Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng và tỉ lệ sống của tôm thẻ chân trắng n...

Tài liệu ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng và tỉ lệ sống của tôm thẻ chân trắng nuôi thương phẩm tại công ty c.p – chi nhánh quảng trị

.PDF
78
466
132

Mô tả:

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931 ) là một trong những đối tượng nuôi phổ biến và quan trọng hiện nay. Theo Tổ chức lương nông thế giới (FAO), dự kiến sản lượng tôm thẻ chân trắng năm 2007 trên thế giới chiếm 80% sản lượng tôm nuôi, trong đó 85% sản lượng tập trung ở các nước Đông Nam Á. Các nước nuôi nhiều tôm thẻ chân trắng là Thái Lan, Trung Quốc, Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Êcuađo, Mêhicô, Panama, Hundurat, Braxin, Mỹ. Trên thế giới, tôm Thẻ chân trắng được nuôi nhiều hình thức như nuôi thâm canh và bán thâm canh trong bể xi măng hay trong ao, nuôi ghép với cá rô phi hay cá chép. Năng suất nuôi rất khác nhau tùy theo mức độ thâm canh và hình thức nuôi. Vào năm 2001 Trung Quốc đã tiến hành thử nghiệm nuôi tôm thẻ chân trắng với mật độ 1,5 vạn con/ 100m2 và 0,4 vạn con/ 100m2, kết quả cho thấy đối với mật độ nuôi là 0,4 vạn con/ 100m2 thì năng suất và kích cỡ trung bình của Tôm thấp hơn; tuy nhiên, tỷ lệ sống cao hơn và hệ số thức ăn thấp hơn so với nuôi ở mật độ 1,5 vạn con/ 100m2 (Thuỷ sản Trung Quốc, số 2/2002). Tại viện hải dương học Hawaii khi thả với mật độ 75 PL/m 2 đã đạt tới 44 tấn/ha/năm [21]. Tôm thẻ chân trắng lần đầu tiên di nhập vào Việt Nam năm 2001 và được phát triển tại nhiều địa phương như Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Khánh Hòa và lan rộng khắp cả nước. Trong mấy năm gần đây, nhiều hộ nuôi tôm sú đã bị lỗ, khi chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng đã thắng to. Do thời gian thu hoạch của tôm chân trắng ngắn hơn tôm sú (khoảng 3 tháng với năng suất 15 tấn/ha) nên việc phòng bệnh và tránh rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên, từ cuối năm 2009, do tâm lý đón giá cao mà người dân đã “làm liều” thả tôm trái vụ một cách tự phát khiến hằng trăm hecta nuôi tôm ở nhiều tỉnh như Quảng Nam, Phú Yên, Bình Định,… đã nhiễm bệnh đốm trắng. Hơn nữa, người dân đã chủ quan không thực hiện đúng quy trình cải tạo ao, xử lý nước, mật độ thả giống quá dày từ 150-200 con/m2 (trong khi theo khuyến cáo của ngành là từ 60 – 80 con/m2) khiến môi trường nhiễm chất hữu cơ nặng tạo điều kiện cho virus đốm trắng phát triển. Theo bà Hoàng Thị Kim Yến, trưởng phòng kỹ thuật của chi cục thủy sản Quảng Nam cho rằng, do nuôi tôm chân trắng với mật độ quá dày nên mức độ ô nhiễm môi trường cũng cao gấp 10 lần so với nuôi tôm sú trước đây[18]. Như vậy, đâu là mật độ nuôi thích hợp để Tôm thẻ chân trắng tăng trưởng tốt nhất, cho năng suất cao nhất, nhưng hạn chế đến mức thấp nhất tác động xấu của nghề nuôi đến môi trường đang là một câu hỏi khó cần được giải đáp của nghề nuôi Tôm thẻ chân trắng ở nước ta hiện nay. Với những yêu cầu đó và được sự chấp nhận của Ban chủ nhiệm khoa Thủy sản trường Đại học Nông Lâm Huế và giáo viên hướng dẫn tôi xin thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng và tỉ lệ sống của tôm Thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) nuôi thương phẩm tại công ty C.P – Chi nhánh Quảng Trị”. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định mật độ nuôi tôm Thẻ chân trắng phù hợp, có tốc độ tăng trưởng nhanh, tỷ lệ sống cao, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Phần 2 : TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2. Tình hình phát triển nghề nuôi tôm Thẻ chân trắng trên thế giới và ở Việt Nam 2.1 Tình hình nuôi tôm trên thế giới Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) là loài tôm được nuôi phổ biến nhất trên thế giới hiện nay, ở Nam Mỹ diện tích nuôi chiếm hơn 70% (Wedner & Rosenberry,1992).Hiện nay, sản lượng tôm Thẻ chân trắng chỉ đứng sau sản lượng tôm Sú nuôi trên thế giới và giá trị xuất khẩu của tôm này ước tính trên 1kg bằng 81% so với tôm Sú. Theo các nhà khoa học của Viện nghiên cứu biển Hawaii, tôm Thẻ chân trắng với những đặc tính sinh học vượt trội hơn so với tôm Sú như: khả năng thích nghi với môi trường rộng, có thể thích nghi ở độ mặn dao động từ 0 – 40%O , là loài có tốc độ tăng trưởng nhanh trong điều kiện nuôi thương phẩm với mật độ 100 – 200con/cm2, trong 60 ngày nuôi tôm đạt kích cỡ 20g/con, trong khi đó tôm sú phải mất ít nhất 120 ngày thì trọng lượng mới đạt 20g/con. Tại hội nghị Tầm Nhìn Toàn Cầu năm 2010 tổ chức tại Malaysia các chuyên gia nuôi trồng thủy sản đã công bố các thông tin về sản lượng tôm nước lợ như sau : Bảng2. 1: Sản lượng tôm ước tính tại Châu Á và Mỹ La Tinh Châu Á 2007 2008 2009 2010 2011 Trung Quốc 1.265.636 1.286.074 1.181.130 899.600 962.000 Thái Lan 504.856 507.500 541.994 548.800 553.200 Việt Nam 376.700 381.300 302.400 357.700 403.600 Indonesia 330.155 408.346 299.050 333.860 390.631 Ấn Độ 107.665 86.600 76.261 94.190 107.737 Bangladesh 63.600 67.197 105.000 110.000 115.000 Tổng Châu Á 2.648.612 2.719.017 2.505.835 2.344.150 2.532.168 Mỹ La Tinh 2007 2008 2009 2010 2011 Ecuador 150.000 150.000 140.000 145.000 148.000 Mexico 111.787 130.021 130.000 91.500 120.000 Brazil 65.000 65.000 65.000 72.000 82.000 Colombia 20.300 20.300 20.016 16.500 15.000 Honduras 26.333 26.586 20.000 30.800 22.000 Venezuela 17.658 16.002 18.000 20.000 15.000 Tổng Châu 319.078 408.089 376.300 376.300 402.000 Mỹ La Tinh Tổng Cộng 3.039.690 3.127.106 2.720.450 2.720.450 2.934.168 2012 1.048.000 591.500 444.500 442.757 116.103 120.000 2.762.860 2012 152.000 132.000 90.000 14.000 22.000 15.000 425.500 3.188.360 (Theo www.donghaiseafood.com) Năm 1980, Indonesia, Trung Quốc và Equado là những nước sản xuất tôm lớn nhất trên thế giới.Đến nay, bốn nước Đông Á là Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan và Indonesia đã chiếm tới 75% sản lượng toàn cầu, trong đó Trung Quốc chiếm 38% sản lượng tôm thế giới. Đối tượng nuôi chủ lực của Trung Quốc là tôm Thẻ chân trắng chiếm trên 85%, và Thái Lan chiếm trên 90%. Trong khi đó, 13 nước sản xuất tôm lớn nhất Trung và Nam Mỹ chỉ chiếm chưa đến một phần năm (18%) sản lượng toàn cầu. Cùng với sự gia tăng của diện tích và sản lượng tôm nuôi thì các công nghệ nuôi tôm cũng đã được nghiên cứu cải tiến nhằm giảm thiểu tác động xấu đến môi trường. Một trong những công nghệ nuôi được ứng dụng nhiều nhất và đưa lại hiệu quả cao là công nghệ biofloc. Với ưu điểm so với phương pháp nuôi truyền thống là không thay nước trong suốt chu kỳ nuôi hạn chế tối đa khả năng nhiễm và lây lan dịch bệnh, mật độ thả cao, năng suất cao gấp khoảng 20 lần/vụ và 50 lần/năm, FCR giảm 30 – 40% khả năng miễn dịch của tôm tăng 134% (Jang, 2010) công nghệ biofloc ngày càng được ứng dụng phổ biến ở các nước trên thế giới, đặc biệt là Indonesia. Theo Shrim New International (2006) hiện nay chưa có tài liệu nào thống kê được có bao nhiêu trại nuôi tôm ứng dụng công nghệ biofloc. Tuy nhiên, BFT đã đưa lại thành công trong nuôi tôm công nghiệp cả về quy mô và hiệu quả kinh tế phải kể đến Belize aquaculture, Ltd – Belize, Ocean Farms – Florida, Mỹ và PT Central Pertiwi Bahari – Indonesia. Như vậy, tôm Thẻ chân trắng đã phát triển mạnh về quy mô lẫn và sản lượng, đặc biệt giai đoạn từ năm 2007 đến nay. Trong đó các nước Châu Á đang chiếm vị trí hàng đầu đóng góp vào sản lượng tôm của cả thế giới. Tôm thẻ chân trắng ngày càng khẳng định tính ưu việt trong nuôi trồng và giá trị thương mại. 2.1.1 Nghiên cứu chọn giống tôm Thẻ chân trắng Chương trình chọn giống tôm Thẻ chân trắng đã được các nước Nam Mỹ như CuBa, Brazil, Mehico, Colombia đặc biệt là Hawaii, Mỹ thực hiện từ trước những năm 1990, đến nay đã thành công và tạo được các dòng tôm sinh trưởng nhanh, kháng bệnh dựa trên phương pháp truyền thống kết hợp với công nghệ sinh học phân tử. Hiện nay các nước Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia ứng dụng và nhập công nghệ này và tạo được các dòng tôm chất lượng cao phù hợp với vùng nuôi, điều kiện tự nhiên Châu Á. Những chọn giống tôm Thẻ chân trắng ( Litopenaeus vannamei ) được các nhà khoa học Viện nghiên cứu Hải dượng học Hawaii thực hiện từ năm 1988. Sau nhiều thế hệ đánh giá thông qua hình thức chọn lọc hàng loạt và chọn lọc theo gia đình, năm 1998 các nhà nghiện cứu đã chọn được hai dòng: dòng 1 có tốc độ tăng trưởng nhanh 100% cá thể sinh trưởng vượt trội, và dòng 2 có 70% kháng bệnh Taura TSV (Brad J.Argue & CTV, 2001).Marcos De Donato & CTV (2008) đã nghiên cứu sự tác động của chọn lọc theo gia đình lên tốc độ tăng trưởng của tôm Thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) ở Venezuela. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tốc độ tăng trưởng trung bình ở tôm cái nhanh hơn tôm đực . Ibarra và Famula (2008) cho rằng sinh trưởng của tôm Thẻ chân trắng nuôi ở các mật độ khác nhau có thể có những tương tác khác nhau về kiểu gen với môi trường. Hệ số di truyền về khối lượng của tôm cũng khác nhau giữa các mật độ nuôi, hệ số di truyền cao nhất ở mật độ nuôi cao (0,61 so với 0,35). Kết quả này là do tăng biến dị cộng gộp và giảm phương sai môi trường khi nuôi tôm ở mật độ cao. Nghiên cứu cũng đã đề xuất các chương trình chọn giống sinh trưởng nên áp dụng nuôi với mật độ cao. Những nghiên cứu về di truyền phân tử, phát triển chỉ thị di truyền liên quan đến các tính trạng số lượng phục vụ chọn giống tôm thẻ chân trắng được các nhà khoa hoc trên thế giới phát triển từ những năm 1990. Nhiều chỉ thị phân tử đã được áp dụng cho chương trình nghiên cứu di truyền chọn giống, đánh giá di truyền quần thể, đặc biệt là các chỉ thị có tính đa hình cao liên quan tới bản đồ liên kết gen của các tính trạng kinh tế và kháng bệnh. Nghiên cứu so sánh sự khác nhau về di truyền giữa quần đàn tôm Thẻ chân trắng nuôi và quần đàn tự nhiên bằng chỉ thị allozyme, cho thấy không có khác biệt lớn về cấu trúc nuôi và quần đàn tự nhiên dị hợp tử giữa các quần đàn. Tần số tương đối giữa các allele cao và rất ít biến dị. Tuy nhiên, dưới áp lực của chọn lọc nhân tạo và cách ly về mặt địa lý sẽ làm cho cấu trúc cân bằng thay đổi và tăng khả năng cận huyết ( Sunden và Davis, 1991) Hai vấn đề lớn được quan tâm trong chương trình chọn giống tôm Thẻ chân trắng hiện nay là chọn lọc được dòng tôm có tính trạng tăng trưởng vượt trội và khả năng kháng bệnh. Các bệnh phổ biến trên tôm Thẻ chân trắng bao gồm hội chứng Taura(TSV), bệnh đốm trắng (WSSV), bệnh đầu vàng (YHV/GAV/LOV) và một số bệnh khác như IHHNV, BP, MBV, BMN, HPV, IMNV, NHP. Các thiệt hại do bệnh tôm gây ra có tác động rất lớn đến sinh lượng, năng suất và diện tích nuôi. Ví dụ như bệnh do virus TVS, được bắt nguồn đầu tiên tại Ecuador năm 1991 và lan rộng ra các nước Nam Mỹ, hội chứng này làm cho tổng sản lượng tôm Thẻ chân trắng nuôi ở Mỹ giảm 50% vào năm 1995. Đến năm 1999 các quốc gia Châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia đều bị hội chứng TSV, nguyên nhân do nguồn tôm nhập từ các nước Châu Mỹ. Trước thực trạng đó cùng với quá trình chọn tính trạng tăng trưởng nhanh, nghiên cứu dòng tôm có gen kháng bệnh virus TVS đã được đặt ra đối với các chương trình chọn giống tôm Thẻ chân trắng ở các nước Nam Mỹ. Các chương trình này nhằm tạo ra nguồn giống tôm thẻ sạch bệnh từ bố mẹ đã biết trước nguồn gốc và nghiên cứu phát triển các chỉ thị di truyền và chọn lọc những cá thể tôm sống sót ở những vùng dịch bệnh phát triển, tạo đàn tôm giống sạch bệnh (SPF). Mục tiêu của chương trình này để duy trì tôm sạch bệnh, đảm bảo đa dạng di truyền, tránh cận huyết và cải thiện tốc độ tăng trưởng (JamesAWytm, 1999). 2.1.2 Nghiên cứu tạo đàn tôm sạch bệnh (SPF) Tôm thẻ chân trắng sạch bệnh Specific pathogen free (SPF) phát triển ở Mỹ từ đầu những năm 1990 làm cho sản lượng tôm của nước này đã tăng gấp đôi. Nhưng đến năm 1995, hội chứng Virus Taura (TSV) đã làm cho sản lượng tôm trên toàn nước Mỹ giảm 50%, lan rộng ra trên toàn bộ các nước Nam Mỹ. Trước thực tế đòi hỏi đó các nhà nghiên cứu có biện pháp ngăn chặn và tạo ra thế hệ tôm bố mẹ mang kiểu gen kháng lại một số virus gây bệnh. Đã có nhiều chương trình nghiên cứu chọn giống tôm Thẻ chân trắng sạch bệnh, ví dụ như: i) Chương trình nuôi tôm biển của Hoa Kỳ (UMSEP) nghiên cứu tạo đàn tôm sạch bệnh (SPF);ii) Chương trình nghiên cứu chọn giống tôm Thẻ chân trắng (SPF) của tập đoàn SyaAqua – Mỹ để tạo ra dòng tôm lớn nhanh, kháng một số loại bệnh do virus. Bằng phương pháp gây cảm nhiễm hội chứng TVS, đốm trắng, chọn lọc những cá thể có mang kiểu gen kháng bệnh và tạo dòng thuần. Sau hơn 10 năm thực hiện đã chọn lọc được 240 dòng tôm cho tốc độ tăng trưởng nhanh sạch bệnh, iii) Chương trình quản lý nguồn giống tôm của Tổ chức Sức khỏe động vật nuôi thế giới (OIE), chương trình nghiên cứu so sánh lựa chọn hai dòng tôm nuôi đánh giá ở Venezuala, Mỹ, Polynesia thuộc Pháp, Brazil, iv) Chương trình trung tâm Nghiên cứu Sinh học Tây Bắc Mehico (CIBNOR) đã chọn lọc được dòng tôm có tốc độtăng trưởng và khả năng sinh sản của tôm thẻ chân trắng; v) Chương trình hợp tác giữa CENIACUA (Colombia) hợp tác với AKVAFORSK (Nauy) thực hiện chọn giống nâng cao sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng trong điều kiện ao nuôi và nuôi bể. Như vậy, tôm chân trắng đã được chọn lọc nâng cao sinh trưởng đem lại hiệu quả chọn giống cao. Từ những kết quả trên cho thấy chọn lọc nâng cao sinh trưởng trên tôm Thẻ chân trắng là hoàn toàn khả thi và có thể thực hiện được tại Việt Nam. 2.2 Tình hình nghiên cứu tôm Thẻ chân trắng (L. vannamei) ở Việt Nam 2.2.1 Phát triển nuôi tôm Thẻ chân trắng Việt Nam cũng là một trong những nước đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á du nhập giống TCT, nhưng lại là nước phát triển nuôi loài này vào loại chậm trong khu vực.Năm 2001-2002 Việt Nam mới cho phép nhập tôm chân trắng vào nuôi thử nghiệm tại 3 công ty: Công ty Duyên Hải (Bạc Liêu), Công ty Việt Mỹ (Quảng Ninh) và Công ty Asia Hawaii (Phú Yên) .Mặc dù, qua rất nhiều năm nuôi, tôm Thẻ chân trắng đưa lại hiệu quả kinh tế, đặc biệt ở những vùng đất hoang hóa, đã khẳng định được tính ưu việt về mật độ nuôi, tốc độ tăng trưởng và năng suất nhưng đến năm 2008 Bộ NN&PTNT mới ra chỉ thị số 228 ngày 25/01/2008 cho phép nuôi đối tượng này ở các tỉnh phía Nam. Tuy nhiên phải tuân thủ theo một số điều kiện nhất định. Phát triển nuôi tôm Thẻ chân trắng được ghi nhận có những đột phá sau khi chỉ thị 228 ra đời, diện tích và sản lượng tăng nhanh cụ thể như sau: 200000 180000 160000 140000 120000 Diện tích(ha) 100000 Sản lượng(tấn) 80000 60000 40000 20000 0 2008 2009 2010 2011 2012 Hình 2.2:Diện tích và sản lượng tôm thẻ chân trắng giai đoạn 2008 – 2012 Bảng 2.2 :Diện tích và sản lượng tôm thẻ chân trắng giai đoạn 2008 – 2012 Năm Diện tích(ha) Sản lượng(tấn) 2008 9000 14500 2009 15300 33500 2010 25000 135000 2011 33049 140000 2012 38169 177817 Như vậy, mặc dù được xem là đối tượng nuôi phát triển nhanh trong những năm gần đây nhưng sản lượng tôm của Việt Nam cũng mới chỉ bằng 16% so với Trung Quốc và 30% so với Thái Lan. Năm 2009 nuôi tôm Thẻ chân trắng chủ yếu tập trung ở các tỉnh duyên hải Trung bộ chiếm triển 75% tổng diện tích nuôi thẻ chân trắng của cả nước. Đến nay, tôm Thẻ chân trắng đã phát triển nuôi khắp cả nước trong đó ĐBSCL chiếm đến gần 50% (15.727 ha) trên tổng diện tích.Năm 2012 tổng diện tích nuôi tôm Thẻ chân trắng là 38.169 ha tăng 15,5%, sản lượng 177.817 tấn tăng 3,2% so với năm 2011. Sự phát triển tôm chân trắng nhanh chóng gây áp lực lên môi trường và cũng ứng con giống làm cho dịch bệnh bùng phát trên diện rộng, đặc biệt trong năm 2011 và 2012. Năm 2012 cả nước có khoảng 100.766 ha tôm nước lợ bị thiệt hại do dịch bệnh trong đó 91.174ha nuôi tôm sú và 7.068ha nuôi tôm Thẻ chân trắng. Tôm bị bênh do Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính(AHPNS) chiếm 45%, chủ yếu trên diện tích nuôi tôm công nghiệp, còn lại là do bệnh đốm trắng và đầu vàng ( Vasep, 2012). Đến nay vẫn chưa tìm được nguyên nhân gây bệnh AHPNS (Acute Hepatopanerea Necrosis Syndrom) và chưa có biện pháp phòng, chữa trị có hiệu quả. 2.2.2 Sản xuất và cung ứng con giống : Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, năm 2012 cả nước có 250 trại sản xuất giống tôm chân trắng với tổng số giống sản xuất được thống kê (qua kiểm dịch) là 32 tỷ con, trong đó lượng giống đảm bảo chất lượng chiếm khoảng 30%. Nhu cầu giống để thả nuôi trên diện tích của năm 2012 khoảng 35 – 40 tỷ con. Để sản xuất đủ nhu cầu giống đáp ứng phát triển nuôi tôm Thẻ chân trắng trong thời gian tới, chúng ta cần khoảng 120.000 – 150.000 cặp tôm bố mẹ/năm. Tính đến nay ( 2013), Việt Nam vẫn hoàn toàn nhập khẩu 387.437 con và trong 6 tháng đầu năm 2012 là 90.000 con tôm bố mẹ. Tuy vậy, nhập khẩu tôm bố mẹ đang đối mặt 2 vấn đề chính, đó là : - Tôm bố mẹ nhập khẩu vào Việt Nam đều được chứng nhận đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định(sạch bệnh, xuất xứ nguồn gốc,..) nhưng tình trạng tôm bố mẹ kém chất lượng, nhiễm bệnh vẫn xảy ra khá phổ biến. Không kiểm soát được chất lượng tôm bố mẹ từ các nước xuất khẩu. - Giá nhập khẩu cao, sự chênh lệch lớn giữa các cơ sở cung cấp, dao động từ 26 – 65USD/con, nguồn giống tôm bố mẹ không chủ động, dẫn đến giá thành tôm giống cao, có thời điểm lên đến 80 – 90 đồng/con. Như vậy, với việc nhập khẩu tôm bố mẹ không kiểm soát được chất lượng, phát triển trại sản xuất giống không theo quy hoạch và đạt chuẩn, quản lý nhà nước về con giống thiếu chặt chẽ dẫn đến hiện tượng con giống kém chất lượng, không kiểm dich vẫn lưu thông khá phổ biến trên thị trường. Hậu quả cuối cùng là người nông dân nuôi tôm gánh chịu do tôm chậm lớn dịch bệnh. 2.2.3 Nghiên cứu tôm thẻ chân trắng và kết quả đạt được Tôm thẻ chân trắng không phải là loài tôm bản địa nên không có bất cứ nghiên cứu nào được thực hiện trên đối tượng này trước năm 2001 ở Việt Nam. Từ năm 2003 đến nay một số công trình nghiên cứu đã được triển khai, một số kết quả đạt được như sau: - Năm 2003, Viện nghiên cứu NTTS III đã triển khai đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu quy trình công nghệ sản xuất giống và cơ sở khoa học phục vụ cho quy hoạch vùng nuôi tôm Thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei”, đề tài đã đề xuất được quy trình công nghệ sản xuất giống; quy trình công nghệ thương phẩm; cho đẻ khép kín vòng đời. Đề tài đã chỉ ra được các yếu tố thích hợp cho sự thành thục và cho đẻ tôm bố mẹ như nhiệt độ, độ mặn, loại thức ăn, kích cỡ thành thục lần đầu,... - Nghiên cứu công nghệ nuôi thương phẩm tôm Thẻ chân trắng tại vùng nước ngọt, nước lợ và nước mặn cũng đã được thực hiện. Kết quả tôm có khối lượng lớn nhất khi nuôi 120 ngày cũng chỉ đạt đến 14,4g/con. Kết quả nghiên cứu đề tài này có thể được ứng dụng để nuôi tôm thành thục, cho đẻ, và nuôi tôm thịt thương phẩm. (Đào Văn Trí & ctv, 2004). - Từ 2009 – 2010, Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III thực hiện đề tài “Nghiên cứu sản xuất tôm Thẻ chân trắng bố mẹ chất lượng, sạch bệnh phục vụ sản xuất giống nhân tạo”. Kết quả cho thấy bố mẹ được nuôi trong điều kiện Việt Nam cho sức sinh sản tuyệt đối từ 20 – 23 vạn trứng/cá thể, cao hơn sức sinh sản tôm bố mẹ nhập trực tiếp từ Hawaii (17- 19 vạn trứng/cá thể). Tương tự như vậy, tỷ lệ nở, tỷ lệ thụ tinh,tỷ lệ sống của tôm bố mẹ đều cao hơn tôm nhập nội. Tạo được đàn tôm bố mẹ sạch bệnh đủ tiêu chuẩn kĩ thuật để sản xuất giống (Nguyễn Thành Vũ và ctv, 2010) - Từ 2009 – 2011, Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất tôm Thẻ chân trắng sạch bệnh “. Đề tài đã nhập một đàn tôm bố mẹ sạch bệnh từ Hawaii – Mỹ (350 cặp bố mẹ, 60-70g/con) và đàn tôm từ Thái Lan ( 500 cặp bố mẹ, 55-65g/con). Kết quả đã xác định được loại thức ăn, mật độ, hệ thống nuôi tôm bố mẹ và đã tạo ra được đàn tôm bố mẹ sạch bệnh(Vũ Văn In và ctv, 2012) - Từ năm 2010 – 2011, Viện nghiên cứu NTTS III thực hiện dự án tạo đàn bố mẹ từ nguồn postlarvae nhập nội (PL được sản xuất từ các gia đình chọn giống). Kết quả đã tạo ra được 1500 con tôm bố mẹ sạch bệnh đạt tiêu chuẩn kỹ thuật (Nguyễn Hữu Hùng, 2011) - Từ 2012 – 2014 , Viện nghiên cứu NTTS III đang thực hiện dự án “ Nâng cao chất lượng giống tôm Thẻ chân trắng” thuộc chương trình 2194. Kết quả năm 2012 đã tạo được 6 dòng tôm từ 3 đàn vật liệu ban đầu và chọn được công thức lai cho tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống cao nhất. Dự án đang tiếp tục thực hiện. (Nguyễn Hữu Hùng, 2012). 2.3 Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng địa bàn Quảng Trị Nằm trong vùng Duyên Hải Miền Trung, tỉnh Quảng Trị có vùng đất cát khoảng 34.732 ha. Đây là tiềm lực lớn tạo điều kiện cho phát triển NTTS nói chung và nghề nuôi tôm nói riêng của tỉnh. Tôm thẻ chân trắng được đưa vào nuôi trên vùng đất cát Quảng Trị (năm 2004 ) với dự án của công ty Việt Mỹ. Từ đó diện tích và sản lượng tăng lên đáng kể. Năm 2009 tổng diện tích nuôi tôm trong toàn tỉnh là khoảng 461 ha, trong đó diện tích ở vùng cát ven biển là 201 ha, còn lại là vùng ven sông. Tổng sản lượng tôm đạt 3.400 tấn (giá trung bình từ 60.000 – 110.000 đồng tùy thời điểm), năng suất đạt trung bình khoảng 10 tấn/ ha/vụ, cá biệt có hộ đạt 20 tấn/ha/vụ cho lãi khoảng 1 tỷ đồng/ ha/vụ. Cùng thời gian đó, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã xảy ra một số dịch bệnh đối với tôm Thẻ chân trắng như bệnh đốm trắng đã xuất hiện tại vùng cát ven biển xã Triệu An (Triệu Phong), Đông Lễ, Đông Giang (TP Đông Hà) với diện tích khoảng 20 ha, gây thiệt hại khá nặng. Ngoài ra bệnh NHP, bệnh đỏ thân xuất hiện cũng gây thiệt hại trên khoảng diện tích 15 ha của người dân. Dịch bệnh diễn biến ngày càng phức tạp, rất khó ngăn ngừa. Theo Sở NN & PTNT, trong năm 2010, diện tích nuôi tôm ven biển sẽ tiếp tục tăng mạnh do giá tôm tăng cao. Chỉ tính từ đầu năm 2010 đến hiện tại, người dân đã đào thêm 30 ha mặt nước nuôi tôm. Trong thời gian qua, với thành công bước đầu trong việc nuôi tôm thẻ chân trắng trên đất cát không chỉ giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận dân cư vùng bãi ngang ven biển mà còn làm giàu cho nhiều hộ nuôi đối tượng này. Tuy nhiên, một thực tế đặt ra ở đây là nếu chỉ thấy hiệu quả trước mắt mà không có sự quản lý, định hướng phát triển nuôi tôm trên cát ồ ạt như hiện nay thì tất yếu sẽ dẫn đến ảnh hưởng khôn lường như tình trạng sa mạc hóa do tình trạng khai thác nguồn nước ngầm quá mức, tình trạng lây lan dịch bệnh. Bên cạnh những khó khăn gặp phải trong quá trình sản xuất, hiện tại người nuôi tôm đang phải đối mặt với những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Hầu hết viêc tiêu thụ sản phẩm thông qua tư thương nên bị ép giá. Do đó, trong thời gian tới ngành thủy sản cần phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan có những giải pháp hợp lý để phát triển nghề nuôi tôm thẻ chân trắng bền vững, hiệu quả. 2.4. Tình hình nghiên cứu về mật độ thả nuôi đối với tôm Thẻ chân trắng nuôi trên cát Sau những thành công bước đầu, tay nghề được nâng lên, người nuôi thường có xu hướng tăng dần mật độ nuôi từ 100 con/m2 lên 150-200 con/m2. Trong năm vừa qua đã có những mô hình đã thử nghiệm với mật độ 400 - 500 con /m2. Hệ thống ao hồ, trang thiết bị hoàn chỉnh, con giống sạch bệnh, công nghệ nuôi tiên tiến cùng với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm trong và ngoài nước phần nào làm yên tâm các nhà đầu tư lớn khi họ nuôi trên hệ thống ao có lót bạt nilon, có ao trữ, ao lắng, hệ thống quạt nước, sục khí đáy và kiểm tra, theo dõi hàng ngày các thông số môi trường chất lượng nước. Trong khi đó những người nuôi quy mô nhỏ, tập trung dạng nuôi quảng canh cải tiến, bán công nghiệp sau khi đầu tư thêm một số thiết bị và cải tạo lại ao hồ lên nuôi mật độ cao, tuy nhiên do ao liền ao, bờ liền bờ giữa các hộ nuôi với nhau thì việc nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ từ 100 con/m2 trở lên sẽ gặp trở ngại như: tôm chậm lớn, kích cỡ không đồng đều đến khi thu hoạch, dịch bệnh dễ xảy ra... Với các ao hồ được đầu tư tốt, khu nuôi riêng biệt, sau mỗi vụ nuôi ngoài việc cải tạo tốt ao nuôi còn phải sên vét đường cấp nước và đường xả thoát nước. Một điều tưởng chừng như bình thường nhưng rất quan trọng và không thể thiếu trong quá trình nuôi tôm thẻ chân trắng là luôn làm sạch đáy ao. Khi nuôi tôm sú, người nuôi có thể xi phông đáy theo định kỳ. Nhưng khi nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ cao, mỗi tuần (thậm chí mỗi ngày khi tôm lớn) người nuôi phải xả cặn bã đáy ao tại các vị trí thu gom hoặc bơm hút cặn sang các ao trữ để xử lý. Hệ thống ao nuôi là yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành bại khi nâng mật độ nuôi cao. Việc nâng cấp ao hồ từ nuôi tôm sú qua nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ cao cũng cần phải chú trọng về độ sâu của mực nước ao nuôi. Đây cũng được xem như là ưu tiên số một khi cải tạo ao hồ. Đối với các ao nuôi trải bạt toàn bộ đáy ao, độ sâu mực nước thích hợp cho nuôi mật độ cao là 1,5-2m. Ngược lại, với các ao nổi, vùng thấp triều thường có độ sâu mực nước thấp hơn (0,8-1,2m) sẽ là thách thức không nhỏ khi nuôi mật độ trên 100 con/m2. Nhiều người nuôi đã đầu tư những hệ thống ao hồ thực sự bài bản như: làm lưới nhà lầu tạo điều kiện cho tôm đeo bám, hệ thống oxy đáy, hệ thống quạt, phủ lưới che chim cò toàn bộ ao nuôi. Việc theo dõi nhiệt độ, pH, độ kiềm, độc tố…cũng được người nuôi chú trọng. Nhắm đến kết quả là tỉ lệ sống cao, kích cỡ tôm đồng đều, ít bệnh, thời gian thu hoạch ngắn, năng suất cao khi nuôi tôm Thẻ chân trắng mật độ cao từ 150-200 con/m2 trên hệ thống ao nuôi tôm sú trước đây, Việt Linh khuyến nghị một số vấn đề kỹ thuật như sau: - Ao nuôi nên trải bạt toàn bộ hoặc phủ bạt bờ ao. - Bảo đảm mực nước ao nuôi từ 1,5-2m. - Khu vực nuôi có nguồn nước dồi dào - Có ao trữ, ao lắng và hệ thống cấp thoát nước đáp ứng yêu cầu xả mùn bã đáy ao (xi phông đáy) mỗi ngày. - Có hệ thống oxy đáy; hệ thống quạt nước tạo được các khu vực gom mùn bã đáy ao. Bảo đảm từ tháng thứ 2, thời gian quạt nước 24h/24h. - Nếu không thỏa mãn các yêu cầu trên, nên nuôi dạng bán công nghiệp <100 con/m2 sẽ hiệu quả hơn. - Về con giống: Chỉ nuôi mật độ cao khi chọn được con giống sạch bệnh. - Trong quá trình nuôi, các biểu hiện của ao nuôi không dễ nhận biết nên đòi hỏi người nuôi phải bám sát để phát hiện và xử lý kịp thời. 2.5. Các hình thức nuôi tôm trên thế giới Hình thức nuôi tôm quảng canh: Người nuôi chọn địa điểm ao nuôi, rồi tiến hành đắp đê, làm cống và nguồn nước được lấy vào thông qua thủy triều mang theo cả con giống và thức ăn. Người nuôi tôm không cần bổ sung thức ăn và con giống nên không quản lý được mật độ ao nuôi và tốc độ tăng trưởng của tôm, giống không đồng đều kích cỡ, nhiều cá tạp … Hình thức nuôi quảng canh cải tiến giống hình thức nuôi quảng canh nhưng người nuôi bổ sung thêm con giống và thức ăn. Hình thức bán thâm canh: Hình thức này khá phổ biến. Con người chủ động thức ăn và con giống. Hình thức nuôi thâm canh: Đây là hình thức nuôi tiến bộ nhất. Người nuôi tạo môi trường hoàn toàn nhân tạo phù hợp nhất với sự sinh trưởng, phát triển của con tôm. Thức ăn con giống hoàn toàn chủ động. Toàn bộ quy trình nuôi được áp dụng kỹ thuật cao và quản lý mật độ chặt chẽ, diện tích ao nhỏ nhưng mật độ nuôi tôm lớn 20-50con/m2 thậm chí 60-70con/m2 (với tôm sú (P.monodon), với tôm chân trắng có thể nuôi với mật độ 150-200 con/m2. Theo số liệu năm 1992 - 1993 (Menasveta, 1998) nuôi tôm công nghiệp (thâm canh) chiếm 1/3 sản lượng tôm nuôi, nhưng diện tích chỉ chiếm 5% trong tổng diện tích nuôi, cho thấy nuôi tôm công nghiệp cho hiệu quả sử dụng rất lý tưởng. Với áp lực tăng dân số toàn cầu cùng với tăng nhanh lợi nhuận và hạn chế ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái, đòi hỏi việc phát triển nuôi tôm cần tăng hiệu quả sử dụng đất. Điều này đồng nghĩa với việc xóa dần hình thức nuôi quảng canh và tăng dần hình thức nuôi bán thâm canh, thâm canh.1.3. Hệ thống phân loại và một số đặc điểm sinh học của tôm Thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) 2.6. Hệ thống phân loại Ngành chân khớp: Athropoda Lớp giáp xác : Crustacea Bộ mười chân : Decapoda Phân bộ chân bơi : Liên họ tôm he: Họ tôm he : Nantatia Penaeoidea Penacidae Giống tôm he: Penaeus Loài tôm thẻ chân trắng : Litopenaeus vannamei Tên thường gọi : Tôm thẻ chân trắng 2.7. Một số đặc điểm sinh học của tôm Thẻ chân trắng 2.7.1. Đặc điểm phân bố và tập tính sinh sống Tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) là loài tôm biển, có nguồn gốc từ vùng biển xích đạo Đông Thái Bình Dương, từ Mexico đến Peru; đây là loài tôm quý, có nhu cầu cao trên thị trường được nuôi phổ biến ở khu vực châu Mỹ La Tinh và cho sản lượng lớn gần 200 nghìn tấn (1999). Phân bố trong các thuỷ vực từ 40 độ vĩ Bắc đến 40 độ vĩ Nam. Ấu trùng và tôm con của loài tôm chân trắng phân bố tập trung ở cửa sông, ven bờ, nơi giàu sinh vật thức ăn, do tác động cơ học của thuỷ triều. Tôm trưởng thành phân bố ngoài khơi và có tập tính di cư sinh sản theo đàn. Ban ngày tôm sống vùi trong bùn, ban đêm mới bò đi kiếm ăn. Bảng 2.3. Điều kiện môi trường thích hợp đối với tôm chân trắng Yếu tố môi trường Chỉ số thích hợp Nền đáy Đáy cát, cát bùn Độ sâu 1 - 1.5m Nhiệt độ 25 - 320C Độ mặn 28 - 34‰ pH 7,7 - 8,3 Độ trong 30 ~ 40 cm Độ kiềm 100 ~ 120 ppm Tôm chân trắng có sự thích nghi rất mạnh đối với sự thay đổi đột ngột của môi trường sống. Chúng chịu đựng được ngưỡng oxy thấp (thấp nhất là 1,2mg/l); thích nghi tốt với thay đổi độ mặn (tốt nhất ở 28 - 34‰); có giới hạn nhiệt độ rộng (150C - 350C). Nuôi trong phòng thí nghiệm rất ít thấy chúng ăn thịt lẫn nhau. 2.7.2. Hình thái và cấu tạo Cũng giống như một số loài tôm he khác, cấu tạo của tôm chân trắng gồm các bộ phận sau: Hình 2.2. Hình thái, cấu tạo tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) Chuỷ có 2-4 (đôi khi có 5-6) răng cưa ở phía bụng. Vỏ giáp có gai gân và gai râu rất rõ, không có gai mắt và gai đuôi, không có rãnh sau mắt. Không có rãnh tim mang. Có 6 đốt bụng, 3 đôi mang trứng, rãnh bụng rất hẹp hoặc không có, gai đuôi không phân nhánh. Râu không có gai phụ và chiều dài râu ngắn hơn nhiều so với vỏ giáp. Con đực khi thành thục có bộ phận giao phối đực cân đối, nửa mở, không có màng che. Không có hiện tượng phóng tinh, có gân bụng ngắn. Túi chứa tinh hoàn chỉnh, bao gồm ống chứa đầy tinh dịch và có cấu trúc gắn kết riêng biệt với sự sinh sản cũng như với các chất kết dính. Con cái khi thành thục có túi “ thụ tinh” mở và đốt sinh dục thứ 14 gợn lên thành mấu lồi, thành lỗ hoặc khe rãnh. 2.7.3. Chu kỳ sống Quá trình phát triển tôm thẻ chân trắng từ trứng đến giai đoạn Postlarvae trải qua 6 giai đoạn Nauplius kéo dài 1,5 ngày, 3 giai đoạn Zoea kéo dài khoảng 5 ngày và 3 giai đoạn Mysis kéo dài khoảng 3 ngày. Trứng nở thành ấu trùng Nauplius sau 14-15 giờ. Tuy nhiên thời gian biến đổi qua các giai đoạn ấu trùng phụ thuộc vào nhiệt độ nước. Biển khơi Cửa sông Trưởng thành Ấu trùng Hình 2.3. Vòng đời của tôm he (Penacidae) 2.7.4. Đặc điểm dinh dưỡng Tôm chân trắng là loại tôm ăn tạp giống như các loại tôm he khác, thức ăn của nó cũng cần các thành phần: protein, glucid, lipid, vitamin và muối khoáng… Khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm thẻ chân trắng rất cao, trong điều kiện nuôi lớn bình thường, lượng thức ăn chỉ cần bằng 5% thể trọng tôm (thức ăn ướt). Thức ăn cho tôm chân trắng cần hàm lượng đạm 35-38% trong khi đó tôm sú cần 40% protein . Giai đoạn ấu trùng: Do tập tính sống trôi nổi bắt mồi thụ động bằng các đôi phụ bộ nên thức ăn phải phù hợp với cỡ miệng. Thức ăn mà ấu trùng sử dụng trong thuỷ vực tự nhiên là các loài tảo khuê (Skeletonema, Cheatoceros...), luân trùng (Brachionus plicatilis), vật chất hữu cơ có nguồn gốc động và thực vật (Microplankton và Microdetritus). Ngoài ra trong sản xuất giống nhân tạo, các loại thức ăn như: ấu trùng Artemia, thịt tôm, thịt cá, mực, lòng đỏ trứng gà, thức ăn công nghiệp... Giai đoạn tiền trưởng thành: Trong thuỷ vực tự nhiên tôm tiền trưởng thành sử dụng các loại thức ăn như giáp xác nhỏ (ấu trùng Ostracoda, Copepoda, Mysidacca), các loài nhuyễn thể (mollues) và giun nhiều tơ (Polychaeta). Khi ương tôm bột lên tôm giống, thức ăn có thể phối hợp từ nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau. Nhu cầu dinh dưỡng về đạm, đường, mỡ thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của tôm. Lượng đạm thô cần cho tôm giống từ 30-35% và tôm thịt từ 25-30%. Giai đoạn tôm trưởng thành: Giai đoạn này tôm sử dụng các loại thức ăn như giáp xác sống đáy (Benthic crustacean), hai mảnh vỏ (Bivalvia), giun nhiều tơ và các loại ấu trùng của động vật đáy... (Trần Minh Anh, 1989) 2.7.5. Đặc điểm sinh sản Quá trình sinh sản của tôm he chân trắng cũng giống như các loài tôm biển khác, gồm các giai đoạn: Giao vĩ, thành thục và đẻ trứng.  Giao vĩ Đến giai đoạn trưởng thành, tôm thành thục sinh dục và tiến hành giao vĩ. Ở con cái buồng trứng đầu tiên có màu trắng đục sau đó chuyển thành màu vàng nâu hoặc xanh nâu. Trong những ngày đẻ trứng tôm đực có nhiệm vụ đưa các túi tinh vào túi chứa tinh của con cái, con cái sẽ đẻ sau vài giờ.  Đẻ trứng Sự quấn quýt nhau giữa con đực và con cái bắt đầu vào buổi chiều và có liên quan chặt chẽ đến cường độ ánh sáng. Sự phân cắt của trứng diễn ra chủ yếu ở thời gian đẻ. Quá trình đẻ được bắt đầu bằng sự nhảy lên đột ngột và bơi nhanh của con cái. Quá trình này chỉ diễn ra trong vòng một phút.  Sức sinh sản Tôm mẹ thành thục lần đầu từ năm thứ hai trở đi. Trọng lượng 3040g/con. Số lượng trứng tuỳ thuộc kích cỡ tôm mẹ. Nếu tôm có khối lượng 3035g/con lượng trứng sẽ là 100.000-250.000 hạt, trứng có đường kính khoảng 0,22 mm. Mùa đẻ rộ vào tháng 4-5 ở Ecuador và tháng 12 đến tháng 4 ở Peru. Tôm he chân trắng thuộc loại hình sinh sản túi mở; khác với loại hình túi chứa tinh kín như của tôm sú nên tôm bố mẹ thành thục xong thì tự giao vĩ, con đực chuyển túi tinh dễ dàng mà không thực hiện phương pháp cắt mắt khi cho sinh sản nhân tạo. 2.7.6. Đặc điểm sinh trưởng Tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) nhỏ hơn tôm sú, nhưng nó phát triển nhanh hơn ở 60 ngày đầu, 90-100 ngày đạt 15-20g/con trong khi đó tôm sú trong 120 ngày đạt tới 35-40g/con. Khác với sinh trưởng mang tính liên tục ở cá, sinh trưởng của tôm mang tính giai đoạn, đặc trưng bởi sự gia tăng đột ngột về kích thước và khối lượng. Tôm muốn tăng kích thước phải tiến hành lột xác và quá trình này thường tùy thuộc vào dinh dưỡng, môi trường nước và cả giai đoạn phát triển của cá thể. Tôm còn nhỏ khi thay vỏ cần vài giờ, tôm lớn cần 1 - 2 ngày, lớn hơn cần 6 -7 ngày, tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực. Nuôi 60 ngày có thể đạt đến thương phẩm, nhưng người ta thường thu hoạch 100 - 120 ngày đạt cỡ tôm trung bình 17 – 18 g. PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 2/1/2013 - 4/5/2013 tại công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam – Chi nhánh Quảng Trị. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) được lấy giống tại trại sản xuất giống của Công ty CP. 3.3. Vật liệu nghiên cứu - Hệ thống ao thí nghiệm: Gồm 9 ao từ B1 – B9. Với diện tích: 5000m2 - Dụng cụ đo các thông số môi trường: thước chia vạch 10cm, nhiệt kế, khúc xạ kế, test đo pH, test đo độ kiềm và test đo DO. - Dụng cụ đo chiều dài, cân trọng lượng tôm: Thước chia vạch 1cm, cân tiểu li - Trang bị phụ trợ khác: Máy sục khí, máy quạt nước… 3.4. Nội dung nghiên cứu - Đánh giá ảnh hưởng của mật độ đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng. - Hệ số chuyển đổi thức ăn. - So sánh hiệu quả kinh tế khi nuôi ở các mật độ nuôi khác nhau. 3.5. Phương pháp nghiên cứu 3.5.1. Bố trí thí nghiệm Nghiên cứu được thực hiện trong điều kiện các ao thực nghiệm với 3 công thức (CT) được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với mật độ khác nhau là 100 PL.10/m2, 120 PL.10/m2 và 140 PL.10/m2 và 3 lần lặp lại cho mỗi công thức. Tôm giống là Post 10 được lấy từ các trại sản xuất giống của công ty CP. Cách chăm sóc quản lý và điều chỉnh các yếu tố môi trường ở các công thức là như nhau. Bảng 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm Chuẩn bị ao Thả giống Ao B1 CT1 CT2 CT3 100 PL.10/m2 120 PL.10/m2 140 PL.10/m2 Ao B2 Ao B3 Ao B4 Ao B5 Ao B6 Các chỉ tiêu đánh giá - Theo dõi các yếu tố môi trường - Xác định tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng (trọng lượng, chiều dài) - So sánh hiệu quả kinh tế Ao C7 Ao C8 Ao C9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan