Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng (1997 - 2010)...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng (1997 - 2010)

.PDF
113
129
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  HOÀNG THỊ YẾN ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO KẾT HỢP KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG (1997-2010) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  HOÀNG THỊ YẾN ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO KẾT HỢP KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG (1997-2010) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Mã số: 60 22 56 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Hồ Khang Hà Nội - 2013 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO KẾT HỢP KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005................................................................................................ 8 1.1. Khái quát về quá trình kết hợp kinh tế với quốc phòng ở tỉnh Vĩnh Phúc trước năm 1997 ............................................................................. 8 1.1.1. Tầm quan trọng của việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc .................................................................. 8 1.1.2. Quá trình kết hợp kinh tế với quốc phòng ở tỉnh Vĩnh Phúc trước năm 1997 .................................................................................... 16 1.2. Điều kiện lịch sử trong giai đoạn mới và chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc ............................................ 23 1.2.1. Điều kiện lịch sử trong giai đoạn mới và vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng tại Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (1991)...... 23 1.2.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng chủ trương của Đảng vào điều kiện địa phương ........................................................................... 27 1.3. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng .................... 30 1.3.1. Chỉ đạo phát triển kinh tế kết hợp với xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân ..................................................................... 30 1.3.2. Chỉ đạo kết hợp quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng ................................................................ 40 Chƣơng 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC ĐỐI VỚI VIỆC KẾT HỢP KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG TỪ NĂM 2006 - 2010 .................. 46 2.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc ...................................................................... 46 2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử .............................................................................. 46 2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc .......................................... 48 2.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng .................. 54 2.2.1. Chỉ đạo phát triển kinh tế kết hợp với xây dựng lực lượng quốc phòng ........................................................................................................... 54 1 2.2.2. Chỉ đạo kết hợp quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, tăng cường quốc phòng ......... 63 Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM .......................................................... 71 3.1. Nhận xét ....................................................................................................... 71 3.1.1. Về ưu điểm ........................................................................................ 71 3.1.2. Về một số hạn chế và nguyên nhân ................................................... 80 3.2. Kinh nghiệm ................................................................................................. 85 3.2.1. Quán triệt sâu sắc đường lối quốc phòng toàn dân, tạo nên sự thống nhất về nhận thức tư tưởng trong toàn Đảng bộ ........................ 86 3.2.2. Huy động mọi tiềm năng, lợi thế, động viên mọi nguồn lực ở địa phương cho việc kết hợp kinh tế với quốc phòng ............................... 90 3.2.3. Chú trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong quá trình thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng ................................................................................................... 92 3.2.4. Xây dựng chiến lược tổng thể và đồng bộ về kết hợp kinh tế với quốc phòng trên nền tảng khối đoàn kết toàn dân ............................... 95 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 101 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BVTQ : Bảo vệ Tổ quốc CNH : Công nghiệp hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội CSVN : Cộng sản Việt Nam DBHB : Diễn biến hòa bình ĐHĐB : Đại hội đại biểu HĐH : Hiện đại hóa XHCN : Xã hội chủ nghĩa UBND : Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI Kết hợp kinh tế với quốc phòng là một vấn đề được hầu hết quốc gia trên thế giới quan tâm nghiên cứu và áp dụng trong điều kiện còn tồn tại giai cấp và nhà nước. Đối với Việt Nam, đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở Việt Nam, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng đã được ĐHĐB toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một nội dung của đường lối xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH; đồng thời, được tái khẳng định trong các Nghị quyết ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI của Đảng. Thực hiện chủ trương trên của Đảng, việc kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam những năm qua đã được triển khai mạnh mẽ và đạt được những kết quả to lớn, tạo nên sự chuyển biến vững chắc từ hai phía kinh tế và quốc phòng. Những kết quả đó đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối và các biện pháp chỉ đạo thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn bộc lộ những thiếu sót, khuyết điểm, cần có các giải pháp khắc phục và rút ra những bài học kinh nghiệm trong thời kì đổi mới hiện nay. Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực miền Bắc, có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế. Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước càng đòi hỏi Vĩnh Phúc phát huy thế mạnh, tiềm năng vốn có tạo nên bước chuyển biến trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những năm qua, Vĩnh Phúc đã từng bước giải quyết quan hệ kinh tế với quốc phòng - an ninh, thông qua thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng và bước đầu đạt được kết quả đáng mừng, song bên cạnh còn những bất cập cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới. Vị trí đặc điểm địa lý của Vĩnh Phúc cùng với quá trình phát triển nền kinh tế mở trong xu thế hội nhập với quốc tế và khu vực đang đặt ra những 1 yêu cầu và nội dung mới cần giải quyết về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng và an ninh. Do đó, việc xem xét, đánh giá đúng quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng từ 1997-2010, rút ra những vấn đề góp phần vào việc tham khảo trong hoạch định sự kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng ở Vĩnh Phúc trong tương lai là hết sức cần thiết. Nghiên cứu đề tài này vừa đáp ứng yêu cầu về mặt lịch sử vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để tiếp tục đổi mới kết hợp kinh tế với quốc phòng trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là những lý do chính để chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng (1997-2010)”. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam là vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau của nhiều nhà khoa học.Các công trình nghiên cứu chủ yếu được công bố qua hội thảo khoa học và được đăng tải trên một số tạp chí, báo của Trung ương, ngành và địa phương, đó là: + “Kết hợp kinh tế với quốc phòng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” của Đoàn Khuê, Tạp chí Cộng sản, số 12-1992; “Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Nguyễn Minh Khải, Tạp chí Cộng sản, số 7-1996... + “Đổi mới kết hợp kinh tế với quốc phòng” của Vũ Quang Lộc, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 3-1994; “Mấy quan điểm chung về kết hợp kinh tế với quốc phòng” của Vũ Hữu Ngoạn, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 71995; “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn kết hợp kinh tế với quốc phòng” của Nguyễn Nhâm, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 7-1995; “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trên khu vực trọng điểm phía Nam” của Lê Văn Dũng, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 7-1997; “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh - một nguồn lực quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Nguyễn Nhâm và Nguyễn Thế Lực, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 8-1998; “Tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố 2 quốc phòng, an ninh trên địa bàn chiến lược - một nhiệm vụ chính trị quan trọng của Quân đội hiện nay” của Phạm Văn Trà, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 10-1998; “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn kết hợp kinh tế với quốc phòng trong thời kỳ đổi mới” của Nguyễn Nhâm, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 12-1998; “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh - thực trạng và một số giải pháp chủ yếu” của Nguyễn Thanh Bân, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 1-1999; “Những phát triển mới về nội dung và sự cần thiết phải giáo dục nhận thức kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trong thời kỳ đổi mới” của Nguyễn Nhâm và Nguyễn Thế Lực, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 8-1999; “Kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng trong phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất” của Nguyễn Đức Độ, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 5-2000; “Bàn thêm về cơ sở lý luận và thực tiễn của quy luật kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh” của Quang Huy, số 8-2000; “Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh trong quy hoạch phát triển các vùng kinh tế” của Nguyễn Huy, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 12-2000; “Vận dụng các quan điểm của Đảng về kết hợp về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Nguyễn Đình Hương, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 6-2002... + Bài viết “Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh - một giải pháp chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” của Hoàng Xuân Lâm và Nguyễn Nhâm, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội số 7-2000; “Tăng cường quản lý Nhà nước - giải pháp nâng cao hiệu quả kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh” của Nguyễn Nhâm, Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2004... Các công trình, bài viết đã nêu lên những luận điểm cơ bản của các nhà kinh điển Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ bản chất và sự tác động qua lại giữa kinh tế với quân sự, chiến tranh và kinh tế với quốc phòng, an ninh; quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh qua các thời kỳ cách mạng; khẳng định tầm quan trọng, vị trí, mối quan hệ giữa xây dựng, phát triển kinh tế với quốc phòng 3 trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Một số bài viết đã làm rõ nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh trong thời kỳ đổi mới đất nước, đưa ra những giải pháp cụ thể cần chú ý thực hiện trong quá trình kết hợp kinh tế với đảm bảo quốc phòng, an ninh, đi sâu làm rõ mối quan hệ giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược quốc phòng, an ninh, là hai chiến lược quốc gia liên kết chặt chẽ với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hầu hết các tác giả đều cho rằng điểm cốt yếu của việc kết hợp là nhằm biến tiềm lực kinh tế thành tiềm lực quốc phòng một cách tối ưu để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, đẩy mạnh tiến trình CNH,HĐH đất nước. Đáng chú ý là bài “Một số vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc về giải quyết mối quan hệ giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược quốc phòng - an ninh” của PGS.TS Ngô Doãn Vịnh (Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 10 - 2004. Bài viết đã làm rõ tính thống nhất về mục tiêu, tính thống nhất về quan điểm chủ đạo, tính thống nhất về lựa chọn hướng ưu tiên ngành và bố trí lãnh thổ, tính thống nhất về các biện pháp chiến lược trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược bảo vệ Tổ quốc (chiến lược quốc phòng, chiến lược an ninh và chiến lược đối ngoại). Bài “Tiếp cận kinh tế tri thức từ góc độ quốc phòng - an ninh” của Nguyễn Nhâm (Tạp chí Thông tin khoa học xã hội tháng 3 - 2001) cho rằng phương thức lưỡng dụng hóa những ngành, vùng, lĩnh vực kinh tế của quốc gia nhằm phục vụ cho cả nhu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là phương thức tối ưu, có ý nghĩa lớn trong vận dụng quy luật kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh trong thời đại kinh tế tri thức. Một số bài viết tập trung làm rõ nội dung kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng, gắn các vùng lãnh thổ với các vùng kinh tế trọng điểm; kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh trong một số ngành kinh tế mũi nhọn hoặc có quan hệ gắn bó mật thiết với quốc phòng; kết hợp phát triển kinh tế - 4 xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Một số bài viết đề cập tới mối quam hệ giữa mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với yêu cầu đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn miền núi, biên giới, nơi có địa hình phức tạp, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, kinh tế và cơ sở hạ tầng kém phát triển. Ngoài ra, có một số cuốn sách, một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về quá trình kết hợp kinh tế với quốc phòng trên phạm vi cả nước hoặc trong một địa phương như sách “Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam” của Trần Xuân Trường - Nguyễn Anh Bắc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998; luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử “Tìm hiểu quá trình kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn tỉnh Hà Bắc, giai đoạn 1997-1995” của Vũ Hữu Luận, Hà Nội, 1996; luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng theo tinh thần đổi mới” của Dương Quang Huy, Hà Nội, 1998; luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử “Đảng bộ Nghệ An lãnh đạo thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng (1991-1996)” của Đậu Hữu Huyền, Hà Nội, 2000... Những công trình và các bài viết đã khẳng định tầm quan trọng, vị trí, mối quan hệ xây dựng kinh tế với quốc phòng trong chiến lược xây dựng và BVTQ; khẳng định Đảng CSVN đã quan tâm chỉ đạo, nêu lên những thành tựu chung trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước qua các thời kì; là các gợi mở giúp cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài. Song cho đến nay vấn đề Đảng bộ Vĩnh Phúc lãnh đạo thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng trong thời kỳ 1997 - 2010, dưới góc độ của khoa học lịch sử Đảng thì chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống đầy đủ được công bố. 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU * Mục đích của luận văn: Làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2010; từ đó, rút ra nhận xét và một số kinh nghiệm phục vụ hiện tại. 5 * Nhiệm vụ nghiên cứu: + Phân tích vị trí của tỉnh Vĩnh Phúc trong chiến lược kinh tế và quốc phòng của cả nước. + Trình bày có hệ thống và phân tích các chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với việc thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng. + Nêu lên nhận xét đánh giá về thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng; đúc rút một số kinh nghiệm chủ yếu. 4. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU * Đối tượng nghiên cứu: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh phúc về kết hợp kinh tế với quốc phòng * Phạm vi nghiên cứu: + Nội dung: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về kết hợp kinh tế với quốc phòng + Thời gian: Từ năm 1997 đến năm 2010 + Chủ yếu nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận sử học macxit, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử , phương pháp lôgic và sự kết hợp hai phương pháp này; phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh và hệ thống hóa. Luận văn còn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác thuộc chuyên ngành: sử liệu học, lưu trữ học, thông tin thư viện. 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN - Đóng góp về mặt khoa học: Hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng đường lối chung của Đảng vào thực tiễn chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, vào việc lãnh đạo thực hiện sự kết hợp đó trong những năm 1997 - 2010 trên địa bàn tỉnh. - Đóng góp về mặt tư liệu: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu lịch sử tỉnh Vĩnh Phúc. 6 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương và năm tiết Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2005 Chương 2: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với việc kết hợp kinh tế với quốc phòng từ năm 2006 - 2010 Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm. 7 Chƣơng 1 CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO KẾT HỢP KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005 1.1. Khái quát về quá trình kết hợp kinh tế với quốc phòng ở tỉnh Vĩnh Phúc trƣớc năm 1997 1.1.1. Tầm quan trọng của việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Kinh tế và quốc phòng là hai lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, kinh tế là “tổng thể các hoạt động của một cộng đồng người, một nước, liên quan đến toàn bộ quá trình hay một phần của tổng quá trình bao gồm các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm” [41, tr. 584]. Kinh tế là một phạm trù cơ bản, phản ánh một lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn liền với việc tạo ra các điều kiện vật chất cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu của toàn xã hội trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Với tư cách là một hệ thống tổ chức của quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội, kinh tế luôn là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, quốc phòng là “công cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học... của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối; trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô. Quốc phòng trở thành hoạt động của cả nước, trong đó lực lượng vũ trang làm lực lượng nòng cốt” [9, tr. 848]. Từ đó, khẳng định rằng, kinh tế và quốc phòng là hai lĩnh vực khác nhau: kinh tế là lĩnh vực xây dựng, sản xuất và quốc phòng là lĩnh vực phòng 8 thủ bảo vệ đất nước. Hai lĩnh vực này mặc dù có đặc điểm và quy luật riêng nhưng giữa kinh tế và quốc phòng có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Kinh tế là cơ sở vật chất tạo nên sức mạnh quốc phòng, kinh tế mạnh là điều kiện cho quốc phòng mạnh. Sức mạnh và tiềm lực kinh tế là cơ sở của sức mạnh và tiềm lực quốc phòng. Xây dựng, phát triển kinh tế là tạo tiền đề vật chất quan trọng để từng bước xây dựng tiềm lực các mặt cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Ngược lại quốc phòng được đảm bảo và tăng cường sẽ tạo môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng đất nước về mọi mặt. Như vậy, chỉ trên cơ sở tiềm lực quốc phòng vững mạnh mới tạo ra môi trường hòa bình, ổn định cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, kinh tế và quốc phòng có những mặt không đồng nhất với nhau do kinh tế và quốc phòng chịu sự chi phối, tác động của hai hệ thống quy luật khác nhau, đó là: quy luật kinh tế và quy luật chiến tranh. Trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, không phải lúc nào lợi ích kinh tế cũng thống nhất với lợi ích quốc phòng, lợi ích quốc phòng cũng đi đôi với lợi ích kinh tế, thậm chí có lúc còn trái ngược nhau. Chính vì vậy, việc hiểu đúng thực chất và giải quyết đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ kinh tế với quốc phòng, trong đó có vấn đề kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng trong thực tiễn lãnh đạo, quản lý đất nước có ý nghĩa to lớn đối với sự ổn định và phát triển bền vững của một quốc gia. Phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng thống nhất trong một mục đích làm cho đất nước hòa bình, ổn định, dân giàu, nước mạnh, đảm bảo và giữ vững chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc. Sự ổn định và phát triển của kinh tế là cơ sở để tăng cường tiềm lực quốc phòng, còn quốc phòng được củng cố vững chắc là điều kiện đảm bảo cho kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Mỗi thành tựu phát triển kinh tế phải là một bước tăng thêm tiềm lực quốc phòng, tăng cường thế và lực của đất nước. Mỗi bước củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, trước hết phải nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế, tạo 9 môi trường, điều kiện thuận lợi và an toàn cho sự nghiệp xây dựng đất nước và phát triển kinh tế. Quốc phòng phải trở thành nhân tố bên trong của quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Những yêu cầu của quốc phòng xâm nhập “một cách tự nhiên” vào bên trong các quá trình kinh tế, trở thành phương hướng tất yếu của kinh tế, không đối lập với kinh tế. Cần thấy rõ củng cố, bảo đảm quốc phòng là nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế của đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Ở đâu có hoạt động kinh tế, ở đó phải tính đến yêu cầu bảo đảm quốc phòng, tạo ra yếu tố sẵn sàng phục vụ quốc phòng, đáp ứng yêu cầu của quốc phòng. Mặt khác, ở đâu có triển khai nhiệm vụ quốc phòng, ở đó phải nhằm bảo vệ và tạo môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển kinh tế. Xây dựng quốc phòng là để bảo vệ công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, đồng thời trong quá trình triển khai nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng cũng tạo ra những nhân tố góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng kinh tế. “Thực chất mối quan hệ kết hợp kinh tế với quốc phòng là mối quan hệ gắn kết chặt chẽ, là quan hệ hữu cơ giữa hai nội dung trong một thể thống nhất. Không nên hiểu kết hợp theo nghĩa chỉ là động viên cái hiện có để phục vụ lẫn nhau mà điều kiện quan trọng hơn là kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh tế và quốc phòng ngay trong quá trình quy hoạch, hình thành tiềm lực kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh của đất nước” [64, tr. 14-15]. Từ sự phân tích trên, có thể thấy rõ, kết hợp kinh tế với quốc phòng là hoạt động chủ động của một quốc gia trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật của hai lĩnh vực kinh tế và quân sự, nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế, đồng thời ngăn chặn, hạn chế các tác động tiêu cực của chiến tranh, của phát triển quốc phòng đối với sự phát triển kinh tế. Sự kết hợp đó là hoạt động của toàn xã hội song vai trò quyết định thuộc về nhà nước. Lịch sử đã chứng minh, không có quốc gia, dân tộc nào trong quá trình xây dựng đất nước, chăm lo phát triển kinh tế lại không đi đôi với kế sách củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng. Mỗi quốc gia tùy theo hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm chế độ chính trị - xã hội và điều kiện 10 cụ thể để tiến hành các chủ trương, giải pháp, nội dung, phương thức kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng. Với dân tộc Việt Nam, kết hợp kinh tế với quốc phòng còn là sự tiếp nối truyền thống lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ nước. Đó cũng là một chiến lược xuyên suốt của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Kết hợp kinh tế với quốc phòng phải thể hiện trong xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý; có chiến lược kinh tế đối ngoại đúng đắn; xây dựng và hoàn thiện không ngừng hệ thống quan hệ sản xuất; quân đội làm tốt chức năng vừa là lực lượng bảo vệ các thành quả kinh tế - xã hội của đất nước, vừa là lực lượng xây dựng kinh tế với quốc phòng trong đào tạo bồi dưỡng nhân lực, trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ. Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng do nắm vững quy luật và biết kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh một cách nhất quán bằng những chủ trương sáng tạo phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII (6/1991) thảo luận và thông qua: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. “Sự ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế. Từng bước xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang, trong đó có công an nhân dân được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại” [18, tr. 53]. Để cụ thể hóa Cương lĩnh năm 1991, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp để thực hiện việc kết hợp này. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của 11 Đảng đã chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, được thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương và trong các dự án đầu tư lớn. Phân bố hợp lý việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trên các vùng của đất nước, vừa phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội, vừa sử dụng được cho quốc phòng, an ninh khi cần thiết. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia. Hoàn chỉnh chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia phù hợp với tình hình mới, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, mở rộng kinh tế đối ngoại. Phát triển công nghiệp quốc phòng và kết hợp sử dụng năng lực đó để tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Coi trọng sản xuất một số mặt hàng vừa phục vụ kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng - an ninh” [21, tr. 50]. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 đã nhấn mạnh: “Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh theo phương châm: phát triển kinh tế xã hội là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện tốt đường lối đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội củng cố hòa bình, ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển, đảo. Sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh phải được thực hiện ngay trên từng địa bàn lãnh thổ, từ công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch và hình thành các dự án đầu tư phát triển. Xây dựng tỉnh, huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc” [21, tr. 70]. Trong tiến trình đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước nhận thức và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng ngày càng hoàn thiện, đầy đủ. Kết hợp phát triển kinh tế với 12 bảo đảm quốc phòng ngày càng trở thành yêu cầu tất yếu trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh của đất nước. Điều 48, Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quy định: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội; xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên quốc phòng; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước” [35, tr. 138]. Mọi chủ trương, chính sách phát triển đất nước phải đặt vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng ngay trong hoạch định quy hoạch, kế hoạch kinh tế hay trong hoạch định quy hoạch, kế hoạch quốc phòng; đặt nhiệm vụ củng cố quốc phòng ngay trong xây dựng kinh tế và đặt yêu cầu xây dựng kinh tế ngay trong củng cố quốc phòng. Đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển đúng định hướng XHCN là một nội dung và yêu cầu quan trọng trong việc thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng. Việc xây dựng sức mạnh toàn diện đất nước đặt ra yêu cầu vừa tích cực phát triển kinh tế, giữ vững định hướng XHCN trong quá trình hội nhập, vừa chú trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Kết hợp kinh tế với quốc phòng phải trở thành một tiêu chuẩn quan trọng đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội và hoạt động của quốc gia, bảo đảm phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng. Từ những quan điểm trên của Đảng, yêu cầu đặt ra đối với việc kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam hiện nay là: - Trong khi định ra đường lối, chính sách phát triển kinh tế phải quán triệt đường lối chính trị, quan điểm quốc phòng toàn dân của Đảng, thực hiện 13 thắng lợi nhiệm vụ giữ vững trật tự, hòa bình, ổn định về các mặt: chính trị, kinh tế, xã hội; không ngừng tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần tăng cường quốc phòng, an ninh, nâng cao khả năng tự bảo vệ ở từng cơ sở, địa phương, để nếu tình thế bắt buộc nổ ra chiến tranh nhanh chóng chuyển thành sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân. - Xây dựng quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang có khả năng bảo vệ chế độ, bảo vệ độc lập dân tộc, giữ gìn hòa bình, tạo điều kiện an ninh thuận lợi nhất cho phát triển kinh tế - xã hội. Dựa vào sự phát triển kinh tế của đất nước, lấy phát triển kinh tế - xã hội làm nền tảng, thông qua các hoạt động kinh tế - xã hội, kịp thời tận dụng những thành tựu mới nhất để củng cố quốc phòng, xây dựng sức mạnh quân sự. Sử dụng hợp lý mọi tiềm năng của các lực lượng vũ trang làm kinh tế, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế trong các hoạt động quốc phòng. Duy trì ổn định quan hệ hợp lý giữa các tổ chức chuyên ngành quân sự với các hoạt động xã hội khác, tạo thành cơ cấu khoa học, hợp lý về phân công lao động xã hội. Ngày nay, nước Việt Nam đã độc lập và tiến hành xây dựng, phát triển kinh tế, khắc phục sự nghèo nàn lạc hậu, tiến tới hiện đại văn minh. Song kẻ thù không từ bỏ âm mưu phá hoại công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước Việt Nam bằng những âm mưu, thủ đoạn thâm độc hòng gây mất ổn định tạo điều kiện gây bạo loạn, lật đổ từ trong nước và xâm lược từ ngoài vào. Kinh tế, văn hoá phát triển là điều kiện cần thiết và quyết định nhất đối với sự tồn tại, phát triển của đất nước, của chế độ xã hội. Song điều không kém phần quan trọng là: đi liền với sự phát triển kinh tế là việc đề cao cảnh giác, tăng cường tiềm lực quốc phòng. Bởi lẽ, nếu lĩnh vực quốc phòng lơi lỏng, yếu kém, hoặc có những sai lầm thì kẻ thù sẽ chớp thời cơ để tiến công và khi đó không thể sửa chữa sai lầm, cái giá phải trả là mất độc lập, tự do, cũng có nghĩa là mất luôn cả chế độ xã hội, mất chính quyền, mất tất cả các thành quả cách mạng do nhân dân giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hơn nữa thực tế cho thấy, không phải các nước giàu về kinh tế hoàn toàn 14 không bị xâm lược và không hẳn phải có kinh tế mạnh mới giữ được độc lập. Khẳng định đặc điểm này là để nhấn mạnh: trong sự lãnh đạo của mình, việc kết hợp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là việc làm quan trọng và thường xuyên của Đảng. Trong điều kiện hiện nay khi coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu Đảng không một phút lơi lỏng lãnh đạo lĩnh vực quốc phòng. Cảnh giác để không bị bất ngờ là điều kiện đầu tiên đảm bảo chiến thắng. Các diễn biến trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội thường chậm hơn so với lĩnh vực quốc phòng. Do đó, nếu không chuẩn bị tốt lực lượng và phương pháp tác chiến thì sẽ bị bất ngờ, có khi bị thất bại nhanh chóng. Ngày nay, vũ khí hiện đại hơn trước rất nhiều lại được ngụy trang kín đáo và có khả năng cơ động nhanh, có thể gây chiến tranh chớp nhoáng với những phương tiện giết người hàng loạt, kể cả vũ khí có sức huỷ diệt lớn. Tình hình trên đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, hành động xâm lược, can thiệp từ bên trong. Mặt khác, không được coi nhẹ chủ quan với các vấn đề phát sinh trong nước. Những mâu thuẫn trong kinh tế, dân tộc, sự bất bình của một bộ phận lớn nhân dân đối với hành vi sai trái của một số cán bộ, đảng viên, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân... nếu không được giải quyết kịp thời và êm thấm có thể phát triển thành các “điểm nóng” để kẻ địch lợi dụng đẩy thành sự kiện có vũ trang, thành xung đột chính trị, khi đó việc đối phó sẽ rất phức tạp... Xuất phát từ thực tế và yêu cầu mới của tình hình đòi hỏi việc kết hợp kinh tế và quốc phòng không thể tiến hành theo tư duy cũ như trước đây. Trong điều kiện hiện nay vấn đề đặt ra cho công tác quốc phòng là phải xây dựng toàn diện cả xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng kế hoạch tác chiến, xây dựng kế hoạch (chống bạo loạn lật đổ)... thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng không chỉ là giải quyết vấn đề quân sự mà còn bao hàm cả vấn đề quân sự. Do đó, sự ổn định chính trị là một yêu cầu để xây dựng và phát triển là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh chính trị - tinh 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan