Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 1997 đến năm 2010...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 1997 đến năm 2010

.PDF
127
197
112

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------- NGUYỄN THANH TÙNG ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------- NGUYỄN THANH TÙNG ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010 Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 56 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Quang Liệu Hà Nội - 2014 LỜI CAM KẾT Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện bởi sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Quang Liệu. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2014 Tác giả luận văn Nguyễn Thanh Tùng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 7 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 7 6. Đóng góp của luận văn............................................................................... 8 7. Bố cục của luận văn ................................................................................... 8 CHƢƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005 .......................................... 9 1.1. Chủ trƣơng của Đảng về công tác thanh niên từ năm 1997 đến năm 2005 ... 9 1.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thanh niên ..... 9 1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về công tác thanh niên từ năm 1997 đến năm 2005 .......................................................................... 18 1.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo công tác thanh niên từ năm 1997 đến 2005 ..................................................................................... 24 1.2.1. Quá trình chỉ đạo ........................................................................... 24 1.2.2. Những kết quả đạt được ................................................................. 27 CHƢƠNG 2: ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010 .................. 48 2.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về công tác thanh niên từ năm 2006 đến năm 2010........................................................................ 48 2.1.1. Tình hình và yêu cầu mới của công tác thanh niên ở tỉnh Vĩnh Phúc ..... 48 2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về công tác thanh niên từ năm 2006 -2010........................................................................................ 51 2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ Vĩnh Phúc...................... 55 2.2.1. Quá trình chỉ đạo thực hiện ........................................................... 55 2.2.2. Những kết quả đạt được ................................................................. 58 CHƢƠNG 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU 84 3.1. Nhận xét chung .................................................................................... 84 3.1.1. Về kết quả đạt được........................................................................ 84 3.1.2. Hạn chế .......................................................................................... 93 3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu .............................................................. 95 3.2.1. Kinh nghiệm về xác định chủ trương ............................................. 95 3.2.2. Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện .................................................... 103 KẾT LUẬN ................................................................................................... 110 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 113 BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT ATGT : An toàn giao thông BCH : Ban Chấp hành CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội ĐVTN : Đoàn viên thanh niên KHKT : Khoa học kĩ thuật LHTN : Liên hiệp thanh niên Nxb : Nhà xuất bản THCN : Trung học chuyên nghiệp THCN-DN : Trung học chuyên nghiệp, dạy nghề THPT : Trung học phổ thông TNCS : Thanh niên cộng sản UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đề cao vai trò, vị trí của thanh niên đối với sự nghiệp gìn giữ và xây dựng phát triển đất nước. Ngay từ khi ra đời, Đảng xác định thanh niên và công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Đồng thời, Đảng ta cũng nhận thức vai trò của bản thân đối với công tác thanh niên: “Đảng phải thi hành ngay Án nghị quyết của Quốc tế Thanh niên cộng sản, phải ra một số đồng chí trẻ tuổi phụ trách tổ chức ra Thanh niên cộng sản đoàn và giúp Đoàn có tính chất độc lập” [52, tr.29]. Những quan điểm cơ bản trên của Đảng đã đặt nền móng vững chắc cho phong trào thanh niên và công tác thanh niên Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp bách của phong trào cách mạng. Trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, các chủ trương của Đảng liên tục được bổ sung, phát triển phù hợp với hoàn cảnh cách mạng ở từng giai đoạn cụ thể. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác thanh niên và phong trào thanh niên ngày càng phát triển vững chắc, góp phần bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, như lời căn dặn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”" [52, tr.28]. Nghị quyết số 04 của Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII khẳng định: “Thanh niên lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng 1 thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [52, tr.135]. Năm 1997, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập, có nhiều thuận lợi và nhiều khó khăn, thử thách trong việc lãnh đạo công tác thanh niên và phát triển phong trào thanh niên. Xuất phát từ quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh xác định rõ ràng về vai trò, vị trí của tuổi trẻ Vĩnh Phúc trong thời kỳ tái lập tỉnh và công cuộc CNH, HĐH; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối công tác thanh niên của tỉnh. Chỉ thị số 23/CT-TU của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc nêu rõ: “Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 04 trong các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể, các ngành, các tổ chức kinh tế xã hội, cán bộ đảng viên về chủ trương của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ mới, tạo ra sự nhất trí cao trong Đảng và chuyển biến đồng bộ của các cấp, các ngành, xác định rõ hơn vai trò và trách nhiệm to lớn của gia đình và toàn xã hội đối với công tác giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ” [84, tr.127], nhằm hình thành lớp người sống có lý tưởng cách mạng cao đẹp, trung thành với đường lối của Đảng, yêu quê hương, có lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết, quyết tâm chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu; có ý thức kỷ luật, tác phong làm việc khoa học; vượt qua những khó khăn, thử thách tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội của địa phương. Nghiên cứu sự lãnh đạo công tác thanh niên của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc nhằm rút ra kinh nghiệm cho công tác lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác thanh niên và khẳng định vai trò, vị trí to lớn của thanh niên trong thời kỳ CNH, HĐH. Qua đó nhằm phát huy vai trò xung kích của thanh niên Vĩnh Phúc trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo 2 công tác thanh niên từ năm 1997 đến năm 2010” làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đảng lãnh đạo công tác thanh niên là vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu của nhiều nhà khoa học. Kết quả của những công trình nghiên cứu đó cho thấy sự quan tâm, chăm lo của Đảng đối với thanh niên; tổ chức, vận động thanh niên tham gia tích cực vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc. Nhiều công trình của cá nhân, tổ chức đề cập đến hoặc đi sâu phân tích, tổng kết ở một khía cạnh hay góc độ nào đó thuộc vấn đề này. Có thể chia các công trình đó theo các nhóm cơ bản sau: Thứ nhất, những mảng nghiên cứu về thanh niên và vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam có các công trình sau: Tuổi trẻ Việt Nam với chủ chủ nghĩa yêu nước trong lịch sử dân tộc (Nxb. Thanh niên, H, 2008); Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh thiếu nhi tỉnh Vĩnh Phúc (1930- 2010) (Lưu hành nội bộ, 2011), đây là công trình nghiên cứu khoa học do Ban Thường vụ Tỉnh đoàn Vĩnh Phúc thực hiện năm 2010; Những phương pháp tiếp cận thanh niên hiện nay (Nxb. Thanh niên, H.1996) và Văn hóa Thanh niên và Thanh niên với văn hóa dân tộc (Nxb. Thanh niên, H.2001) của Dương Tự Đam; Một số mô hình giải pháp công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi giái đoạn 2007-2010 (Nxb. Thanh niên, H. 2010); Nhiệm vụ cơ bản của Thanh niên Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Nxb. Thanh niên, H. 2002); Tuổi trẻ Việt Nam đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đỗ Mười (Nxb. Thanh niên, H.1997)...Những công trình nghiên cứu trên đã thể hiện được vị trí, vai trò của thanh niên trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. 3 Thứ hai, là một số công trình nghiên cứu về quá trình Đảng lãnh đạo công tác thanh niên, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên trong giai đoạn hiện nay: Trước hết là một số công trình về quá trình lãnh đạo của Đảng về công tác thanh niên: Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác vận động thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước của Nguyễn Văn Hùng (Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2001); Một số nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thanh niên (Nxb. Thanh niên, H.1996); các Văn kiện của Đảng với sự nghiệp đổi mới... Về tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác thanh niên hiện nay có các công trình: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên của Đoàn Nam Đàn (Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2008); Giáo dục, rèn luyện thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam (Nxb. Quân đội nhân dân, H.2003); Thanh niên với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Hồ Đức Việt (Nxb. Thanh niên, H. 1996); Bác Hồ với sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ (Nxb. Thanh niên, H. 1985)... Các công trình nêu trên đã đề cập đến vị trí, vai trò, nhiệm vụ của thanh niên trong tiến trình cách mạng Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác thanh niên của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, các công trình trên tập trung nghiên cứu một cách tổng quan về sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng về công tác thanh niên. Thứ ba, là một số công trình nghiên cứu liên quan đến thanh niên và công tác thanh niên của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc như: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (1930-2005) của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2007); Tác động của đô thị hóa - công nghiệp hóa tới phát triển và biến đổi kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc (Nxb Khoa học xã hội, H. 2005); Điển hình trong công tác Đoàn và phong trào đoàn tỉnh Vĩnh Phúc (1997- 4 2002) của Tỉnh đoàn Vĩnh Phúc (Lưu hành nội bộ, 2002); Sổ tay Công tác khoa giáo Vĩnh Phúc của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (Lưu hành nội bộ, 2005); Các Chỉ thị, Nghị quyết của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (1997-2010) của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (Tài liệu lưu hành nội bộ, 2012); Dự thảo Đề án phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 20082015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (Lưu hành nội bộ, 2007); Kỷ yếu các đề khoa học và công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc (2007-2009) của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc (Nxb. Lao động xã hội, H. 2010); Vĩnh Tường trên hành trình đổi mới và phát triển (Nxb. Văn hóa Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh. 2005); Yên Lạc một miền quê hiếu học (Nxb Văn hóa Thông tin, H. 2002). Ngoài ra, có các Văn kiện của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã đề cập đến sự lãnh đạo về sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương... Các công trình nghiên cứu trên thể hiện được vai trò và đóng góp của thanh niên tỉnh Vĩnh Phúc đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh – quốc phòng ở địa phương. Thông qua đó, công tác vận động thanh niên của Đảng bộ tỉnh được đề cập đến một cách gián tiếp thông qua những quan điểm, chủ trương lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc. Thứ tư, là một số kỷ yếu khoa học, bài báo, tạp chí, luận văn liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc đối với công tác thanh niên trong thời kỳ CNH, HĐH. Các bài viết liên quan đến đề tài luận văn được đăng trên các tạp chí: Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lao động và Xã hội, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, Tạp chí Quản lý Nhà nước... Bên cạnh đó là các luận văn, luận án: Nguyễn Trung Hưng (2006), Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề cho thanh niên nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động ở tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ Xã hội học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội; Ngô 5 Thị Khánh (2007), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 1986 đến năm 2006, Luận án Thạc sĩ Lịch sử, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận Chính trị - Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Quang Liệu với đề tài Cuộc vận động thanh niên miền Bắc của Đảng Lao động Việt Nam (1965 – 1975) (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, H. 2010); Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới của Phạm Đình Nghiệp (Đề tài khoa học mã số KTN 96-01, 1996), Trần Thị Nhơn với đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, H. 2001)... Các công trình nghiên cứu, những chuyên luận, bài viết nêu trên được tiếp cận trình bày khác nhau về Đảng bộ Vĩnh Phúc và Đoàn Thanh niên đã được tập hợp, hệ thống hóa nhiều tư liệu lịch sử quan trọng về Đảng và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của địa phương. Kết quả nghiên cứu đã được giới thiệu, phổ biến trong các tài liệu giáo dục truyền thống về Đảng, về Đoàn cho nhân dân Vĩnh Phúc, trong đó đặc biệt là đoàn viên thanh niên. Tuy nhiên, hầu hết các công trình, đều chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc đối với công tác thanh niên thời kỳ sau khi tái lập tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là nguồn tài liệu không nhỏ giúp tôi tìm hiểu sâu hơn, toàn diện hơn các vấn đề liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc đối với công tác thanh niên từ năm 1997 đến năm 2010. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Góp phần làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về công tác thanh niên sau khi tái lập tỉnh năm 1997 và thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 6 - Rút ra một số kinh nghiệm lịch sử có ý nghĩa tham khảo đối với công tác thanh niên tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ thực trạng phong trào thanh niên tỉnh Vĩnh Phúc và yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với công tác thanh niên. - Phân tích có hệ thống chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về công tác thanh niên từ năm 1997 đến 2010. - Trình bày những chương trình hành động và kết quả của phong trào thanh niên tỉnh Vĩnh Phúc dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, từ đó rút ra một số kinh nghiệm về lãnh đạo công tác thanh niên của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về công tác thanh niên và các giải pháp, phương thức chỉ đạo thực hiện về công tác thanh niên từ năm 1997 đến 2010. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong chỉ đạo công tác thanh niên, thực tiễn phong trào thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Thời gian: luận văn nghiên cứu các vấn đề trên từ năm 1997 đến năm 2010. - Không gian: sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận sử học, luận văn kết hợp các phương pháp khác như: phương pháp logic, phân tích, tổng hợp, so sánh phù hợp với yêu cầu của từng nội dung của luận văn. 7 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa tư liệu lịch sử về quan điểm, chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với công tác thanh niên và phong trào thanh niên của tuổi trẻ Vĩnh Phúc sau hơn 10 năm tái lập tỉnh. - Góp phần làm rõ công tác vận động, tập hợp đoàn kết thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đạt mục mục tiêu Vĩnh Phúc trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015. - Những kinh nghiệm bước đầu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về công tác thanh niên, phát huy sức mạnh của thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh Vĩnh Phúc. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 1997 đến 2005. Chương 2: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo đẩy mạnh công tác thanh niên từ năm 2006 đến năm 2010. Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu. 8 CHƢƠNG 1 ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005 1.1. Chủ trƣơng của Đảng về công tác thanh niên từ năm 1997 đến năm 2005 1.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thanh niên Tháng 1 năm 1946, trong thư gửi thanh thiếu niên nhân đón Tết Nguyên Đán đầu tiên sau ngày đất nước giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của nhân loại” [52, tr.9]. Ngày 17 tháng 8 năm 1947, trong "Gửi các bạn thanh niên", Người khẳng định: “Thanh niên là người làm chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cho tương lai đó” [52, tr.10]. Điều này đã khẳng định được vai trò của thanh niên đối với tương lai của đất nước, dân tộc; đồng thời cũng cho thấy niềm tin tuyệt đối vào thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã phát huy cao độ sức mạnh của tuổi trẻ trong công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thanh niên luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Tuy nhiên, vai trò của thanh niên đối với dân tộc không phải ở mọi thời đại đều phát huy được hết sức mạnh của mình. Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng luôn có các chủ trương về công tác thanh niên, từng bước bổ sung cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, làm cho phong trào thanh niên phát triển vững chắc, tổ chức Đoàn vững 9 mạnh, góp phần quan trọng đào tạo, bồi dưỡng tuổi trẻ Việt Nam đủ năng lực và phẩm chất kế tục một cách trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Đảng và dân tộc. Tháng 12 - 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đưa ra và giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đại hội VI đã phân tích sâu sắc những thành tựu và hạn chế trong suốt 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nghiêm khắc tự phê bình sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Nghị quyết của Đại hội VI đã trở thành nền tảng cho việc đánh giá tình hình đất nước trước năm 1986 và đề ra các chủ trương, chính sách mới về kinh tế, xã hội, văn hóa mới, trong đó có những chính sách đối với thanh niên: “Thanh niên phải đảm bảo việc làm khi bước vào đời và được quan tâm giáo dục về nhân cách, bản lĩnh và lý tưởng theo phương châm “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Phải có ý thức đầy đủ rằng chính thanh niên là lớp người có sứ mệnh lịch sử xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Mạnh dạn giao trách nhiệm cho thanh niên và thông qua các hoạt động xã hội mà đào tạo và bồi dưỡng họ…” [52, tr.130-131]. Quan điểm này thể hiện rõ vai trò của thanh niên và niềm tin, sự quan tâm của Đảng với thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khởi đầu thời kì đổi mới, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển quan trọng ảnh hưởng không nhỏ đến đất nước ta. Đó là công cuộc cải tổ ở Liên Xô và cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đang mắc phải những sai lầm nghiêm trọng về chiến lược và lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Sự sụp đổ của bức tường Beclin, nguy cơ tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tác động mạnh đến sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam: “Tin tức về những sự kiện đó dồn dập dội vào trong nước không tránh khỏi việc gây ra những tác động tiêu cực đến nhân 10 dân Việt Nam, kể cả một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thanh niên và trí thức - những nhóm xã hội dân cư có độ mẫn cảm cao nhất” [91, tr.97]. Thực tiễn công cuộc đổi mới sau 5 năm đã mang lại nhiều thành tựu đáng kể, tình hình chính trị - kinh tế - xã hội được ổn định nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi sự khủng hoảng sâu sắc, hướng đi tiếp theo của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn chưa được xác định rõ ràng. Các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, truyền bá tư tưởng văn hóa đồ trụy, độc hại, lối sống vô đạo đức nhằm lôi kéo và làm hư hỏng thanh niên, ráo riết hoạt động hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 25-NQ/TW "Về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên" (ngày 9 - 2 - 1991). Nghị quyết trên đã đưa lại một định hướng mới với những giải pháp lãnh đạo mới của Đảng đối với công tác thanh niên. Trên cơ sở nhận định tình hình thanh niên, Bộ Chính trị đã đưa ra những quan điểm cơ bản về công tác thanh niên như sau: Thứ nhất, Nghị quyết khẳng định: “Đảng, Nhà nước và toàn dân ta phải hết lòng bồi dưỡng, phát huy tiềm năng và vai trò chủ động của thanh niên trên mọi lĩnh vực của công cuộc đổi mới, coi đó là nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược con người” [52, tr.132]. Như vậy, Đảng phải vừa bồi dưỡng, vừa phải tổ chức, vừa phải tạo điều kiện cho thanh niên tham gia vào các hoạt động xã hội, lao động sản xuất, nghiên cứu, học tập…phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Thứ hai, Đảng quán triệt quan điểm phải tập hợp và đoàn kết mọi tầng lớp thanh niên trên cơ sở lấy Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm hạt nhân nòng cốt, “vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, vì lợi ích thiết thực của mọi tầng lớp thanh niên theo con đường xã hội chủ nghĩa, dân chủ và công bằng xã hội, vì cuộc sống văn minh, hạnh phúc của tuổi trẻ” [52, tr.132]. 11 Quan điểm đó cho thấy, lợi ích của tuổi trẻ cũng là lợi ích chung của xã hội, của đất nước. Do vậy, việc tập hợp và đoàn kết thanh niên phải đa dạng, tôn trọng sự phát triển đa dạng theo nghề nghiệp, sở thích và các nhu cầu khác của thanh niên. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải được xây dựng vững mạnh, đủ sức đảm đương nhiệm vụ “làm hạt nhân nòng cốt của phong trào thanh niên và làm lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc và của Đảng” [52, tr.132]. Để thực hiện nhiệm vụ cao cả trên, tổ chức Đoàn phải tiến hành đổi mới một cách mạnh mẽ và sâu sắc, đáp ứng được những đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước đang diễn ra. Thứ ba, Đảng quan điểm về công tác thanh niên phải là “trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền và của toàn xã hội” [52, tr.132], do đó phải có sự phối hợp chặt chẽ các tổ chức của hệ thống chính trị - xã hội, phối hợp với gia đình và nhà trường. Đối với Nhà nước phải ban hành những thể chế, cơ chế và chính sách thích hợp nhằm đảm bảo các quyền lợi và nghĩa vụ của thanh niên trong tình hình mới. Để thực hiện được tốt những nhiệm vụ nêu trên, Nghị quyết nêu lên những phương hướng, nội dung, giải pháp chủ yếu của công tác thanh niên như: vấn đề việc làm; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đối với phong trào hành động cách mạng trong thanh niên; đối với công tác xây dựng Đoàn. Như vậy, Nghị quyết 25-NQ/TW của Bộ Chính trị ra đời đã kịp thời đáp ứng yêu cầu khách quan của công tác thanh niên trong điều kiện thế giới và trong nước có những chuyển biến mau lẹ và phức tạp, tác động mạnh mẽ tới thanh niên. Thực tiễn cho thấy, Nghị quyết có ý nghĩa hết sức quan trọng trong phát huy tiềm năng và vai trò chủ động của thanh niên đối với công cuộc đổi mới của đất nước. Đánh dấu “một bước chuyển biến quan trọng trong công tác lãnh đạo thanh niên của Đảng, đặt cơ sở cho toàn bộ đường lối, chính sách của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đổi mới” [91, 12 tr.99-100]. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của phong trào thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Ngày 14 - 1 -1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã họp và ra Nghị quyết số 04-NQ/HNTW "Về công tác thanh niên trong thời kì mới". Đây là lần thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành nghị quyết Trung ương chuyên đề về công tác thanh niên. Trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, một bộ phận thanh niên dao động về tư tưởng, ít quan tâm sinh hoạt chính trị, thiếu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, coi thường truyền thống cách mạng, giá trị nhân văn, kỷ cương, đạo lý, vẫn mang nặng tâm lý thụ động, ỷ lại từ thời kỳ bao cấp, tâm lý chưa có sự chuyển biến kịp khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mắc nhiều tệ nạn xã hội. Trong khi đó, công tác thanh niên chưa kịp đổi mới, thiếu nhận thức sâu sắc vai trò của thanh niên trong thời kỳ mới, niềm tin của tuổi trẻ đối với Đảng bị giảm sút do tình trạng biến chất, thoái hóa của nhiều đảng viên. Bên cạnh đó, Nghị quyết 25-NQ/TW ban hành ngày 9 - 2 - 1991 vẫn còn nhiều hạn chế, chưa ảnh hưởng sâu rộng trong công tác thanh niên và phong trào thanh niên. Nghị quyết số 04-NQ/HNTW khẳng định: “Vấn đề thanh niên phải được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển nhân tố và nguồn lực con người” và là “lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [52, tr.135]. Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, chưa bao giờ vai trò, vị trí của thanh niên và công tác thanh niên lại được Đảng đánh giá cao như vậy. Nghị quyết đã đề ra phương hướng lớn trong chính sách thanh niên, xác định mục tiêu và nhiệm vụ của công tác thanh niên trong thời kỳ mới như sau: “Đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng và tạo mọi điều kiện cho thanh niên phấn 13 đấu để hình thành một thế hệ con người mới có lý tưởng cao đẹp, có ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức, có sức khỏe và lao động giỏi, sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính. Cổ vũ thanh niên Việt Nam nuôi dưỡng hoài bão, tự cường dân tộc, năng động, sáng tạo, làm chủ được khoa học và công nghệ mới, vươn lên ngang tầm thời đại, sánh vai cùng thanh niên các nước trên thế giới” [52, tr.136]. Đây là sự củng cố và phát triển hoàn chỉnh về đường lối, chính sách của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ của công tác thanh niên trong thời kỳ đổi mới đất nước toàn diện. Đối với việc phát huy lực lượng và tiềm năng của thế hệ trẻ, Nghị quyết BCH Trung ương lần thứ 4 khóa VII đặt vấn đề công ăn việc làm cho thanh niên lên vị trí hàng đầu: “giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên là một ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước” [52, tr.136], tạo mọi điều kiện thuận lợi cơ bản nhất để thanh niên phát huy phẩm chất, năng lực của bản thân. Phương hướng được nêu ra là phải đáp ứng thiết thực các yêu cầu về học tập, lao động sinh hoạt về vật chất và tinh thần cho thanh niên, bồi dưỡng tài năng trẻ, mạnh dạn giao việc cho thanh niên, đặc biệt quan tâm đến thanh niên dân tộc. Đối với tổ chức Đoàn, Nghị quyết nhấn mạnh đến việc xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là đội dự bị của Đảng. Đoàn kết, mở rộng các hình thức tập hợp các tầng lớp thanh niên. Đối với việc xây dựng môi trường xã hội thuận lợi tạo điều kiện cho sự phát triển của thế hệ trẻ, Đảng coi đó là nhiệm vụ chính của công tác thanh niên. Để làm được việc đó, Đảng yêu cầu cần tập trung giải quyết các vấn đề cấp bách như: “lập lại trật tự kỷ cương xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật; chống văn hóa độc hại, đồi trụy, mê tín, dị đoan; chống nạn ma túy, mãi dâm, cờ bạc; chống tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả và các hành vi tội phạm, bảo đảm an ninh trật tự và an toàn xã hội” [52, tr.137]. Bên 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan