Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận môn lịch sử cận đại...

Tài liệu Tiểu luận môn lịch sử cận đại

.DOCX
21
573
92

Mô tả:

MỞ ĐẦU “Tác động của văn hoá phương Tây và Pháp đối với sự biến đổi văn hoá văn hoá giai đoạn 1884 – 1945” Lịch sử dân tô ôc Viê ôt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Sự xâm lược của thực dân Pháp đối với dân tô ôc ta là thời kỳ đau thương của dân tô ôc, bên cạnh sự đổ máu, những hy sinh, tổn thất của dân tô ôc và nhân dân ta phải gánh chịu thì chúng ta cũng phải thấy rằng người Pháp cũng đem lại cho Đất nước ta những giá trị nhất định, tronhg đó phải kể đến những giá trị văn hóa mà Pháp đã để lại, nó cùng với những giá trị văn hóa truyền thống dân tô ôc góp phần làm phong phú nền văn hóa Viê ôt Nam. Lịch sử cho thấy chúng ta thấy văn hóa là điểm tiếp xúc đầu tiên và xuyên suốt của mối quan hệ giữa Việt - Pháp, đầu tiên là những người Pháp đặt chân đến Việt Nam là để truyền giáo - phổ biến một sản phẩm văn hóa mới tại đất nước này. Nhưng sự can thiệp của người Pháp ngày càng sâu khi thực dân Pháp chính thức xâm lược Việt Nam, biến nước ta từ xã hội phong kiến dần chuyển sang xã hội nửa phong kiến nửa thực dân. Xã hội bắt đầu xáo trộn phân hóa mạnh hơn, với tư cách là một công cụ vô ý thức của lịch sử, nó phá vỡ cái vòng phát triển luẩn quẩn của một xã hội nông nghiệp cổ truyền... công cuộc khai thác áp bức bóc lột thuộc địa của Pháp đã vô tình khiến nền văn hóa Việt Nam được mở của giao lưu với văn hóa phương Tây mà trực tiếp là với van hóa Pháp, nền văn hóa Việt nam ngàn năm phong kiến vốn chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, nay có cơ hội được mở cửa hòa nhập, tiếp thu những luồng văn hóa phương Tây mới mang tính hiện đại. Giai đoạn từ 1858 đến 1945 là giai đoạn văn hoá phương Tây bắt đầu thâm nhập, cùng lúc văn hoá Trung Hoa suy thoái đi, các yếu tố thuộc bản sắc truyền thống của văn hoá Việt Nam được dịp phát huy tác dụng, nhìn ở diễn trình văn hoá, đây được xem là một sự đứt gãy chưa từng có. Non một thế kỉ văn hoá Việt Nam có những biến thiên ghê gớm. Từ cách ăn, mặc, đến các 1 phương tiện đi lại, từ điêu khắc ở đình làng đến tượng đài ở những nơi công viên, từ thơ Đường sang thơ mới, từ văn vần sang văn xuôi, tiểu thuyết, từ chữ Hán chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ, tất cả đều đi tới hoà nhập với thế giới hiện đại.Tuy nhiên, bản sắc văn hoá dân tộc vẫn không mất đi, không bị thay đổi. Nói các khác, đó là văn hoá Việt Nam, là sự không chối từ về văn hoá trong việc tiếp thu các yếu tố ngoại sinh . Sự giao lưu và kế thừa liên tục làm cho văn hoá Việt Nam trở thành một khối vững chắc xuyên suốt chiều dài lịch sử, tạo sức mạnh để chúng ta giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa. Ngày nay dù sự tiếp biến văn hóa là đa dạng, song dù trong bối cảnh nào nền văn hóa Việt Nam cũng mang những săc thái riêng biệt, thực sự đậm đà bản sắc dân tộc hòa nhập với thế giới. Trong phạm vi của một nội dung tiểu luận tôi xin được chọn đề tài “Sự chuyển biến về văn hóa Việt Nam từ khi Pháp xâm lược năm 1858 đến năm 1945” làm đề tài tiểu luận. Nội dung đề tài xin trình bày bối cảnh lịch sử của quá trình giao lưu văn hoá Việt –Pháp, chính sách văn hóa của Pháp và nội dung giao lưu văn hoá Việt – Pháp trong giai đoạn 1858-1945. Với những hiểu biết hạn hẹp của bản thân không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, rất mong được quý thầy cô góp ý để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn 2 NỘI DUNG I. Bối cảnh lịch sử và chính sách văn hóa của thực dân Pháp. 1.1. Tình hình xã hội Việt Nam giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX. Đêm 31/8/1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tháng 6/1884, triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt, từ đó Pháp thiết lập sự thống trị ở toàn Việt Nam. Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho đất nước ta thay đổi trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, xã hội... trong đó có sự thay đổi về văn hóa Việt Nam. Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố mọi sự chống đối; dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô cùng khổ cực. Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất (1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt Nam là trọng điểm, nền kinh tế nước ta tuy có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp. Sự thay đối tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam: Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam đã thay đổi. Việt Nam từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Những giai cấp cũ còn tồn tại: Giai cấp địa chủ(đại địa chủ làm tay sai cho Pháp, trung và tiểu địa chủ có tinh thần cách mạng; Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị áp bức bóc lột nặng nề, một cổ hai tròng. 3 Xuất hiện giai cấp mới: Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897 - 1914) và phát triển khá nhanh; Tầng lớp tiểu tư sản gồm người buôn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên... Trong xã hội Việt Nam nối lên hai mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản thứ nhất đồng thời là mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Mâu thuẫn cơ bản thứ hai giữa nhân dân Việt Nam, đa số là nông dân với địa chủ phong kiến.1 Như vậy cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực do đó kéo theo sự thay đổi của Dân tộc Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, xã hội... Từ xã hội phong kiến Việt Nam dần chuyển sang xã hội nửa phong kiến nửa thực dân. Chính cái phần nửa thực dân này xét về mặt xã hội hóa nước ta đã vận động xa hơn nhiều so với cả ngàn năm phong kiến như đứng yên. Xã hội bắt đầu xáo trộn phân hóa mạnh hơn. Nhờ đó đã vô tình mở ra cánh cửa cho trí thức Việt Nam tiếp xúc với nên văn hóa Pháp pha loãng tính thủ cựu sau lũy tre làng. 1.2. Chính sách văn hoá của thực dân Pháp. Văn hóa Việt Nam tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ rất sớm, vào khoảng thế kỷ XVI, khi các giáo sĩ Kitô đi truyền đạo, khi các thuyền buôn phương Tây đi tìm thị trường. Nhưng văn hóa phương Tây chỉ thực sự ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, sau những đợt khai thác thuộc địa. Bộ máy thống trị thực dân đã thực thi một chính sách văn hóa nhằm củng cố địa vị thống trị của chúng ở Đông Dương. Chính sách văn hóa của Pháp tại Việt Nam: Thực dân Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hoá; xoá bỏ hệ thống giáo dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Pháp mở nhà tù, trại giam nhiều hơn trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hạn chế 1 https://www.wattpad.com/. tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX 4 xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị. Thực dân Pháp cho rằng: “Đối với cái giống nòi Annammit ấy, chỉ có một cách tốt để cai trị nó – đó là ách thống trị bằng sức mạnh… Truyền học vấn cho bọn Annammit hoặc cho phép chúng tự có học vấn, tức là một mặt cung cấp cho chúng những súng bắn nhanh để chống lại chúng ta và mặt khác đào tạo những con chó thông thái gây rắc rối hơn là có ích”.2 Tuy nhiên trong quá trình thực hiện không phải Pháp xóa toàn bộ nền văn hóa cũ của nước ta, mà chúng vẫn giữ lại một số nét văn hóa truyền thống có lợi cho sự duy trì thống trị của chúng nhưng đồng thời có lợi cho sự bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc trên một số lĩnh vực: - Về tổ chức đời sống xã hội, chính sách chia để trị của thực dân Pháp chỉ tác động tới phần nổi ở bên trên với cả ba vùng: Bắc, Trung, Nam. Cơ cấu xã hội cơ sở: làng xã vẫn tồi tại, thậm chí, người Pháp còn duy trì tổ chức làng xã nhằm sử dụng bộ máy kì hào phong kiến để làm các công việc cho chính quyền thuộc địa. Ý đồ này bộc lộ rất rõ qua lời của viên Toàn quyền Pôn Đume (Paul Doumer): “Theo tôi, duy trì trọn vẹn, thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ kĩ mà chúng ta đã thấy, đó là một điều tốt "3. Theo cách tổ chức này thì mỗi làng sẽ là một nước cộng hòa bé nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyền lợi địa phương. Đó là một tập thể được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỉ luật và rất có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên về những cá nhân thành viên của nó, những cá nhân mà chính quyền cấp trên có thể không cần biết tới, điều đó rất thuận lợi cho công việc của chính quyền. Tác động ngoài ý muốn của chính quyền cai trị đối với văn hóa từ thái độ này lại là sự tạo điều kiện để văn hóa, nhất là văn hóa dân gian của người Việt được giữ vững. Bởi lẽ, cơ cấu tổ chức làng xã không bị phá vỡ. 2 Hồ Chí Minh toàn tập, T1, NXB Chính trị Quốc gia, H. 2011, tr.11 3 Đại cương lịch sử Việt Nam tập II 5 Tuy nhiên việc người Pháp còn bảo lưu chế độ "tự trị" của làng xã, chỉ kiểm soát thông qua bộ máy kỳ hảo ở làng quê. Điều này, một mặt, tạo điều kiện gìn giữ được nền văn hóa dân gian quý báu của người Việt, nhưng mặt khác, lại kìm giữ nông thôn Việt trong mối quan hệ phong kiến tối tăm, cổ hủ, bảo lưu tình trạng bùn lầy nước đọng ở làng quê. 4 - Trong lĩnh vực giáo dục Ban đầu người Pháp duy trì Nho học với chế độ khoa cử đã lỗi thời nhằm lợi dụng Nho giáo để duy trì trật tự xã hội. Việc này kéo dài mãi đến dầu thế kỉ XX, ở Trung Kì năm 1918, ở Bắc Kì mới bãi bỏ chế độ thi cử bằng chữ Hán. Tuy nhiên, để có công chức cho chính quyền thuộc địa, thực dân Pháp vẫn phải mở các cơ sở đào tạo loại này. Năm 1897, chúng mở trường Hậu bổ ở Hà Nội, cải tổ trường Quốc Tử Giám ở Huế, mở trường Sư phạm sơ cấp ở Hà Nội. Đồng thời, đối phó với các phong trào yêu nước như Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, Duy Tân, người Pháp cùng với Nam triều thành lập bộ Học, sửa đổi quy chế thi Hương và Thi Hội. Năm 1908, viên toàn quyền Klôbuycốpxki vẫn bắt đóng cửa trường đại học cho đến năm 1917, viên toàn quyền Anbe Xarô mới cho mở cửa trở lại. Tuy là trường đại học nhưng các văn bằng của trưòng này không có sự tương đương với văn bằng ở chính quốc. Ngoài các trường học, người Pháp còn mở một số cơ sở nghiên cứu khoa học như Viện vi trùng học ở Sài Gòn (1891), Nha Trang (1896), Hà Nội (1900), trường Viễn Đông Bác Cổ (1898) v.v… Mục đích giáo dục của chính quyền thuộc địa không hoàn toàn là vì nâng cao dân trí cho người dân thuộc địa, mà chủ yếu nhắm đào tạo ra một đội ngũ công chức, để phục vụ cho nhà nước bảo hộ. Một tầng lớp trí thức mới xuất hiện sẽ thay thế địa vị của lớp Nho sĩ cũ trong xã hội, trên văn đàn. Đồng thời, nếu như trong suốt hơn hai thế kỉ cho đến năm 60 của thế kỉ XIX, chữ Quốc ngữ chỉ dùng trong nội bộ đạo Thiên chúa, để in các sách đạo, thì sau khi chiếm được Nam Kì, người Pháp đã nhìn thấy chữ Quốc ngữ là công 4 Đỗ Lai Thúy. Việt Nam tiếp thu văn hóa Phương Tây dưới thời Pháp thuộc 6 cụ thuận lợi cho việc cai trị và đồng hóa văn hóa, vì thế, họ khuyến khích học chữ Quốc ngữ. Trong trường học ở Nam kì, chữ Quốc ngữ được dạy trong các trường học, trong các công văn giấy tờ bên cạnh chữ Nho. Như vậy là, ban đầu, đi từ thứ chữ dùng trong nội bộ đạo Thiên chúa tới chỗ phổ cập, chữ Quốc ngữ được truyền bá bằng phương pháp cưỡng chế. Mặt khác, để thông báo các chính sách thực dân, và ca ngợi công ơn khai hóa, truyền bá văn minh Đại Pháp, thực dân Pháp cho báo chí phát triển ở Nam Kì sau rộng ra trên cả đất nước. Tựu trung, chính sách về phương diện văn hóa của người Pháp nhằm phục vụ cho sự cai trị và các công cuộc khai thác thuộc địa của chính quốc. Nằm ngoài ý định của kẻ đi xâm lược, tác động của những chính sách này đối với diễn trình văn hóa Việt Nam giai đoạn này không phải là không có. II. Sự chuyển biến về văn hoá khi Pháp xâm lược (từ 1858 đến 1945) 2.1. Sự chuyển biến về văn hoá vật chất Ngay từ đầu, mục đích của người Pháp là khai thác thuộc địa, và cũng ngay từ đầu Pháp triến khai phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông là nhằm phục vụ mục đích đó. Tuy nhiên bên cạnh đó đồng thời việc xây dựng các kết cấu hạ tầng vật chất đã tạo điều kiện cho văn hóa Việt nam có những sự chuyển biến nhất định. 2.1.1. Sự chuyển biến trong lĩnh vực đô thị Từ cuối thế kỷ XIX, đô thị Việt Nam từ mô hình cổ truyền với chức năng trung tâm chính trị đã chuyển theo mô hình đô thị công nghiệp – thương nghiệp chú trọng chức năng kinh tế. Nhiều nhà máy, xí nghiệp hình thành trong các đô thị , ở đô thị lớn hình thành một tầng lớp tư sản dân tộc. Các trường trung học và đại học cũng ra đời trong các đô thị, nhiều đô thị và thị trấn nhỏ cũng dần dần phát triển. Sự phát triển các đô thị dẫn đến sự phát triển của kiến trúc đô thị. Các kiến trúc kiểu Tây phương được đưa vào Việt Nam, nhưng được Việt Nam hoá 7 khiến các công trình này không lạc điệu giữa những công trình kiến trúc cổ truyền. Chẳng hạn toà nhà của trường đại học Đông dương (nay là trường Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện Viễn Đông Bác cổ (nay là Viện bảo tàng lịch sử), Bộ ngoại giao, Phủ toàn quyền, Thư viện Quốc gia…ở Hà Nội. Hệ thống mái ngói, bố cục kiểu tam quan, mái hiên, mái che cửa sổ ra xa để tránh ánh nắng chiếu và mưa hắt khiến các công trình này ăn nhập với môi trường xung quanh. Ở thành phố Sài Gòn, toà Đô Chánh (nay là Uỷ ban nhân dân thành phố) được xây từ năm 1898, dù đặt viên đá đầu từ năm 1873, đến năm 1909 mới hoàn thành. Các công trình kiến trúc đô thị Sài Gòn chia thành hai giai đoạn: giai đoạn bình định bằng bạo lực, kiến trúc được “bê nguyên xi nghệ thuật địa phương mà họ khinh miệt”. Nhưng ở giai đoạn sau “các công trình kiến trúc, văn hoá, xã hội đã chú ý hơn đến yếu tố địa lí, khí hậu và nghệ thuật địa phương.5 Xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách phương Tây với tính cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam, chẳng hạn các toà nhà của Trường Đại học Đông Dương, Bộ Ngoại giao, Trường Viễn Đông... Đã sử dụng hệ thống mái ngói, bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát giác làm nổi bật tính dân tộc. Ở thành phố Sài Gòn, toà Đô Chánh (nay là trụ sở uỷ ban nhân dân thành phố) , được xây dựng từ năm 1898, Toà án được xây từ năm 1873… Các công trình kiến trúc đô thị Sài Gòn được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn bình định bằng bạo lực, kiến trúc được bê nguyên xi nghệ thuật địa phương mà họ khinh miệt . Nhưng ở giai đoạn sau các công trình kiến trúc, văn hoá, xã hội đã chú ý hơn đến yếu tố địa lý, khí hậu và nghệ thuật địa phương. Kiến trúc Pháp đã mang đến vẻ đẹp không chỉ thẩm mỹ Pháp mà còn mang dáng dấp Việt Nam. Sự chuẩn mực chi tiết vẻ đẹp tổng thể đã góp phần 5 Nguyễn Đình Thành Việt Nam tiếp thu văn hóa Phương Tây dưới thời Pháp thuộc . http://thethaovanhoa.vn/ 8 thay đổi nhận thức thẩm mỹ. Cư dân đô thị được tiếp nhận phong cách văn hóa cao hơn. Vậy là bên cạnh những quan niệm thẩm mỹ truyền thống có sự đan xen nhất định thẩm mỹ hiện đại. 2.1.2. Sự chuyển biến trong lĩnh vực công nghiệp và giao thông vận tải Về công nghiệp Xuất hiện các loại cây công nghiệp từ nước ngoài mang vào như cao su, cà phê... phát triển một số cây công nghiệp trong nước đay, cói, chè... Nhiều ngành công nghiệp khác nhau ra đời như khai mỏ, chế biến nông lâm sản, công nghiệp thực phẩm... làm cho bộ mặt kinh tế Việt Nam trước đây chủ yếu là nông nghiệp thì bây giờ có thêm các ngành khác. Điều đó làm cho truyền thống văn hóa lâu đời của dân Việt Nam là nông nghiệp trồng luá nước, đến nay xuất hiện lối tư duy và văn hóa ứng xử mới thích nghi với nền công nghiệp xuất hiện, đem lại sự nhận thức văn hóa mới cho người Việt Nam. Xã hội với cấu trúc tứ dân (Nông công thương trí) đã có những đổi thay. Công và thương phát triển nhanh hơn làm xuất hiện giai cấp công nhân và lực lượng trí thức tiến bộ. Về giao thông vận tải Hàng chục vạn dân đinh đã được huy động xây dựng hệ thống đường bộ, đường sắt, sân bay, bến cảng... Những con đường xuyên rừng núi, đến các đồn điền hầm mỏ. Toàn bộ Đông Dương không nơi nào không có đường giao thông nếu ở đó có những tài nguyên quý giá. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất đã tạo ra những con đường liên tỉnh dài tới 20 ngàn Km. Đường thuỷ, nhất là ở Nam bộ được tu bổ, khai thông tới năm 1914 tổng số độ dài đường thuỷ đã tới 1.745 Km. Hệ thống đường sắt hoàn thành với chiều dài 2059 Km được đưa vào sử dụng vào năm 1936. Những phương tiện giao thông hiện đại đang từng bước thay thế các phương tiện giao thông truyền thống của Việt Nam. Nhiều chiếc cầu sắt hiện đại, rất dài cũng được bắc qua những con sông lớn ở nước ta (Cầu Long Biên).6 6 http://hoctap24h.vn/van-hoa-viet-nam-tu-1858-den-1945 9 Hệ thống đường sá, giao thông và kiến trúc đô thị phát triển tạo cho diện mạo văn hoá vật chất giai đoạn này có những nét mới và khác biệt hẳn so với các giai đoạn trước đó. 2.2. Sự chuyển biến về văn hoá tinh thần. 2.2.1. Sự chuyển biến về giáo dục. Trước khi tiếp xúc với phương Tây Việt Nam chỉ có một chế độ giáo dục: học chữ Hán để đi thi. Nó phổ biến toàn quốc rất chặt chẽ ở chế độ thi cử, nhưng hết sức lỏng lẻo về tổ chức. Những ông đồ, thường là học trò thi không đỗ đạt, dạy ở những nhà có máu mặt, trước hết là dạy con cháu gia chủ rồi một số học sinh trong làng. Cách học là học thuộc lòng, rồi tập làm câu đối, làm văn làm bài. Ở phủ, huyện có huấn đạo, ở tỉnh có đốc học để tổ chức những kỳ thi tập dượt. Sau đó là thi. Ban đầu người Pháp bảo lưu chế độ giáo dục và thi cử theo Nho Giáo vì nghĩ rằng, với mục đích trị bình, Nho Giáo sẽ giúp xã hội Việt Nam ổn định trở lại. Nhưng chẳng bao lâu sau, trước nhu cầu cần viên chức hành chính, thông ngôn, thư ký cho các cơ quan, xí nghiệp, công ty..., họ đã bãi bỏ chế độ khoa cử và xây dựng hệ thống giáo dục theo kiểu phương Tây: từ tiểu học, trung học tới đại học. Để đào tạo người làm việc cho mình, thực dân pháp đã buôc học trò học tiếng Pháp, bắt theo hệ thống giáo dục kiểu phương Tây. Năm 1898, chương trình thi Hương có thêm hai môn Quốc ngữ và Pháp văn. Năm 1906 lập ra Nha Học chính Đông Dương và định ra ba bậc học cơ sở là ấu học, tiểu học và trung học. Trong những năm này, nhà cầm quyền lập ra môt số trường Cao đẳng và đến năm 1908 thì mở ra trường Đại học Đông Dương. Hệ thống Nho học tàn lụi dần . Đến năm 1915 ở Bắc kỳ và 1918 ở Trung kỳ việc thi Hương bị bãi bỏ, chấm dứt nền Nho học Việt Nam. 10 Mặc dù giáo dục đào tạo chủ yếu đào tạo ra những người phục vụ cho chế độ thực dân và nhằm mục đích khai thác thuộc địa nhưng bên cạnh đó ý nghĩa phái sinh cũng dần được lập trật tự mới. Người Việt Nam giàu có bắt đầu cho con em du học tại Pháp. Khi trí tuệ được khai mở thì văn hóa cũng được phát triển hơn nhờ các cuộc giao lưu.7 Hệ thống giaó dục mới cùng với sách vở phương Tây đã góp phần giúp người Việt Nam mở rộng tầm mắt, tiếp xúc với các tư tưởng dân chủ tư sản, rồi sau là tưởng Mácxít . Truyền thống đạo học cùng với lối tư duy tổng hợp nay được bổ sung thêm kiểu tư duy phân tích. Nó được rèn luyện qua báo chí, giáo dục và những hoạt động của những cơ quan như Trường Viễn Đông Pháp ( thành lập 1901 tại Hà Nội ) Ngoài ra, người Pháp còn mở một số cơ sở nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur ỏ Sài Gòn (1891), Viện Hải Dương học (tục gọi là Nhà Cá) ở Nha Trang (1896), Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội (1898)... Viện vi trùng học ( thành lập ở Sào Gòn 1891, Nha Trang 1896 , Hà Nội 1902 ) Nền khoa học hiện đại manh nha từ thời thưộc Pháp này đến khi giao lưu với liên Xô và hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa đã trở nên thực sự vững mạnh và phát triển.8 2.2.2. Sự chuyển biến về văn tự và ngôn ngữ Khi truyền đạo sang Việt Nam, khó khăn đầu tiên mà các giáo sĩ mắc phải là sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự . Bởi vậy, họ đã dùng bộ chữ cái La tinh thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt, tạo nên chữ Quốc ngữ. chữ Quốc ngữ là thành quả tập thể của nhiều giáo sĩ Bồ Đào Nha, Ý, Pháp và những người Việt Nam đã giúp họ học tiếng Việt. Song công lao lớn nhất thuộc về linh mục Alexandre de Rhodes(1591-1660 ) , ngưòi đã kế thừa các công trình của Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa, biên soạn và xuất bản ơ Roma vào năm 1651 cuốn từ điển Annam – Lusian- Latin (thường gọi là từ điển Việt – Bồ – La) và cuốn Phép giảng tám ngày in song ngữ Latin – Việt. 7 TS Vương Cường. Nội sinh văn hóa Việt Nam: Trường hợp giao lưu văn hóa Pháp trước năm 1945 8 Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ 11 Tuy chữ Quốc ngữ ban đầu chỉ là công cụ truyền đạo của các giáo sĩ, nhưng do có ưu điểm là dễ học , nên được các nhà Nho tiến bộ tích cực truyền bá để phổ cập giáo dục và nâng cao dân trí( hội truyền bá chữ quốc ngữ) . Sự tiếp xúc với phương Tây cũng khiến cho tiếng Việt có biến động mạnh: hàng loạt từ ngữ được vay mượn để diễn tả những khái niệm mới đã đi vào đời sống thường ngày như xà phòng / xà bông ( savon ) kem ( crème ) ga ( gaz )... Có những hiện tượng ngữ pháp vốn đặc thù cho các ngôn ngữ phương Tây( như thể bị động , kiến trúc danh từ…) ở những mức độ nhất định cũng đã du nhập vào tiếng Việt, làm phong phú ngôn ngữ dân tộc. Chính sự phát triển của báo chí đã thúc đẩy sự phát triển của tiếng Việt, khiến nó trở nên hoàn thiện hơn về ngữ pháp, được bổ sung thêm những từ mới, nhất là những thuật ngữ khoa học, biến tiếng Việt thành một ngôn ngữ hiện đại vừa mềm dẻo, tinh tế để có thể diễn tả được mọi sắc thái tình cảm tinh vi của nội tâm con người, vừa đủ sáng sủa, khúc chiết để diễn đạt một cách logic những vấn đề khoa học, triết học 2.2.3. Báo chí ra đời Chữ quốc ngữ ra đời cũng thúc đẩy sự phát triển của báo chí. Khởi điểm để báo chí ra đời ở Việt Nam là từ ý đồ của thực dân Pháp cần có một thứ vũ khí nhằm tuyên truyền cho chính quyền thuộc địa. Do vậy, báo chí ra đời ở Sài Gòn trước tiên. Lúc đầu là tờ báo bằng tiếng Pháp Le Bulletin officiel de (Expédition de la Cocinchine và tờ Le Bulletin des commune bằng chữ Hán). Ngày 15-41865, tờ Gia Định báo ra đời. Sau tờ Gia Định báo là tờ Phan Yên báo. Năm 1888, tờ Thông loại khóa trình của Trương Vĩnh Ký được phát hành. Năm 1901, tờ báo thứ ba bằng chữ Quốc ngữ ra mắt bạn đọc là tờ Nông cổ mím đàm. Sau đó tờ Lục tỉnh tân văn ra mắt bạn đọc thế giới, ở Sài Gòn. Báo chí ra đời rất nhiều như Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn, Đuốc nhà Nam v.v… Ơ Hà Nội, có các bào bằng chữ Quốc ngữ như Đăng cổ tùng báo, Hữu Thanh, Thực nghiệp dân báo, Nam phong, Trung Bắc tân văn v.v… 12 Nói chung, những tờ báo bằng chữ Quốc ngữ ở cả ba miền trong thời kì này, dù vô tình hay hữu ý đều góp phần vào sự phát triển văn học chữ Quốc ngữ. Ngoài những tờ bào bằng chữ Quốc ngữ, một thế kỉ này ở cả ba đô thị: Hà Nội, Huế, Saì Gòn đều có những tờ báo bằng chữ Pháp nhằm phục vụ chính quyền đó, nhưng cũng có thể có những tờ báo tiến bộ chẳng hạn tờ L’Annam, tờ La Cloche fêlée (Chuông rè) ở sài Gòn, tờ Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), tờ Le Travail (Lao động), tờ Rassemblement (Tập hợp), Enavant (Tiến lên) ở Hà Nội trong thời kì 1936-1939. Trong giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945, việc dùng chữ Quốc ngữ để làm báo đã là bước đột biến của diễn trình văn hóa. Nhìn ở phương diện ngôn ngữ văn tự, đấy là một bước đột biến. Nhìn ở phương diện lịch sử báo chí, đây cũng là một bước đột biến. 2.2.4. Sự chuyển biến trong văn học, nghệ thuật, hội họa. Sau khi đã phát triển tới đỉnh cao rực rỡ ở thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX, văn học ở nửa sau thế kỉ XIX, đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận này. Cùng với ông là một thế hệ các nhà văn thơ yêu nước như Phan Văn Trị, Hồ Huân Nghiệp, Đoàn Hữu Trưng, Phạm Văn Nghị… Sau đó là thế hệ Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương v.v… Sau thế hệ này là thế hệ các nhà Nho như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền v.v… về phương diện chính trị lúc này là một thứ vũ khí của quần chúng để chống kẻ thù cướp nước, cổ động cho sự tiến bộ xã hội. Do tác động khách quan, văn học giai đaọn này đã có bước phát triển nhanh chóng cả về hình thức và nội dung. Trước hết là sử dụng chữ Quốc ngữ để sáng tác văn học. Với việc phổ biến chữ Quốc ngữ, mảng văn học bằng chữ Quốc ngữ đã phá triển. Ban đầu, chữ Quốc ngữ được dùng để phiên âm các sách chữ Nôm, chữ Hán, chữ Pháp. Hàng loạt các tác phẩm chữ Hán như Đại học, Kinh thi, Minh tâm bảo giám 13 v.v…, các truyện thơ Nôm như Truyện Kiều, Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên v.v…, các truyện dân gian, câu hò, câu hát, được ra mắt bạn đọc bằng chữ Quốc ngữ ở Nam Bộ. Không thể không ghi công đầu cho một số trí thức ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX như Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của, Trần Phong Sắc, Phụng Hoàng Sang, Bùi Quang Nho, Khẩu Võ Nghi v.v… trong lĩnh vực này. Mặt khác là sự phát triển của những sáng tác bằng chữ Quốc ngữ, như kí sự là thể loại sớm ra đời với tác phẩm Chuyến đi Bắc Kì năm At Hợi (1876) của Trương Vĩnh Kí; tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ cũng ra đời ở Nam Bộ sớm nhất. Đầu tiên phải kể tới Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, nếu coi đây là một truyện dài, một tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ thì nó đã ra mắt bạn đọc từ năm 1887. Sau đó là Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân của Trương Duy Toản ra mắt bạn đọc vào năm 1910. Cũng năm này Trần Chánh Chiếu có tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ Hoàng Tố Anh hàm oan. Thập niên hai mươi của thế kỉ XX, tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ có khá nhiều tác giả: Phạm Duy Tốn với truyện ngắn Sống chết mặc bay (1918). Đó là Tân Dân Tử với Giọt máu chung tình (1926), và Lê Hoàng Mưu với Hà Hương phong nguyệt (1915), Oán hồng quần (1920), Tô Huệ Nhi ngoại sử (1920), Oan kia theo mãi (1922), Cay đắng mùi đời (1923), Tỉnh mộng (1923), Nhơn tình ấm lạnh (1925). Những tác giả này ở Sài Gòn, trong khi đó, ở Hà Nội, Nguyễn Trọng Thuật có Quả dưa đỏ (1925), Hoàng Ngọc Phách có Tố Tâm (1925). Vào thập niên ba mươi, bốn mươi, văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ đã có một bước tiến bộ vượt bậc. Nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo v.v…, đã cho ra mắt bạn đọc một loạt tác phẩm như Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Bướm trắng v.v… Bên cạnh nhóm Tự lực văn đoàn là các nhà văn hiện thực phê phán như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nam Cao với Chí phèo, Vũ Trọng Phụng với Giông tố, Số đỏ v.v… Sự trong sáng của tiếng Việt trong các tác phẩm này là bước tiến của văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ. Cùng với kí, tiểu thuyết là thơ. Phong trào thơ mới xuất hiện với một loạt tên tuổi như Thế Lữ, 14 Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v…, khẳng định sự chuyển mình của văn học Việt Nam theo hướng hiện đại, sự thay thế vẻ vang của văn học bằng chữ Quốc ngữ trong đời sống văn hóa. Mặt khác, sự chuyển mình của văn học Việt Nam giai đoạn này không chỉ ở phương diện hình thức. Cái tôi cá nhân, sự ý thức về cá nhân, tình yêu lứa đôi xuất hiện trong các tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn, trong các tập thơ của các nhà thơ mới là một hiện tượng mới trong văn hóa Việt Nam. Chưa bao giờ tiếng nói từ hạnh phúc cá nhân lại cháy bỏng như vậy trong văn học Việt Nam: “Mau lên chứ. Vội vàng lên với chứ - Em, em ơi tình non sắp già rồi”.9 Tuy nhiên, nhìn ở phương diện công dân,sáng tạo của nhóm Tự lực văn đoàn, của phong trào thơ mới, quả có ý nghĩa như đồng chí Trường Chinh nhận định: “một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa”. Cùng với những tác giả, tác phẩm này, sự xuất hiện của hệ tư tưởng Mác xít trong đời sống văn hóa đã dẫn tới sự xuất hiện của bộ phận các tác giả cách mạng. Thời kì từ 1931-1935 là cuộc đầu tranh giữa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm đối lập. Trên tờ Phụ nữ thời đàm, đồng chí Hải Triều đã viết nhiều bài về nguyên lí, quan điểm của chủ nghĩa Duy vật. Chính vì vậy, bản Đề cương có ý nghĩa như một cương lĩnh văn hóa dân chủ mới. Về sáng tác, thơ Tố Hữu và đáng kể hơn cả là các sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng nói tiêu biểu cho dòng văn học cách mạng này. Rõ ràng, non một trăm năm, văn học Việt Nam đã có bước chuyển biến quan trọng đi từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại. Văn hóa Việt Nam thời này còn thể hiện trong nghệ thuật hội hoa, xuất hiện những thể loại vay mượn từ phương Tây như tranh sơn dầu , tranh bột màu với bút pháp tả thực, đánh dấu sự ra đời của một thế hệ họa sỹ tài hoa lừng danh cho nước ta như Tô Ngọc Vân Trần Văn Cẩn Bùi Xuân Phái Dương Bích Liên… Họ là những sinh viên Việt Nam đầu tiên được đào tạo tại Trường Cao đẳng Mỹ 9 Trích bài thơ “Dục giã” Xuân Diệu 15 thuật Đông dương do người Pháp sáng lập. Những tên tuổi này cho đến hiện nay gần như chưa có ai vượt qua.. Bút pháp tả thực của phương Tây còn xuất hiện ngay cả trên sân khấu với thể loại kịch nói và tác động tới sự ra đờ của nghệ thuật cải lương . Nghệ thuật thanh sắc tổng hợp cổ truyền bắt đầu phân hoá thành hàng loạt bộ môn như ca, muá, nhạc, kịch…10 2.2.5. Sự chuyển biến về hệ tư tưởng. Là tấm gương phản chiếu nhiều mặt đời sống và nếp sống của cộng đồng một dân tộc, ở trung tâm của văn hoá, hệ tư tưởng cũng được xem như là một hệ văn hoá. Sự tiếp xúc, giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và phương Tây tạo ra sự chuyển mình của hệ tư tưởng Việt Nam từ 1858-1945 diễn ra trong một thời kì đầy biến động về tư tưởng và chính trị. Gần một trăm năm ở Việt Nam xuất hiện và tồn tại nhiều hệ tư tưởng khác nhau , tác đông lẫn nhau, hoà hợp lẫn nhau, tự biến dạng do khúc xạ qua môi trường xã hội… tạo nên một trường tư tưởng rất phức tạp. Trên mặt bằng lịch sử, các hệ tưởng vào Việt Nam từ hàng nghìn năm trước vẫn tồn tại ở xã hội mà căn bản vẫn là xóm làng với những người nông dân trồng lúa nước. Dù có biết bao biến động, trầm luân trên bề mặt lịch sử thì hệ tư tưởng của họ vẫn là hệ tư tưỏng thần thoại với một hệ thống thần linh đa dạng . Nho giáo tồn tại như một hệ tư tưởng vì có vị trí đặc biệt ở nhà hậu Lê, nhà Nguyễn, bây giờ không giúp các Nho sĩ trả lời được câu hỏi lớn của thời đại. Những phong trào Văn thân, Cần vương dưới ánh sáng của tư tưỏng Nho giáo không giúp các Nho sĩ tìm được con đường cứu nước, yêu nước chống Pháp kiểu nầy là bảo thủ, nên đã thất bại. Các Nho sĩ thế hệ sau với tấm lòng yêu nước của mình đã tổ chức cuộc vận động giải phóng dân tộc theo một hệ tư tưởng khác. Trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản qua tân thư và tân văn Trung Quốc 10 Đoàn Luyến . Quan hệ giao lưu văn hoá Pháp - Việt. https://www.google.com.vn 25/07/2011 16 như Am băng thất, Trung Quốc hồn, Mậu Tuất chính biến,Tân dân tuỳ báo… của Lương Khãi Siêu, Khang Hữu Vi, các thuyết về nhân đạo, dân quyền của những nhà phát ngôn của giai cấp tư sản Pháp lúc đang lên như Rousseau, Montesquiseu,Vonte… được đi vào Vệt Nam. Tự cảnh tỉnh để đổi mới, tìm một con đưòng đi khác, các nhà Nho đã từ biệt hệ tư tưởng quen thuộc của bao nhiêu thế hệ trưóc. Phan Bội Châu (1867-1940 ) là một nhân chứng tiêu biểu với Duy tân hội, ông còn giử tư tưởng quân chủ, với Việt Nam Quang phục hội ông đã chuyển sang tư tưởng dân chủ. Sau khi gặp gỡ Nguyễn Ai Quốc và ở cuối đời ông còn viết sách về Chủ nghĩa xã hội . Đi từ hình mẫu này sang hình mẫu khác, ước nguyện duy nhất của Phan Bội Châu vẫn chỉ là giành lại quyền độc lập dân tộc . Vượt ra ngoài ý đồ của bọn thực dân, sự áp đặt thô bạo của chúng dẫn đến hậu quả ngược lại là khích lệ tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và chống Pháp . Xuất hiện Nguyễn Trường Tộ với những bản điều trần, Phan Chu Trinh với phong trào Duy Tân... Từ tấm lòng yêu nước, nhà các mạng Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác -Lênin rồi truyền bá vào Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển và ngày càng giác ngộ về mình. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng và có tổ chức, ba tổ chức cộng sản ra đời ở Bắc kỳ, Trung kỳ rồi Nam kỳ, đến ngày 6/1/1930 Nguyễn Ai Quốc chủ trì hội nghị hiệp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặc vô cùng quan trọng trong lich sử cách mạng nước ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, đồng thời nó cũng khẵng định sự hiện diện của một hệ tư tưởng mới ở Việt Nam, hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mac-Lênin, trở thành hệ tư tưởng dẫn dắt ngọn cờ đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta. 17 Chúng ta cũng cần phải thấy rằng bên cạnh những tiến bộ thì ảnh hưởng tiêu cực từ văn hóa Pháp tới văn hóa Việt Nam cũng rất lớn. Chính sách văn hóa nô dịch thực dân chính sách mỵ dân các học thuyết tư sản và duy tâm cũng ảnh hưởng nặng nề. Ảnh hưởng tiêu cực rõ rệt nhất là dưới ách cai trị của thực dân pháp con người Việt Nam bị tha hóa nhanh chóng. Vì mục đích phục vụ chính sách cai trị vơ vét tài nguyên của cải của nước ta nhân dân ta bị cai trị bị bóc lột nặng nề. Giáo dục Pháp mục đích chủ yếu đào tạo người làm việc cho thực dân cam phận làm tay sai. Trường học của chúng lập ra chỉ để đào tạo thanh niên Việt Nam trở thành tay sai phục vụ cho quá trình cai trị của chúng (chứ không phải để cho dân ta mở mang kiến thức). Ngôn ngữ dùng trong giảng dạy chủ yếu bằng tiếng Pháp, tiếng Việt được học như một ngoại ngữ. Dạy lịch sử Pháp, truyền thống Pháp nhưng lịch sử Việt Nam thì không dạy. Mặt khác, chúng ngăn chặn văn hóa tiến bộ du nhập vào Việt Nam (kể cả văn hóa tiến bộ Pháp), nhưng lại cho du nhập văn hóa đồi trụy và khuyến khích mê tín dị đoan. Chúng dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc người Việt Nam, làm suy yếu dân tộc ta, làm cho dân ta quên đi mối thù cướp nước.11 Hệ quả của những chính sách của thực dân Pháp trên mặt văn hóa – xã hội là làm cho dân ta ngày càng mê muội, ngu dốt, đồi trụy, có trên 90% dân số mù chữ. 11 Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ, 18 KẾT LUẬN Lịch sử dân tộc cho thấy, tiến trình văn hoá Việt Nam, cho đến nay, đã trải qua nhiều biến động, nhưng do những hoàn cảnh địa lí, khí hậu và lịch sử xã hội riêng nên dù biến động tới đâu, nó vẫn mang trong mình những nét bản sắc không thể trộn lẫn được với một đặc trưng riêng biệt, là sự kết hợp giữa văn hóa bản địa kết hợp với sự tiếp thu văn hóa trung Hoa và sự giao lưu với văn hoá phương Tây Giai đoạn từ 1858 đến 1945 là giai đoạn giao lưu, tiếp biến văn hoá Việt Nam với phương Tây mà trước hết là văn hóa Pháp, là sự tiếp thu các yếu tố văn hóa ngoại sinh, từ đó nền văn hoá Việt Nam có những biến chuyển sâu sắc, bản 19 sắc văn hoá dân tộc không những không bị mất đi, không bị thay đổi, mà còn phát triển tiếp nối mạch với các thời kì trước và mang trong mình một tầm vóc mới, mang tính rộng mở, phong phú đa dạng và hiện đại hơn. Ngày nay trong thời đại hội nhập và mở rộng giao lưu văn hóa thế giới, việc giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống, vun trồng những giá trị nội sinh của dân tộc, tạo cơ sở vững chắc để tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại và thời đại ngày nay đang là yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam. Điều đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân phải tiếp tục quan tâm để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Cơ sở văn hoá Việt Nam –Trần Quốc Vượng chủ biên –Nhà xuất bản Giáo dục - 2004 [2] Nguyễn Quang Ngọc (2002), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Nhà xuất bản Giáo dục [3] Nguyễn Thừa Hỷ (2012), Văn hóa Việt Nam truyền thống - Một góc nhìn, Hà nội, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông. [4] Cơ sở văn hoá Việt Nam –Trần Ngọc Thêm –Nhà xuất bản Giáo dục – 2000 [5] Đại cương văn hóa phương Đông – GS Lương Duy Thứ chủ biên – Nhà xuất bản Giáo dục. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan