Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo kinh tế du lịch từ năm 1996 đến năm 2009...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo kinh tế du lịch từ năm 1996 đến năm 2009

.PDF
130
62609
160

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ TRANG ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH LÃNH ĐẠO KINH TẾ DU LỊCH TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2009 Luận văn Thạc sĩ LỊCH SỬ Chuyên ngành: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Mã số : 60.22.56 Người hướng dẫn: PGS.TS. HOÀNG HỒNG Hà Nội - 2011 MỤC LỤC MỞ ĐẦU…………………………………………………………… 3 1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………….......... 3 2. Tình hình nghiên cứu đề tài…………………………………………….......4 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn……………………………………......5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………….............5 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu…………………………….......6 6. Đóng góp của luận văn……………………………………………..............6 7. Cấu trúc của luận văn………………………………………………. ……..7 Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH LÃNH ĐẠO KINH TẾ DU LỊCH GIAI ĐOẠN 1996 - 2000…………………………………………......8 1.1. Tiềm năng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Quảng Ninh và hoạt động kinh tế du lịch trước năm 1996…………………………………………….....8 1.1.1. Tiềm năng phát triển kinh tế du lịch…………………………………....8 1.1.2. Hoạt động kinh tế du lịch Quảng Ninh trước năm 1996………...........19 1.2. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch giai đoạn 1996 – 2000……………………………………………………….................21 1.2.1. Đường lối chung của Đảng và chủ trương phát triển kinh tế du lịch của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh…………………………………………...............21 1.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện…………………………...........................25 Tiểu kết............................................................................................................44 Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH LÃNH ĐẠO KINH TẾ DU LỊCH TRONG NHỮNG NĂM 2001 – 2009………………………………..47 2.1. Giai đoạn 2001 – 2005………………………………………………….47 1 2.1.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về phát triển kinh tế du lịch thành ngành kinh tế trọng điểm……………………………………………..47 2.2. Những năm 2006 – 2009………………………………………………71 2.2.1. Đường lối chung của Đảng và chủ trương tiếp tục phát triển kinh tế du lịch của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh ………………………………………….71 2.2.2. Quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế du lịch…………………………...76 Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM……………...95 3.1. Một số nhận xét…………………………………………………………95 3.1.1. Ưu điểm……………………………………………………………….95 3.1.2. Hạn chế………………………………………………………………101 3.2. Các kinh nghiệm……………………………………………………….103 KẾT LUẬN………………………………………………………………...113 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….....117 PHỤ LỤC…………………………………………………………………..123 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong thời kỳ hiện nay, nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng cao so với các năm trước, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, an ninh quốc phòng được giữ vững và không ngừng được củng cố, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện thêm một bước, vị thế của đất nước trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Sự tăng trưởng về kinh tế và ổn định về chính trị của đất nước cùng với những tiềm năng du lịch to lớn là điều kiện thuận lợi để ngành Du lịch của nước ta nói chung và các địa phương có thế mạnh du lịch nói riêng phát triển. Mức sống của người dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu du lịch, vui chơi giải trí của nhân dân ngày càng tăng. Do vậy, phát triển du lịch từ tiềm năng thế mạnh sẵn có của đất nước là điều kiện thuận lợi để đưa nền kinh tế xã hội của nước ta ngày càng phát triển và có cơ hội hội nhập với nền kinh tế xã hội của khu vực và thế giới. Thấy rõ được tầm quan trọng của kinh tế du lịch trong cơ cấu kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai, Nhà nước ta và các địa phương có thế mạnh du lịch trong cả nước đã ra sức phát huy thế mạnh du lịch của mình với mục đích là phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Quảng Ninh là một trong những tỉnh có tiềm năng du lịch lớn nhất miền Bắc nước ta, đứng trước nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch trong nước và quốc tế, được sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, ngành Du lịch của Tỉnh đã có những hoạt động tích cực nhằm ra sức phát huy hết khả năng thế mạnh vốn có của mình góp phần vào sự phát triển chung của du lịch Việt Nam và xác lập vị trí của Tỉnh trên bản đồ du lịch của đất nước, khu vực và phấn đấu có được vị trí trên bản đồ du lịch thế giới. 3 Vì vậy, việc tìm hiểu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh với hoạt động kinh tế du lịch Quảng Ninh là hết sức cần thiết, nhằm rút ra những kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh trong thời gian (1996 - 2009) để sự lãnh đạo này ngày càng xứng tầm hơn, đưa du lịch Quảng Ninh lên một tầm cao mới, phát triển ngang tầm với các khu du lịch hiện đại của đất nước, khu vực và quốc tế, tương xứng với tiềm năng, thế mạnh du lịch của vùng. Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn như trên, tôi đã chọn đề tài “ Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo kinh tế du lịch từ năm 1996 đến năm 2009” làm đề tài luận văn thạc sỹ lịch sử. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Với vai trò đặc biệt quan trọng của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và các địa phương có tiềm năng du lịch nói riêng, vì vậy du lịch trở thành đề tài quan tâm của nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như: Du lịch ba miền của tác giả Bửu Ngôn (2009), NXB Thanh Niên; Địa danh du lịch Việt Nam của Thạc sỹ Nguyễn Thị Thu Hiền( 2009), NXB Từ điển Bách Khoa; Quy hoạch du lịch của tác giả Bùi Thị Hải Yến (2009), NXB Giáo dục. Các công trình nghiên cứu về du lịch của tỉnh Quảng Ninh như: “ Quảng Ninh và năm du lịch 1990” của Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ninh xuất bản năm 1990; “Quảng Ninh - tiềm năng và triển vọng” của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, NXB Sự Thật năm 1991; “ Thế và lực Quảng Ninh trước thềm thế kỷ XXI” của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh năm 2001; “ Quảng Ninh – Hạ Long” của Ủy Ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh xuất bản năm 2003; “ Du lịch Hạ Long 2003” của Sở Du lịch Quảng Ninh xuất bản năm 2003; …nhưng, cho đến nay, chưa có một công trình nào tìm hiểu về sự 4 lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh với hoạt động kinh tế du lịch Quảng Ninh từ năm 1996 đến năm 2009. Như vậy, đây là vấn đề cần được đi sâu nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu - Làm sáng tỏ chủ trương, đường lối của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về phát triển kinh tế du lịch từ năm 1996 đến năm 2009. - Làm rõ các hoạt động của ngành Du lịch Quảng Ninh từ năm 1996 đến năm 2009 dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh. - Chỉ ra những thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh với các hoạt động du lịch. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tập hợp những tư liệu lịch sử có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động du lịch của tỉnh Quảng Ninh. - Phân tích và trình bày theo hệ thống các chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về hoạt động du lịch của Tỉnh qua hai giai đoạn: 1996 – 2000 và 2001 – 2009. - Đánh giá thành tựu, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo kinh tế du lịch của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các chủ trương, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đối với các hoạt động du lịch từ năm 1996 đến năm 2009. - Thực tiễn các hoạt động du lịch của tỉnh Quảng Ninh trong những năm 1996 – 2009. 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Các vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động du lịch của tỉnh Quảng Ninh từ năm 1996 đến năm 2009. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 5.1. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp lịch sử, phương pháp logic; ngoài ra còn sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, mô tả… 5.2. Nguồn tài liệu - Các văn kiện, nghị quyết của Đại hội Đảng; các văn bản, chỉ thị của Chính phủ, Bộ văn hóa Thông tin và Du lịch về du lịch. - Các văn kiện của Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, các nghị quyết của Tỉnh ủy, chỉ thị của Ủy ban nhân dân, các báo cáo của Sở văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh từ năm 1996 đến năm 2009, các tài liệu có lưu trữ liên quan đến các hoạt động du lịch Quảng Ninh tại Ban Tuyên giáo Tỉnh Ủy, Thư viện Quảng Ninh, Ban quản lý Vịnh Hạ Long. - Một số công trình nghiên cứu của các cá nhân, tập thể về các hoạt động du lịch. 6. Đóng góp của luận văn. - Luận văn trình bày một cách có hệ thống sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh với quá trình chỉ đạo các hoạt động du lịch của Tỉnh từ năm 1996 đến năm 2009. Qua đó tổng kết những thành tựu, hạn chế và rút ra một số bài học kinh nghiệm về công tác lãnh đạo các hoạt động du lịch của Tỉnh. 6 7. Cấu trúc của đề tài. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo kinh tế du lịch giai đoạn 1996 - 2000 Chương 2. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo kinh tế du lịch trong những năm 2001 - 2009 Chương 3. Một số nhận xét và kinh nghiệm 7 Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH LÃNH ĐẠO KINH TẾ DU LỊCH GIAI ĐOẠN 1996 - 2000. 1.1. Tiềm năng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Quảng Ninh và các hoạt động kinh tế du lịch trước năm 1996. 1.1.1. Tiềm năng phát triển kinh tế du lịch. Với những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, cũng như những nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, tiềm năng phát triển kinh tế du lịch của Quảng Ninh được thể hiện thông qua một số yếu tố chủ yếu sau: Một là, tiềm năng du lịch địa lý. Quảng Ninh là tỉnh có nhiều di dích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh đặc sắc. Đây là nơi “trời bày, đất đặt một kỳ quan” như Nguyễn Trãi đã từng miêu tả. Quảng Ninh có Vịnh Hạ Long sau 2 lần đăng quang là di sản thiên nhiên thế giới về cảnh quan kỳ thú và về sự độc đáo của địa hình - địa mạo vẫn đang làm ngỡ ngàng khách du lịch trong nước và quốc tế cũng như với các nhà khoa học về sinh thái và về các giá trị văn hoá, lịch sử. Quảng Ninh có “non thiêng Yên Tử”, cái nôi phát tích của Thiền phái Trúc Lâm, đỉnh cao rực rỡ của nền Phật giáo và của lịch sử tư tưởng Việt Nam. Quảng Ninh có một Bạch Đằng giang ngàn năm chảy mãi vẫn như đỏ mầu máu giặc phương Bắc ba lần xâm lược nước ta. Quảng Ninh có cảng Vân Đồn là cảng ngoại thương đầu tiên của nước ta phồn thịnh trong nhiều thế kỷ; Quảng Ninh có trữ lượng than lớn và tốt nhất nước ta - kho vàng đen vô giá của Tổ quốc. Quảng Ninh cũng chính là cái nôi sinh thành và nuôi dưỡng giai cấp công nhân Việt Nam kiên cường, bất khuất. Quảng Ninh còn là quê gốc của nhà Trần - Triều đại của những vị vua đã làm nên trang sử oai hùng chiến thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. 8 Bên cạnh các công trình điêu khắc, kiến trúc cổ kính của các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn là những di tích cách mạng và kháng chiến xúc động lòng người. Quảng Ninh có rất nhiều di chỉ khảo cổ phản ánh những nền văn hoá đặc sắc thời tiền sử và sơ sử, rải dọc theo suốt chiều dài của lịch sử, không một thời đại lịch sử nào không để lại những di tích minh chứng sự phát triển liên tục không chỉ của Quảng Ninh mà của cả quốc gia, dân tộc ta. Nhiều di tích của Quảng Ninh đã trở thành di tích tiêu biểu của Việt Nam. Riêng Vịnh Hạ Long còn là di sản thiên nhiên thế giới về cảnh quan và địa mạo. Điều độc đáo ở Quảng Ninh đó là sự đan xen hài hoà giữa di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh trên địa bàn toàn tỉnh cũng như trong từng địa phương, trong từng địa danh. Về mặt lịch sử, nhiều nơi còn là di tích song trùng, chồng chất sự tích và hiện vật của nhiều thời đại. Núi Bài Thơ là một trong những minh chứng cụ thể, đây không chỉ là một thắng cảnh đẹp trong quần thể thắng cảnh Hạ Long, là nơi đề thơ của Vua Lê Thánh Tông, Chúa Trịnh Cương, có chùa Long Tiễn và đền thờ Trần Quốc Nghiễn mà nơi đây còn là nơi đầu tiên treo cờ búa liềm kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động (1/5/1930) và là di tích đặc sắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngoài ra, những hang động mới được phát hiện, những làng bản của các dân tộc anh em ngày càng yên vui, đầm ấm, mang bản sắc, nét đẹp riêng của từng dân tộc trên đất Quảng Ninh vẫn gây sức hấp dẫn kỳ thú với khách du lịch. Theo số liệu kiểm kê của Ban quản lý di tích danh thắng Tỉnh, toàn Tỉnh có 496 di tích với 19.418 hiện vật thuộc các thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn. Tính đến năm 2001, Bộ Văn hoá thông tin đã có 32 văn bản quyết định xếp hạng cấp quốc gia cho các di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc, nghệ thuật và danh lam thắng cảnh tiêu biểu ở Quảng Ninh, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh cũng đã quyết định công nhận 9 di tích lịch sử cấp tỉnh. 9 Sự độc đáo và phong phú, đa dạng của các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử của Quảng Ninh đã tạo cho Quảng Ninh có một tiềm năng du lịch rất to lớn. Quảng Ninh là một tỉnh nằm ở địa đầu phía Đông Bắc Việt Nam với dáng một hình chữ nhật lệch nằm chếch theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Phía Tây tựa lưng vào núi rừng trùng điệp, phía Đông nghiêng xuống nửa đầu vịnh Bắc Bộ với bờ biển khúc khuỷu nhiều cửa sông và bãi triều, bên ngoài là 2077 hòn đảo lớn nhỏ. Quảng Ninh giáp với thành phố Hải Phòng, tỉnh Hải Dương, tỉnh Bắc Giang, tỉnh Lạng Sơn và giáp với vịnh Bắc Bộ theo hướng Bắc Nam, giáp với Trung Quốc theo hướng Bắc. Tiềm năng du lịch địa lý của Quảng Ninh rất độc đáo và đặc sắc. Tiêu biểu nhất cho tiềm năng du lịch địa lý Quảng Ninh là khu du lịch Vịnh Hạ Long (Hạ Long). Vịnh Hạ Long nằm ở trung tâm vùng biển ven bờ của tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội khoảng 180 km về hướng Đông Bắc. Vịnh có diện tích tự nhiên rộng trên 1500km2 với hơn 2000 hòn đảo lớn nhỏ. Với vẻ đẹp tự nhiên kỳ ảo và nổi trội, từ lâu Vịnh Hạ Long đã thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều du khách trong nước và quốc tế . Trong cuốn sách “Những kỳ quan thế giới” của Lesmerveillesdu Monde của nhà xuất bản Hachette - Pari - 1950 đã xếp Vịnh Hạ Long của Việt Nam là kỳ quan thế giới. Ngày 14/9/1994, Unesco đã chính thức công nhận Vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới. Ngày 17/12/1994, Tổng giám đốc Unesco ký công nhận Vịnh Hạ Long vào danh mục di sản thế giới: “Khẳng định giá trị ngoại hạng và giá trị toàn cầu của một di sản văn hoá và thiên nhiên cần thiết phải được bảo vệ vì lợi ích của toàn thế giới”. Ngày 29/11/2000, Hội đồng di sản thế giới thông qua quyết dịnh công nhận Vịnh Hạ Long là di sản thế giới về giá trị địa chất, địa mạo. Đây là sự thừa nhận và khẳng định của nhân loại về giá trị tự nhiên của một địa danh du lịch có tầm cỡ quốc tế ở Việt Nam. Ở nước ta, ngay từ năm 1962, 10 Hạ Long là khu vực di tích được Nhà nước xếp hạng bảo vệ theo quyết định số 313-VH/QĐ ngày 28/4/1962 của Bộ văn hoá với tiêu chuẩn là một danh lam thắng cảnh. Hiện nay, những giá trị tiềm tàng về sinh thái, về khảo cổ và lịch sử, về văn hoá vật thể và phi vật thể vẫn đang được nghiên cứu, khám phá. Khu vực Hạ Long chịu ảnh hưởng chung của chế độ khí hậu nhiệt đới, gió mùa của Việt Nam và chế độ khí hậu biển Bắc Bộ, có sự phân dị mạnh của các yếu tố địa chất, địa hình, thuỷ văn nên hình thành nhiều kiểu cảnh quan đẹp, độc đáo, nhiều hệ sinh thái nhiệt đới điển hình. Tính đa dạng sinh học cao của hệ sinh thái biển, đảo nhiệt đới với nhiều loài sinh vật biển quý hiếm là những giá trị sinh thái to lớn của tiềm năng du lịch Vịnh Hạ Long. Ngoài tính đa dạng sinh học cao, khả năng hấp dẫn du lịch của hệ sinh thái đảo và rừng nhiệt đới còn thể hiện ở sự phong phú của cấu trúc thảm thực vật “khoác” lên hoặc điểm xuyết trên các đảo đá vôi nửa nổi, nửa chìm, được chạm khắc tinh xảo của tự nhiên tạo nên bức tranh thiên nhiên ngoạn mục với những sắc màu khác nhau dưới ánh phản chiếu của bình minh hay hoàng hôn đã làm cho khung cảnh của Vịnh Hạ Long trở lên rộng lẫy và rực rỡ. Khu vực Vịnh Hạ Long có nhiều hồ Karst chứa nước nằm giữa các đảo (được gọi là áng) và nhiều hồ hở có cửa khá lớn thông với vịnh (được gọi là tùng). Giá trị du lịch lớn nhất của hệ sinh thái tùng, áng là kiến trúc độc đáo của tự nhiên tạo nên cảnh quan hấp dẫn đặc biệt: trong các áng rất có điều kiện thuận lợi để xây dựng các thuỷ cung hoặc vườn sinh vật biển hoàn toàn tự nhiên phục vụ khách du lịch tham quan và các nhà khoa học nghiên cứu. Ở các tùng, bên cạnh các bãi cát đẹp là các rạn san hô cùng các sinh vật biển, tạo nên “thế giới dưới nước” kỳ ảo, rất thuận lợi không chỉ cho tắm biển mà còn cho tham quan dưới nước và lặn biển. 11 Rạn san hô là loại sinh sản có tính đa dạng về loài cao nhất trong biển và đại dương. Theo thống kê chưa đầy đủ, khu vực Hạ Long có hàng ngàn loài động thực vật có liên quan đến chu trình vật chất, năng lượng của hệ sinh thái rạn san hô. Các rạn san hô ở đây tiêu biểu cho kiểu rạn san hô ven bờ Tây Vịnh Bắc Bộ có tính đa dạng cao với nhiều loài thuỷ sinh vật, đặc biệt các loài cá rạn san hô, tạo nên sự hấp dẫn lớn đối với khách du lịch. Dưới góc độ du lịch, giá trị địa chất của Vịnh Hạ Long cũng là một tiềm năng du lịch vô giá không chỉ của Quảng Ninh nói riêng và du lịch cả nước nói chung. Địa hình của Vịnh Hạ Long rất độc đáo, đó là sự tương phản giữa đảo, núi với các trũng biển, giữa vùng ven bờ có thực vật ngập mặn với những đảo đá vôi vách đứng, đã làm cho cảnh quan Hạ Long không đơn điệu. Vịnh Hạ Long là tác phẩm nghệ thuật tạo hình kỳ lạ của tạo hoá, là sự kết hợp giữa tính tinh tế của điêu khắc và hội họa, giữa tính hoành tráng, khoẻ khoắn, hùng vĩ với sự duyên dáng và thơ mộng. Đây không phải là tác phẩm nghệ thuật tĩnh, mà luôn biến đổi về tạo dáng và màu sắc theo thời gian và góc nhìn, làm nên trong giây lát những cảnh sắc khác thường khiến cho du khách không khỏi ngỡ ngàng, sửng sốt. Hạ Long là vùng biển duy nhất ở Việt Nam, trên diện tích không rộng, mọc lên hàng nghìn hòn đảo với vô số hình dạng kỳ dị, khác nhau. Các đảo núi ấy quần tụ trên hai vùng biển lớn: một vùng là phía Nam và Tây Nam vịnh, còn vùng kia là phía Đông. Giữa hai vùng đảo núi là trũng biển rộng hình cánh quạt, không có đảo núi xen kẽ, dường như tạo hoá muốn dành cho du khách một tầm nhìn bao quát để chiêm ngưỡng cảnh sắc của thiên nhiên, đất trời. Các đảo đá được phân bố ở trên hai vùng biển, nếu từ trên cao nhìn xuống, mặt vịnh là một tấm gương xanh biếc, lấp lánh, được đính lên những viên ngọc màu lam nhiều hình dáng. Đảo Hạ Long không phải là những quả núi đá đơn điệu buồn tẻ mà là thế giới sống động những sinh linh ẩn hiện 12 trong biết bao hình hài bí ẩn bằng đá. Mỗi hòn đảo đều mang một hình dáng quen thuộc khiến cho ta liên tưởng đến thế giới của sự sống. Đảo giống ông già câu cá thì được gọi là hòn ông Lã Vọng, đảo giống nàng tiên được gọi là đảo Cô Tiên, có đảo y hệt đầu người được gọi là đảo Đầu Người, đảo lại tựa đôi gà chọi nên gọi là hòn Gà Chọi hay hòn con Cóc, con Rùa, chú Mèo, con Ngựa phi trên mặt nước. Du khách đến với vịnh Hạ Long không những có cơ hội tìm hiểu các hệ sinh thái phong phú, thưởng thức cảnh quan kỳ ảo của thiên nhiên, mà còn được đến với một “bảo tàng” địa chất đặc biệt có giá trị được gìn giữ ở dạng tự nhiên trải qua hàng trăm triệu năm. Hệ thống hang động ở Vịnh Hạ Long với nhiều hang động nổi tiếng như hang Sửng Sốt, Đầu Gỗ, Trinh Nữ, động Thiên Cung... không chỉ ẩn dấu những vẻ đẹp quyến rũ có giá trị du lịch cao mà còn là những bằng chứng về quá trình xâm thực của biển ở những thời kỳ khác nhau. Hoạt động du lịch ở Hạ Long không chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu, khám phá các giá trị của tự nhiên mà còn bao gồm cả việc nghiên cứu nâng cao hiểu biết về các giá trị văn hoá bản địa tồn tại và phát triển trong cái “nôi sinh thái” của khu vực. Giá trị văn hoá bản địa đó được thể hiện rất rõ nét ở nền văn hoá Hạ Long qua các di chỉ khảo cổ được phát hiện. Như vậy, tất cả các chiều không gian của khu vực Hạ Long, cả trên mặt biển, trong lòng biển, đáy biển và trên đảo, đều tiềm ẩn những tiềm năng du lịch to lớn, có giá trị về mặt tự nhiên lẫn nhân văn, cho phép tổ chức nhiều loại hình du lịch hấp dẫn quanh năm. Hai là, tiềm năng du lịch văn hoá lịch sử, kiến trúc nghệ thuật. Ngoài tiềm năng du lịch địa lý độc đáo và đặc sắc, Quảng Ninh còn có tiềm năng du lịch văn hoá lịch sử và kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, với gần 13 500 di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, một số lượng không phải là nhiều so với các tỉnh khác nhưng mỗi di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật ở đây đều mang dấu ân riêng cho mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc. Du khách đến với những di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật ở Quảng Ninh như được tìm về với cội nguồn của dân tộc, với quá khứ hào hùng và truyền thống tốt đẹp của cha ông. Với Bạch Đằng giang ngàn năm chảy mãi vẫn như nhuốm máu của quân xâm lược phương Bắc, Nguyên Mông. Với một Yên Tử uy nghiêm cái nôi của Thiền Phái Trúc Lâm, một Bài Thơ sừng sững ghi dấu ấn riêng cho một giai đoạn lịch sử từ thời các vua Trần, chúa Trịnh đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân Quảng Ninh. a. Di tích lịch sử văn hoá. Đến với các di tích lịch sử văn hoá ở Quảng Ninh du khách sẽ có cơ hội được thăm quê gốc của nhà Trần ở Đông Triều - triều đại đã ghi những dấu ấn hiển hách trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Nơi đây bao gồm khu lăng mộ của các vị Vua nhà Trần, nơi ghi dấu ấn của Thiền Phái Trúc Lâm và Trúc Lâm đệ nhất tổ Trần Nhân Tông. Do đó, đây không chỉ là nơi mang dấu ấn lịch sử của một triều đại lớn mạnh trong các triều đại phong kiến Việt Nam mà còn có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, kiến trúc nghệ thuật Phật giáo điển hình. Ngoài khu di tích lịch sử lăng mộ của nhà Trần, ở Đông Triều còn có cụm di tích lịch sử và thắng cảnh Yên Đức. Ở Yên Đức có hang Bảy Ba - đây là hang ghi dấu ấn của bảy mươi ba người con can đảm của Yên Đức thà hy sinh chứ không chịu ra đầu hàng quân Pháp. Nơi đây còn có những cảnh núi non tuyệt đẹp mang những hình dáng sinh động. Trước cảnh núi non như gợi lại trong ta một câu chuyện dân gian lý thú giữa hai con vật mèo và chuột. Hình ảnh núi Đống Thóc nằm giữa hai núi con Mèo và con Chuột thể hiện nét sinh động tài tình của thiên nhiên, tạo hoá. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, hoà cùng với tinh thần chống giặc ngoại xâm của 14 nhân dân cả nước, ở Đông Triều nhân dân toàn huyện đã lập nên Đệ Tứ chiến khu ở căn cứ chùa Bác Mã. Chùa Bác Mã là một ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý, nổi tiếng về vẻ đẹp kiến trúc và điêu khắc, trong đó có hai pho tượng hộ Pháp cao tới 3m. Đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nơi đây trở thành cơ sở yêu nước và cách mạng của nhân dân Đông Triều. Với chiến khu Đông Triều được thành lập, từ căn cứ Bác Mã, du kích cách mạng quân Đông Triều đã toả đi phát triển lực lượng, giải phóng Quảng Yên và một số nơi khác ở Quảng Ninh, Hải Dương, Hải Phòng góp phần to lớn trong cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Đi qua Đông Triều là đến với huyện Yên Hưng, nơi có ngôi miếu thời 17 vị Tiên Công - những người đã có công đầu trong việc quai đê lấn biển, thành lập nên khu đảo Hà Nam vào thời Lê. Miếu là nơi nhân dân khu đảo tưởng nhớ công lao của các vị Tiên Công nhưng đồng thời là một di tích thể hiện sức mạnh của dân tộc Việt Nam không chỉ trong kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc mà còn trong việc chinh phục thiên nhiên. Trong nhà thờ các dòng họ Tiên Công là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo được chạm khắc dưới bàn tay khéo léo và tinh tế của các nghệ nhân dân gian. Đến với núi Bài Thơ (Hạ Long) một hòn núi đá vôi cao sừng sững nằm ở trung tâm thành phố Hạ Long. Ngọn núi này được các triều đại phong kiến Việt Nam lấy làm vọng gác tiền tiêu ở vùng Đông Bắc. Vách đá của núi là nơi có thơ đề của Vua Lê Thánh Tông, của Chúa Trịnh Cương, của quan tuần phủ Quảng Yên thời Nguyễn. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ngọn núi là nơi các chiến sỹ cách mạng đã treo lá cờ đỏ kêu gọi quần chúng đấu tranh, gây chấn động cả vùng mỏ nhân ngày Quốc tế lao động đầu tiên được tổ chức ở nước ta (1930). Sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ trên đỉnh núi có trạm gác phòng không của Thị xã và chùm còi báo động, trận địa súng 12 li 7 của tự vệ xí nghiệp tuyển than Hòn Gai, trung tâm điện chính thuộc Bưu điện Quảng Ninh với tổng đài và cột ăng ten Viba. Qua núi Bài Thơ chúng ta sẽ 15 đến với Đền Cửa Ông (Cẩm Phả), đây là một trong những di tích nhà Trần nổi tiếng ở vùng Đông Bắc nước ta. Nơi đây có đền thờ Trần Quốc Tảng - Vị tướng tài ba đã chỉ huy quân ta đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông năm 1286, đây còn là một ngôi đền hiếm hoi còn lại đến nay thờ khá đông đủ gia thất Trần Quốc Tuấn và những trung thần của ông. Đền là một quần thể kiến trúc hình chân vạc trông ra vịnh Bái Tử Long đón gió mát quanh năm. Tiếp theo cuộc hành trình du khách sẽ đến với Cảng Vân Đồn (Vân Đồn) là đến với cảng ngoại thương đầu tiên trong lịch sử ngoại thương nước ta. Đây là nơi buôn bán sầm uất suốt nhiều thế kỷ dưới các thời Lý, Trần, Lê đến thời Tây Sơn với ngoại quốc. Đây cũng là sự đánh dấu một chủ quyền về thương mại và phát triển kinh tế của nước ta. Ở đây khách du lịch còn có thể đến với Trung tâm Phật giáo quan trọng của vùng hải đảo với hệ thống chùa, tháp mang kiến trúc tôn giáo. b. Kiến trúc nghệ thuật. Ngoài di tích lịch sử văn hoá độc đáo, Quảng Ninh còn có một hệ thống đình chùa mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật khéo léo của dân gian trải dài từ Đông Triều, Yên Hưng, Vân Đồn đến Móng Cái. Ở Đông Triều có chùa Mỹ Cụ, chùa được xây dựng thời Trần, có hình con rùa quay hướng Đông Nam, trong chùa có 126 hiện vật ở các thời Trần, Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Đặc biệt trong chùa có 5 pho tượng cao hơn 1m thể hiện sinh động tài nghệ điêu khắc của dân gian và ước nguyện phồn thực của nhân dân. Ở huyện Yên Hưng có đình Phong Cốc, đình được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII trên khu đất cao quay mặt ra phía cửa biển Nam Triệu thờ các thành hoàng làng Cốc - một trong những ngôi đình lớn nhất miền Bắc. Trong đình thể hiện nghệ thuật điêu khắc tuyệt diệu của các nghệ nhân qua các hình tượng tứ linh, cảnh sinh hoạt đời thường, đây là một di sản kiến trúc quý báu của nền văn hoá Việt Nam. Đến huyện Vân Đồn du khách sẽ vào 16 thăm khu di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quan Lạn - là một mảnh đất gắn liền với truyền thống lịch sử chống giặc ngoại xâm với những chiến công lẫy lừng của nhà Trần ở thế kỷ XIII. Đây là một quần thể di tích với đình, chùa, nghè, miếu khang trang bề thế nằm trên một dải đất đẹp, phía trước có 3 đỉnh núi, phía sau có 5 ngọn núi như những bức tường thành chắn gió chống sự tàn phá của bão tố. Đây thực sự là cụm di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đặc sắc ở tuyến đảo ngoài, thể hiện đậm nét bản sắc văn hoá dân tộc. Giữa cảnh làng đảo xen kẽ với cảnh trời lồng lộng, có bãi tắm đẹp và giàu hải sản chắc chắn nơi đây sẽ là một điểm hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước. c. Di tích lịch sử và thắng cảnh Di tích lịch sử và thắng cảnh nổi tiếng nhất ở Quảng Ninh nói riêng và cả nước nói chung là khu di tích chùa Yên Tử và khu vực danh thắng núi Yên Tử. Đây là một dãy núi lớn trùng điệp uốn hình cánh cung trải dài từ Đông Triều tới Uông Bí, Hoành Bồ, Ba Chẽ. Khu vực này thuộc nhiều đới khí hậu, có rừng nguyên sinh hết sức đa đạng, nhiều hoa thơm cỏ lạ, nhiều cây thuốc, loại chim, thú quý hiếm, quanh năm mây là đà che phủ, thác đổ, suối reo tạo nên cảnh tượng thiêng liêng, huyền bí. Yên Tử đã được các triều đại phong kiến Việt Nam liệt vào loại “danh sơn”. Sau khi Thiền Phái Trúc Lâm ra đời ở đây, cùng với một hệ thống chùa tháp uy nghi mọc lên chi chít, Yên Tử đã thực sự trở thành một “non thiêng”, một đại danh thắng của đất nước. Ở đây còn lưu giữ nhiều dấu tích của nhà Trần, đặc biệt là pho tượng vua Trần Nhân Tông, một tác phẩm nghệ thuật đời Trần nguyên vẹn và hiếm hoi còn lại cho đến ngày hôm nay. Lên đến Yên Tử, du khách như được đi trong mây, những làm mây quấn quanh dưới chân người như đưa du khách đến với một thế giới tâm linh ngoài trần gian. Đó là cổng trời, nơi giáp giới của trời đất, là chùa Vân Tiên, giới hạn cuối cùng ngăn cách trần gian với một thế giới khác. Đặc 17 biệt, ngôi chùa cao nhất ở Yên Tử là ngôi chùa Đồng. Đây là ngôi chùa được dựng hoàn toàn bằng đồng, từ chùa cho đến các đồ thờ trong chùa đều là đồng. Bên cạnh một hệ thống chùa tháp đồ sộ, ở Yên Tử còn có tiếng nước sôi réo ào ào của thác Ngự Dội, có suối giải oan chảy quanh chân ngôi chùa Giải Oan. Đặc biệt hơn cả là tảng đá cao 3m hiện ra trong màn sương mờ ảo. Nhìn từ mọi góc độ, tảng đá đều giống như một nhà sư mặc áo chùng thâm, hai tay chắp trước ngực, trầm mặc như đang cầu nguyện. Hệ thống chùa tháp ở núi Yên Tử cùng khung cảnh thiên nhiên như đưa du khách vào cõi tâm linh. Đến đây, giữa cảnh thiên nhiên hùng vĩ, giữa sự giao hoà trời - đất du khách sẽ có cảm giác tĩnh tại, suy ngẫm sự đời và thanh thản tâm hồn. d. Di tích lịch sử lưu niệm danh nhân. Ở Quảng Ninh có di tích lịch sử lưu niệm danh nhân, tuy số lượng không nhiều nhưng những di tích này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các thế hệ người dân Quảng Ninh. Đó là khu đền thờ Trần Hưng Đạo, miếu Vua Bà ở Yên Hưng. Đây không chỉ là nơi thờ những người có công với dân tộc trong việc chống ngoại xâm mà còn là sự nhắc nhở các thế hệ người Quảng Ninh phải sống sao cho xứng đáng với cha ông đi trước. Nếu ra đảo Cô Tô nơi hải đảo tiền tiêu của Tổ quốc, chúng ta không khỏi xúc động nhìn thấy tượng đài của Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Tượng bác tươi cười, giơ tay vẫy chào tàu thuyền ra vào tấp nập trên bến cảng Cô Tô, đây là bức tượng duy nhất được Người đồng ý cho xây dựng khi Người còn sống. Hình ảnh của Bác như luôn luôn nhắc nhở, động viên nhân dân trong đảo cố gắng thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với tiềm năng du lịch văn hoá lịch sử, kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu và đặc sắc đã tạo cho Quảng Ninh có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, nhiều di tích lịch sử nghệ thuật có giá trị. Bên cạnh đó Quảng Ninh còn có một tiềm năng du lịch nếu được khai thác tốt sẽ tạo điều kiện cho Ngành du lịch Quảng 18 Ninh ngày càng lớn mạnh hơn nữa: Đó là tiềm năng du lịch văn hoá dân tộc của các dân tộc thiểu số. Ở Quảng Ninh có các dân tộc anh em sinh sống hoà hợp với nhau. Ngoài dân tộc Kinh, ở đây còn có các làng bản của người Dao, người Tày, người Sán Dìu, người Sán Chay và người Hoa. Mỗi dân tộc có một truyền thống văn hoá riêng, nếu khai thác được các truyền thống văn hoá này sẽ tạo nên sự phong phú, đa dạng cho các loại hình hoạt động du lịch ở Quảng Ninh, thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước và các nhà nghiên cứu, làm cho truyền thống văn hoá của các dân tộc được bảo tồn và phát huy giá trị. 1.1.2. Hoạt động kinh tế du lịch của tỉnh Quảng Ninh trước năm 1996. Tuy tiềm năng du lịch của tỉnh Quảng Ninh là rất lớn nhưng trước năm 1996, hoạt động du lịch của Tỉnh chưa có gì nổi bật. Cùng với cả nước thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ở Đại hội VI (1986) tỉnh Quảng Ninh tập trung chủ yếu vào công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp để nâng cao đời sống cho nhân dân được no ấm, tạo tiền đề vững chắc cho giai đoạn sau. Ngành du lịch Quảng Ninh chưa được chú trọng phát triển mà một trong các nguyên nhân là thiếu vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho du lịch. Năm 1990 cùng với cả nước, nhân dân Quảng Ninh hân hoan đón chào “Năm du lịch Việt Nam”. Tuy nhiên các hoạt động du lịch của Quảng Ninh trong giai đoạn này còn đơn điệu, chủ yếu tập trung ở các bãi tắm và thăm quan một vài nơi trong Vịnh Hạ Long, các khách sạn đạt tiêu chuẩn xếp sao đều chưa có mà chủ yếu là các nhà khách, nhà nghỉ chất lượng kém. Công tác quản lý nhà nước về du lịch chưa được quan tâm nhiều biểu hiện ở các vấn đề sau: môi trường sinh thái khu du lịch còn bị ô nhiễm với các hoạt động bán hàng rong thải ra lượng rác thải bừa bãi trên các bãi tắm làm mất mỹ quan của các bãi tắm, tạo ấn tượng không tốt đối với du khách, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài; hiện tượng cò mồi đối với khách du lịch diễn ra phổ biến; hướng 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan