phương ngữ Nghệ Tĩnh đã được nghiên cứu từ rất
sớm- từ đầu thế kỷ XX- trong các công trình của L. Cadìere (1902 - 1911) –
“Phương ngữ Bắc Trung Bộ …”, H. Maspero (1912). Trong công trình “Nghiên
cứu lịch sử ngữ âm tiếng Việt, các phụ âm đầu”, H. Maspéro đã dẫn tư liệu các
thổ ngữ Ca Xá, Nho Lâm (Diễn Châu), Yên Dũng (Hưng Nguyên) thuộc tỉnh
Nghệ An. Sau đó nhiều tư liệu trong các thổ ngữ Nghệ Tĩnh được dùng làm cứ
liệu cho việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt và phương ngữ tiếng Việt. Đáng chú
ý là các công trình của các tác giả như M. B. Emeneau [90], L.C Thompson
[98], M. Ferlus [91], Hoàng Thị Châu [11], Nguyễn Tài Cẩn [9], …, và phương
ngữ Nghệ Tĩnh cũng là đối tượng nghiên cứu của một số từ điển tiếng địa
phương của các tác giả Nguyễn Văn Ái [3], Nguyễn Nhã Bản [4] …, một số
4
luận án tiến sĩ của các tác giả Hoàng Trọng Canh [7], Nguyễn Văn Nguyên
[63], …
Thổ ngữ Nghi Lộc có đặc điểm và tính chất rất đặc biệt trong phương
ngữ Nghệ Tĩnh cũng như trong cả khu vực Bắc Trung Bộ. Tính chất đặc biệt
của giọng Nghi Lộc đã được phản ánh qua nhiều giai thoại dân gian cũng như
bác học. Giọng Nghi Lộc đã thu hút được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của
các nhà Việt ngữ học như: Bùi Văn Nguyên [59], Hoàng Thị Châu [11], Võ
Xuân Quế [64], Trần Trí Dõi [24],…. Giọng Nghi Lộc cùng là đối tượng
nghiên cứu của một số luận văn tốt nghiệp Đại học của sinh viên các trường
Đại học KHXH & NV, Đại học Sư phạm Vinh như: Lê Thuý Diện [19], Lê Thị
Thanh Nga [56], …
Các nghiên cứu về phương ngữ Nghệ Tĩnh nói chung và thổ ngữ Nghi
Lộc nói riêng thì tương đối nhiều và cũng đem lại nhiều đóng góp cho Ngôn
ngữ học . Những kết quả đó có thể được hệ thống lại như sau: đó là những cứ
liêu về lịch sử tiếng Việt, những đường đồng ngữ ở những mức độ khác nhau
xét trong hệ thống phương ngữ tiếng Việt, những cái nhìn chung nhất về một
thổ ngữ trong vùng, hệ thống thanh điệu hay từ vụng của vùng thổ ngữ hay
phương ngữ được xét đến. Tuy nhiên do xuất phát điểm phương pháp nghiên
cứu khác nhau, vì những mục đích khác nhau nên thổ ngữ Nghi Lộc nói riêng,
phương ngữ Nghệ Tĩnh nói chung vẫn còn những vấn đề bỏ ngỏ. Chúng ta đều
biết rằng tiếng Nghi Lộc rất đặc biệt, sự khác biệt ở đây chủ yếu là về mặt ngữ
âm; nhưng sự khác biệt ấy thể hiện ở vị trí cụ thể nào? trên địa điểm nào?.
Trong các cuốn từ điển địa phương Nghệ Tĩnh hiện có, các tác giả thu thập
được không ít các từ giống nhau về nghĩa nhưng lại khác nhau hoàn toàn về vỏ
ngữ âm, lại có cả những từ là những từ biến âm từ từ phổ thông; liệu trong địa
bàn thổ ngữ Nghi Lộc có phải tất cả các xã đều người dân đều dùng chung một
biến thể theo những quy luật nhất định? trên từng địa điểm ra sao? … Những
câu hỏi như vậy hiện vẫn chưa có lời giải đáp. Nói một cách khác đi, cho tới
nay trong Việt ngữ học chúng ta mới chỉ dừng ở cách tiếp cận nghiên cứu
5
phương ngữ (dialectology) để nghiên cứu phương ngữ, chưa áp dụng cách tiếp
cận nghiên cứu của Ngôn ngữ học địa lý (dialect geography) đối với các
phương ngữ. Kết quả là đến thời điểm này chúng ta vẫn chưa có một Atlas
tiếng Việt.
4. Trước thực trạng như vậy, nhiều vấn đề đặt ra khiến chúng ta cần phải
suy nghĩ và cần phải giải quyết ngay. Các nghiên cứu xưa nay đều thừa nhận
rằng Bắc Trung Bộ nói chung, Nghi Lộc nói riêng là nơi lưu giữ nhiều vết tích
nhất về tiếng Việt cổ đại. Không ít những từ cổ được tìm thấy ở vùng này,
nhưng trong thời đại phương tiện thông tin truyền thông phát triển như vũ bão
hiện nay, khoảng cách giữa các vùng các miền bị phá vỡ; thế hệ trẻ đến lớp
đến trường được giảng dạy bằng tiếng phổ thông; kết quả là đường ranh giới
giữa các phương ngữ dần dần được xoá bỏ. Một tương lai không xa chúng có
nguy cơ mất hẳn.
Chúng tôi mạnh dạn thực hiện luận án “Bản đồ các thổ ngữ tiếng Nghi
Lộc, tỉnh Nghệ An” với một hy vọng nhỏ là bước đầu thử xây dựng một Atlas
thổ ngữ Nghi Lộc. Ngay từ tên của đề tài đã nêu lên đối tượng nghiên cứu: đó
là các thổ ngữ Nghi Lộc; tuy nhiên không phải chúng tôi xây dựng Atlas của tất
cả các từ trong tiếng Nghi Lộc, mà chúng tôi chỉ đặt ra cho mình nhiệm vụ là
thể hiện những từ đơn tiết khác nhau biểu đạt cùng một khái niệm (tức là chỉ
biểu diễn trên bản đồ những từ khác nhau về mặt từ vựng diễn ra ít nhất là trên
2 địa điểm điều tra). Chúng tôi muốn thể nghiệm một phương pháp nghiên cứu
nghiên cứu mới và hy vọng sẽ đặt ra được một số vấn đề bằng cách trình bày
dữ liệu trên bản đồ. Các nhà Ngôn ngữ học căn cứ vào đây có thể giải thích và
tìm ra nguyên nhân của những sự khác biệt, bàn luận thêm về tiếng Nghi Lộc
và các thổ ngữ Nghi Lộc trong phạm vi có thể.
Tư liệu của chúng tôi là khoảng gần 600 từ đơn tiết được chúng tôi sưu
tập và chắt lọc trong các cuốn từ điển tiếng địa phương Nghệ Tĩnh của Nguyễn
Văn Ái và tập thể các cộng sự [3], Nguyễn Nhã Bản và các cộng sự khác [4],
6
…, các luận án tiến sĩ của Hoàng Trọng Canh [7], …, luận văn tốt nghiệp Đại
học của Lê Thuý Diện [19], ….
Về phương pháp nghiên cứu; chúng tôi dùng phương pháp của Ngôn ngữ
học địa lý. Bước 1 là thu thập tư liệu. Chúng tôi phải điều tra điền dã, vừa ghi
âm trên băng từ, vừa ghi bằng bút với ký hiệu phiên âm quốc tế. Để đảm bảo
việc lấy thông tin sao cho khách quan chúng tôi tiến hành phỏng vấn thông qua
những câu hỏi tình huống, vẽ các đối tượng quy chiếu, … tiến hành một số
cuộc ghi âm tại những nơi đông người như chợ, đám đông hai bên đường,
…Bước 2 là phân tích tư liệu và thể hiện trên bản đồ. Cụ thể về cách thức tiến
hành, áp dụng cách tiếp cận địa lý phương ngữ, xây dựng Atlas như thế nào
chúng tôi sẽ trình bày cụ thể trong chương I.
5.Việc thành lập tập bản đồ thổ ngữ và phương ngữ Nghi Lộc nói riêng,
của toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam là một công việc lớn, cần sự tham gia của
nhiều nhà nghiên cứu với một quy mô rộng và công việc này cũng đòi hỏi
nhiều thời gian. Mặc dù chúng tôi đã cố gắng rất nhiều trong việc thực hiện
luận án này, nhưng do nhiều hạn chế như điều kiện sức khoẻ, thời gian,
…chúng tôi không thể thực hiện luận án này một cách tuyệt đối như mong
muốn; nhẽ ra phải đi điều tra tất cả các xã trong địa bàn huyện Nghi Lộc hay
chí ít cũng phải nhiều hơn 9 điểm điều tra mà chúng tôi đã thực hiện. Chúng tôi
tạm thời dừng việc điều tra ở con số 9 nhằm mục đích thử nghiệm một phương
pháp nghiên cứu, hướng nghiên cứu mới – tức là Ngôn ngữ học địa lý. Công
trình của chúng tôi có tính chất mở đường thăm dò để rút kinh nghiệm cho
những công trình lớn tiếp theo. Về mặt thực tiễn, luận án này hy vọng cung cấp
được những tư liệu quý cho việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, cho việc chuẩn
hoá ngôn ngữ và việc dạy học tiếng Việt.
6. Bố cục của luận án: ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án có 3
chương:
- Chương I: Ngôn ngữ học địa lý và việc điều tra các thổ ngữ Nghi
Lộc.
7
- Chương II: Tiếng Nghi Lộc và các thổ ngữ đang tồn tại (Trong
chương này chúng tôi trình bày một số nhận xét về tiếng Nghi Lộc và miêu tả
một thổ ngữ Nghi Lộc điển hình – tiếng Nghi Ân).
- Chương III: Tập bản đồ (Trong chương này chúng tôi trình bày 1 bản
đồ về các xã điều tra, 21 atlas thổ ngữ Nghi Lộc mà chúng tôi xây dựng, và đôi
điều liên quan đến các bản đồ này).
Ngoài ra luận văn của chúng tôi còn có: Danh sách các tài liệu tham
khảo và phần Phụ lục (Phần này gồm những thư mục sau: (i) Danh sách tư
liệu viên, (ii) Bản đồ tham khảo (gồm 16 atlas ngôn ngữ tiếng Anh khác nhau
do các nhà Ngôn ngữ học người Anh xây dựng được chúng tôi lựa chọn từ tài
liệu “Studies in linguistics geography”[93], (iii) Bảng từ điều tra, và (iv) Bảng
kết quả điều tra (là những biến thể khác nhau tại 9 xã điều tra được chúng tôi
ghi lại bằng ký hiệu phiên âm quốc tế)).
8
Chƣơng I:
NGÔN NGỮ HỌC ĐỊA LÝ VÀ VIỆC ĐIỀU TRA
CÁC THỔ NGỮ NGHI LỘC
A. NGÔN NGỮ HỌC ĐỊA LÝ
1. Định nghĩa:
Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ học [87] định nghĩa về Ngôn ngữ
học địa lý: “Bộ phận Ngôn ngữ học nghiên cứu sự phổ biến về lãnh thổ của các
hiện tượng ngôn ngữ. Ngôn ngữ học địa lý được tách ra từ phương ngữ học vào
cuối thế kỷ XIX. Sự tích góp các cứ liệu về sự tồn tại của những khác biệt về
phương ngữ trong các ngôn ngữ khác nhau là cơ sở để xác định sự trùng nhau
hay không trùng nhau về ranh giới sự phổ biến của những khác biệt này trong
một vùng lãnh thổ phân bố ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ học địa lý có liên hệ
chặt chẽ với Ngôn ngữ học khu vực. Sự xuất hiện và phát triển của Ngôn ngữ
học địa lý có liên quan đến việc vẽ bản đồ về những khác biệt phương ngữ của
các ngôn ngữ và tạo lập các atlas phương ngữ …”
2. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Ngôn ngữ học địa lý
Trước thế kỷ XIX, Ngôn ngữ học Âu châu chủ yếu tập trung nghiên cứu
nhiều các tử ngữ như tiếng Latin, tiếng Hy Lạp cổ đại và cũng chú ý nhiều đến
các dạng thức chuẩn của những ngôn ngữ hiện đại như tiếng Anh, Pháp và
Đức. Một số các nhà Ngôn ngữ học có chung quan điểm rằng các hình thức
9
khác nhau mang tính khu vực phi chuẩn là không có gì cả ngoài các hình thức
chuẩn bị làm giảm đặc tính và không đáng để nghiên cứu. Tuy nhiên ở thế kỷ
đó cũng đã diễn ra những biến đổi lớn trong lịch sử Ngôn ngữ học, đó là một số
học giả bắt đầu nhận thức ra rằng những hình thức ngôn ngữ mang tính khu vực
cũng đáng để nghiên cứu như hình thức ngôn ngữ chuẩn, và họ chuyển hướng
chú ý tới việc xây dựng những miêu tả ngôn ngữ chính đáng của các biến thể
ngôn ngữ mang tính khu vực.
Dĩ nhiên một trong những cách làm ban đầu này là viết những cuốn sách về
ngữ pháp và những cuốn từ điển của các phương ngữ khu vực, và người tiên
phong trong phương pháp này là Johannes Schmeller với việc xuất bản cuốn
ngữ pháp phương ngữ Bavarian - nước Đức của ông năm 1821. Kiểu công trình
giá trị này vẫn tiếp tục cùng chúng ta, chẳng hạn như cuốn từ điển Walloon1 (R.
L Trash, xuất bản năm 1994). Đó là chuyện của ngôn ngữ khu vực (ngữ vực
học); tuy nhiên ngữ vực học ra đời kéo theo sự ra đời và phát triển của Ngôn
ngữ học địa lý.
Khoảng giữa thế kỷ XIX, một số học giả đã bắt đầu nghiên cứu vấn đề này.
Chẳng hạn như nhà Ngôn ngữ học không chuyên – Hoàng tử L. L Bonaparte
(con trai của Napoleon) đã thu thập những tư liệu các phương ngữ xứ Basque
và năm 1869 ông xuất bản một bản đồ phân loại ngôn ngữ thành các phương
ngữ khu vực. Tuy nhiên những nỗ lực ban đầu này còn mang tính tự nhiên và
khá đơn giản; và phải mất vài thập kỷ sau, lý thuyết Ngôn ngữ học địa lý mới
được nghiên cứu chính thống và trở thành một phương pháp khoa học đáng tin.
Phương ngữ địa lý bao gồm một tập hợp đầy đủ các biến thể khu vực được
dùng tại những thời điểm khác nhau trải dài trên một khu vực rộng lớn. Thông
thường, vì các biến thể ngôn ngữ là hầu như không có giới hạn nên các nhà
điều tra phải quyết định trước liệu mục từ nào họ chú ý và thu thập thông tin về
cái gì. Họ có thể quyết định hỏi tên địa phương của cái nhà - nơi nhốt bò vào
ban đêm hay tên của mảnh gỗ được nhặt lên bằng tay..., họ cũng có thể quan
1
Những biến thể tiếng địa phương ở miền Nam nước Bỉ
10
tâm đến những nguyên âm đặc biệt được dùng trong những từ đặc biệt hay
quan tâm đến những hình thức ngữ pháp đặc biệt của động từ hay danh từ.
Những thông tin đó phải được thu thập bằng cách phỏng vấn người dân địa
phương và việc này yêu cầu những kỹ thuật thiết kế câu hỏi tinh vi, cẩn thận vì
người dân địa phương thường hay lúng túng khi bị người lạ hỏi và có thể dẫn
đến xu hướng cung cấp những gì mà họ hy vọng là những câu trả lời “được gọi
là đúng” hơn là những gì họ thường nói.
Nhà nghiên cứu người Đức – Georg Wenker đã giới thiệu phương pháp
bảng trắc nghiệm: ông gửi bản trắc nghiệm tới các thầy
cô giáo ở gần 50.000 địa điểm trong nước Đức để hỏi về
những câu tiếng địa phương tương đương với câu chuẩn
tiếng Đức. Việc làm này của G. Wenker có thuận lợi là
thu được nguồn tư liệu khổng lồ (trong thực tế, kết quả
của Wenker nhiều đến mức ông vẫn chưa công bố được
toàn bộ); nhưng bất lợi là các thầy cô giáo ở các địa
phương không được tập huấn hướng dẫn nên kết quả trả lời là mâu thuẫn nhau
khá cao và có lẽ không phải lúc nào cũng tin tưởng được.
Rút ra được những nhược điểm trong phương pháp của G. Wenker, nhà
Ngôn ngữ học người Pháp, Jules Gilliéron, thử nghiệm một kỹ thuật thu thập
dữ liệu khác. Ông đào tạo chuyên gia có tên là Edmond Edmont những kỹ thuật
lấy thông tin bằng cách phỏng vấn cá nhân. Edmont đã chứng tỏ mình là nhà
điều tra đáng tin tưởng và có tài năng; sau đó ông mất 4 năm (từ 1896 đến
1900) đạp xe vòng quanh nước Pháp, ông dừng lại ở tổng cộng 639 điểm để
làm quen với người dân địa phương và tiến hành phỏng vấn câu hỏi của ông.
Sau đó ông cố gắng so sánh đối chiếu với kết quả điều tra của Edmont và công
bố toàn bộ kết quả điều tra được vào năm 1910. Kể từ thời điểm này, ngôn ngữ
học địa lý bước sang một giai đoạn phát triển mới, quỹ đạo mới. Vấn đề đặt ra
tại thời điểm đó là: các nhà nghiên cứu đã công bố các kết quả như thế nào?
Những tư liệu ấy có thể chỉ được công bố dưới hình thức những bản danh sách,
11
nhưng các nhà địa lý phương ngữ ưa thích một kiểu trình bày kết quả khác, vất
vả và tốn kém hơn nhưng lại rõ ràng hơn: đó là chuẩn bị vẽ các bản đồ phương
ngữ. Một bản đồ phương ngữ đơn lập biểu diễn những biến thể khu vực được
tìm thấy đối với từ hay thay đổi – những từ địa phương kiểu như “dragonfly”
(con chuồn chuồn) hay “headache” (chứng đau đầu), những cách phát âm khác
nhau của những từ “arm” (cánh tay) hay “girl” (cô gái), …Mỗi địa điểm điều
tra trên bản đồ được đánh dấu bằng một ký hiệu thể hiện hình thức đặc biệt của
từ đó; những địa điểm được đánh dấu cùng ký hiệu là những biến thể có hình
thức giống nhau. Nếu đường biên giới giữa 2 hình thức họ hàng với nhau trở
nên rõ nét hơn thì trên bản đồ hình thành một đường đồng ngữ “isogloss”.
Thông thường nhất, những kết quả nghiên cứu như vậy được thể hiên trên một
loạt bản đồ phương ngữ – ta gọi là Atlas phương ngữ.
Ngôn ngữ học địa lý phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu và Mỹ vào
những thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX. Hàng loạt những Atlas phương ngữ xuất
hiện ở Pháp, Đức, Anh và miền Tây Đông nước Mỹ. Những tác phẩm tiêu biểu
có thể kể đến như: Allen, H. B “The linguistic Atlas of the upper Midwest”
(University of Minnesota Press, Minneapolis, 1973-6); Alvar López, M “Atlas
linguistico y etngráfico de Andulucia” (Universidad de Granada, Granada,
1961); Francis, W. N. Review of H. Orton and N. Wright “A word geography
of England in American speech” (1978); Kolb, E “Phonological atlas of the
Northern region” (Francke, Bern, 1966); Kolfb, E, B. Glauser, W. Elmer, R.
Stamm “Atlas of English sound” (Francke, Bern, 1979); Kurath, H “Linguistics
atlas of new England” (Brown University Press. Providence, 1939-1943);
Orton, H and S. Sanderson and Widdowson “The linguistic atlas of England”
(Croom Helm, London, 1978); Trudgill, P “Linguistic change and diffusion:
Description and explanation in sociolinguistic dialect geography” (Language
in society, vol.3, 1974); … . Dưới đây là một số Atlas phương ngữ đã được
nghiên cứu và công bố ở châu Âu, châu My. Hình 1 là bản đồ thể hiện quá khứ
12
của động từ “dive” ở phía Tây - Đông nước Mỹ. Hình 2: Quá khứ của động từ
“seen” ở nước Anh. Hình 3: Bản đồ đồng ngữ tuyến ở nước Pháp, …
Như vậy xét về mặt lịch sử phát triển, ở châu Âu và nước Mỹ, Ngôn ngữ
học địa lý đã hình thành và phát triển khoảng gần 1.5 thế kỷ. Ở Việt Nam,
Ngôn ngữ học địa lý có từ bao giờ? Dường như câu hỏi này vẫn chưa chính
thức được đặt ra,
13
Hình 11
mà nếu có thì một câu hỏi ngược lại phải được trả lời trước khi đặt câu hỏi trên.
Đó là những bài viết nào, tác phẩm nào nghiên cứu về ngôn ngữ ở Việt Nam
được coi là thuộc về Ngôn ngữ học địa lý. Quả thật là khá nan giải để trả lời
chính xác câu hỏi này. Về tiếng Việt – tiếng phổ thông thì có
1
The past tense of dive in the eastern USA
14
Hình 22
lẽ chưa, về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số thì đã có một Atlas được thực hiện
vào những năm 1967 – 1969 của ngành Ngôn ngữ , khoa Ngữ văn của Trường
2
The past tense of see in England
15
Đại học Tổng hợp. Đó là hai tập bản đồ về các tiếng địa phương Tày – Nùng
dưới sự chỉ đạo khoa học của Giáo sư Đoàn Thiện Thuật.
Hình 33
3. Những nguyên tắc chính và phƣơng pháp xây dựng Atlas trong
Ngôn ngữ học địa lý:
3.1. Cũng giống với bất kỳ một môn khoa học nào nói chung, bất kỳ một
phân ngành ngôn ngữ học nào nói riêng, khi ra đời và tồn tại phát triển đều phải
3
An isogloss bundle in France
16
có nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu riêng. Ngôn ngữ học địa lý cũng
không nằm ngoài quy luật ấy – nó cũng phải có nguyên tắc và phương pháp
nghiên cứu riêng. Phái sinh từ phương ngữ học và ngữ vực học, Ngôn ngữ học
địa lý xét ở một góc độ nào đó cũng sử dụng các phương pháp cơ bản của hai
phân ngành Ngôn ngữ học nói trên: phương pháp nghiên cứu đồng đại, phương
pháp điều tra điền dã thông qua phỏng vấn cá nhân. Tuy nhiên mỗi phân ngành
xuất phát từ những mục đích nghiên cứu khác nhau:
- Phương ngữ học là ngành Ngôn ngữ học nghiên cứu các phương ngữ, thổ
ngữ của một ngôn ngữ nào đó. “… Như vậy phương ngữ học không phải chỉ
nghiên cứu một mặt nào đó của một phương ngữ (mặt ngữ âm chẳng hạn) mà
nghiên cứu mọi mặt (ngữ âm, từ vựng hay ngữ pháp) của một phương ngữ hệt
như người ta nghiên cứu một ngôn ngữ, chẳng hạn như tiếng Việt” (Từ điển
giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ học) [87].
- Ngôn ngữ học khu vực (Ngữ vực học) là ngành Ngôn ngữ học nghiên cứu
việc phân chia vùng lãnh thổ của một ngôn ngữ hay một nhóm các ngôn ngữ
nào đó.
- Ngôn ngữ học địa lý xuất hiện và phát triển với mục đích cuối cùng là vẽ
bản đồ về những khác biệt phương ngữ của các ngôn ngữ và tạo lập các Atlas
phương ngữ.
3.2. Công việc đầu tiên mà các nhà Ngôn ngữ học địa lý phải làm là phải
xác định xem mình định vẽ cái gì? (thường thì từ trước đến nay các nhà Ngôn
ngữ học châu Âu và Mỹ hay vẽ các bản đồ sự khác biệt về ngữ âm, từ vựng và
ngữ pháp) của các phương ngữ. Khi đã xác định được đối tượng thực hiện, các
nhà nghiên cứu tiến hành điều tra. Phương pháp điều tra của Ngôn ngữ học địa
lý cũng gần giống với phương pháp điều tra của phương ngữ học. Những
phương pháp mà các nhà phương ngữ học đang áp đụng hiện nay là phương
pháp xuất hiện vào thập niên 60 và 70 của thế kỷ XX ở nước Anh, đó là tập
trung vào miểu tả tiếng nói của tầng lớp xã hội già ở các vùng nông thôn. Đối
với Ngôn ngữ học địa lý việc điều tra phải được tiến hành với một quy mô lớn
17
để thu thập được những nguồn tư liệu đầy đủ. Những tư liệu điều tra cuối cùng
được thể thiện bằng những bản đồ theo những hình thức nhất định. Thưở ban
đầu cũng như cho tới trước những thập niên 60, 70 thế kỷ XX, kỹ thuật vẽ bản
đồ thường không mang tính đồng bộ cao; các nhà nghiên cứu thường khó khăn
trong việc lựa chọn hệ thống điểm điều tra và thường thể hiện một cách tuỳ tiện
trên bản đồ. Một đặc điểm khác là các nhà nghiên cứu khi đó thường có xu
hướng là tiến hành các cuộc nghiên cứu một cách độc lập và thiếu sự tham
khảo của những nhà nghiên cứu khác. Cho đến ngày nay thì những thiếu sót
của các nhà nghiên cứu trước đã được khắc phục và phương pháp vẽ bản đồ
Ngôn ngữ học ngày càng được hoàn thiện. Để vẽ một bản đồ Ngôn ngữ học
người ta đặc biệt chú ý đến việc đánh số cũng như thể hiện những ký hiệu trên
bản đồ cho các điểm điều tra theo một trật tự lôgic. Chẳng hạn như trong bản
đồ Ngôn ngữ học ta không thể xắp xếp các ký hiệu theo trật tự Alphabet, mà
phải trình bày theo nguyên tắc Bắc – Nam và Tây - Đông (hay nguyên tắc Trên
trước – Dưới sau và Trái trước – Phải sau). Trong quá khứ các nhà Ngôn ngữ
học địa lý đã sử dụng hai phương pháp vẽ bản đồ ngôn ngữ hữu hiệu:
a, Thể hiện “dữ liệu thô” trên bản đồ, hoặc bằng cách in trực tiếp các hình
thức biến thể lên bản đồ, hoặc mã hoá bằng các ký hiệu tại các địa điểm khác
nhau trên bản đồ (người đi đầu trong phương pháp này là J. Gilliéron).
b, Thể hiện những khu vực ký hiệu giống nhau bằng cách vẽ các đường bao
quanh hay gạch các đường bóng (người đại diện cho phương pháp này là
Hoàng đế Bonaparte) – ngày nay ta gọi những đường này là các đường đồng
ngữ.
Thông thường một bản đồ Ngôn ngữ học địa lý bao gồm những ký hiệu, bộ
mã hoá sau: biểu tượng đóng (clossed symbols), biểu tượng mở (open
symbols), biểu tượng phân chia (divided symbols), dấu gạch chéo (crosses),
chữ viết (letters), chữ số (numbers), đường kẻ (lines), khoanh vùng (hatching),
…. Không phải tất cả các ký hiệu đều được xuất hiện trên cùng một bản đồ, mà
18
- Xem thêm -