Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ ...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1997 đến năm 2010

.PDF
121
205
91

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  NGUYỄN THỊ NGÂN ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  NGUYỄN THỊ NGÂN ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010 Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 03 15 LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Hồ Khang Hà Nội - 2013 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005 ....................................................................................... 9 1.1. Vài nét khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, lịch sử tỉnh Vĩnh Phúc .............................................................................................. 9 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội ................................................. 9 1.1.2. Truyền thống lịch sử.......................................................................... 12 1.2. Công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Vĩnh Phúc trước năm 1997 ........................................................................... 15 1.2.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở .................................................................... 15 1.2.2. Khái quát về công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Vĩnh Phúc trước năm 1997 ............................................ 18 1.3. Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1997 đến năm 2005.......................................................................................................... 24 1.3.1. Đặc điểm tình hình và yêu cầu đặt ra đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Vĩnh Phúc ................. 24 1.3.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc .......................................... 29 1.3.3. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh ............................. 38 Chƣơng 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CƠ SỞ TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010 .......................... 47 2.1. Yêu cầu mới trong công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc ............ 47 2.1.1. Yêu cầu mới trong công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở .................................................................................. 47 2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc .......................................... 54 2.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo thực hiện công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở ........................................ 60 2.2.1. Chỉ đạo xây dựng chương trình hành động, kế hoạch và đề án về công tác giáo dục lý luận chính trị ........................................................... 60 2.2.2. Chỉ đạo hoạt động của Trường chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị ở các huyện, thị xã ............................................... 66 Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ......................................................... 80 3.1. Nhận xét tổng quát ....................................................................................... 80 3.1.1. Một số thành tựu trong sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở ............. 80 3.1.2. Một số hạn chế trong sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ....... 87 3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu ........................................................................ 91 3.2.1. Hoạch định chủ trương giáo dục lý luận chính trị cần bám sát vào quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, yêu cầu, nhiệm vụ của tỉnh và đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở .............. 91 3.2.2. Phải có sự phối kết hợp của các ban ngành, đoàn thể để tiến hành công tác giáo dục lý luận chính trị một cách thực chất, tránh hình thức....................................................................................................... 93 3.2.3. Phải có sự chỉ đạo sát sao, nhạy bén để tạo lập đồng bộ các yếu tố cho việc nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị ................. 95 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 105 PHỤ LỤC ............................................................................................................ 111 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCH : Ban chấp hành BCT : Bộ Chính trị BCHTW : Ban chấp hành Trung ương BTV : Ban thường vụ CBCC : Cán bộ công chức CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNTB : Chủ nghĩa tư bản CNXH : Chủ nghĩa xã hội CSVN : Cộng sản Việt Nam GDLLCT : Giáo dục lý luận chính trị HĐND : Hội đồng nhân dân KT-XH : Kinh tế - xã hội LLCT : Lý luận chính trị MTTQ : Mặt trận tổ quốc NNL : Nguồn nhân lực PTTH : Phổ thông trung học QLNN : Quản lý nhà nước TCLLCT : Trung cấp lý luận chính trị TTBDCT : Trung tâm bồi dưỡng chính trị XHCN : Xã hội chủ nghĩa UBND : Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Công tác GDLLCT cho cán bộ, đảng viên là một bộ phận của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lãnh đạo thực hiện công tác GDLLCT là một khâu quan trọng trong lãnh đạo công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Công tác tư tưởng muốn làm tốt trước hết phải làm tốt công tác GDLLCT. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” [24, tr. 32] và “Chỉ Đảng nào có lý luận tiên phong hướng dẫn, thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [24, tr. 32]. Trải qua hơn 80 năm hoạt động và trưởng thành, trong các thời điểm, hoàn cảnh khác nhau, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chăm lo đến công tác GDLLCT cho cán bộ, đảng viên. Công tác GDLLCT đã góp phần quan trọng làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng và nền tảng tinh thần của xã hội; nâng cao tính tự giác chính trị của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong việc kiên định và quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối, cương lĩnh chính trị của Đảng. Ngày nay, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu quan trọng. Đất nước đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Thực tiễn đó đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt nam. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở lý luận khoa học của cách mạng, nền tảng tư tưởng của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là kết quả và thắng lợi của quá trình tổ chức giáo dục truyền bá hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, trong đó GDLLCT giữ vai trò quan trọng nhằm nâng cao 1 nhận thức chính trị, ý thức tự giác của cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia vào công cuộc đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, đặc biệt là dưới những biến động lớn về kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới và khu vực, nhất là sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bên cạnh mặt tích cực còn có những mặt tiêu cực tác động mạnh mẽ đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân; dẫn đến hậu quả là, một số bộ phận không nhỏ cán bộ chạy theo lợi ích kinh tế, ít quan tâm đến chính trị, một số thoái hóa về phong cách, lối sống, phai nhạt lý tưởng, thậm chí có người phản bội sự nghiệp cách mạng làm mất niềm tin trong nhân dân; một bộ phận cán bộ đảng viên vẫn còn mắc bệnh độc đoán chuyên quyền, phong cách làm việc thiếu khoa học, thiếu dân chủ... Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Để có thể giữ vững ổn định chính trị và tiếp tục phát triển đất nước, nhất thiết Việt Nam phải tỉnh táo phán đoán, xử lý kịp thời. Điều đó đòi hỏi người cán bộ từ Trung ương đến cơ sở phải có trình độ LLCT để đáp ứng và giải quyết những yêu cầu nhiệm vụ được giao; bởi trình độ LLCT của người cán bộ là yếu tố “then chốt” cho mọi hoạt động nhận thức và hành động thực tiễn của họ, là khâu quyết định trực tiếp sự thành bại của cách mạng, gắn với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ. Trong tác phẩm Sửa đổi lề lối làm việc (viết năm 1947) Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công tác thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”; “lý luận phải liên hệ với thực tế”. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, GDLLCT phải được đặt lên hàng đầu và trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong giáo dục về mọi mặt đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo cơ sở. Vì chính họ là những người trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ở cơ sở. Vấn đề này còn đặc biệt có ý nghĩa đối với đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Vĩnh Phúc- 2 một tỉnh còn non trẻ, đang có những bước phát triển quan trọng trong mọi mặt đời sống xã hội, song vẫn còn nhiều vấn đề cấp bách đang đặt ra. Thực tế cho thấy, trong suốt 15 năm qua, từ khi tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập (1/1/1997) đến nay, bên cạnh những thành tựu vượt bậc về kinh tếchính trị- văn hóa - xã hội, đội ngũ cán bộ các cấp được các cấp ủy đảng của tỉnh thường xuyên quan tâm, không ngừng được nâng cao về mọi mặt. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như năng lực lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là trình độ LLCT. Bởi đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay ở Vĩnh Phúc được hình thành từ nhiều nguồn, thường trưởng thành từ thực tế, ít được đào tạo LLCT một cách có hệ thống, nên trình độ tư duy lý luận hạn chế, trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn họ thường mắc phải bệnh kinh viện, giáo điều, điều hành công tác lãnh đạo, quản lý cũng như xử lý công việc một cách máy móc, kém hiệu quả, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tổ chức thực tiễn ở địa phương. Trước tình hình ấy, việc nghiên cứu về quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ cơ sở, đúc rút kinh nghiệm từ quá trình đó, đang trở thành một yêu cầu cấp thiết. Đó là những lý do chủ yếu để chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1997 đến năm 2010” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt nam. 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề Công tác GDLLCT được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đây là một trong những công tác trọng tâm, đặc biệt công tác này ở các địa phương càng có vị trí, vai trò quan trọng. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách và những yêu cầu, quy định về trình độ LLCT đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành. Đây là những định hướng quan trọng góp phần nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. 3 Trong những năm vừa qua, lĩnh vực này đã có nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, tiêu biểu là những công trình sau: - Các công trình tham khảo, chuyên khảo “Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận của việc xây dựng thế giới quan khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa" (1975), V.I.Vaxilenco, Nxb Matxcova. “Một số vấn đề về công tác tư tưởng trong tình hình mới” (1995), Hữu Thọ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. “Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin" (2010), GS,TS. Hoàng Chí Bảo chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Bài tạp chí “Xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị” của GS Nguyễn Đức Bình, Tạp chí Cộng sản. “Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của công tác GDLLCT trong tình hình mới” của Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 1/ 2004. “Tạo bước chuyển biến mới trong việc học tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên” của Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí Cộng sản, tháng 11/ 1999. - Luận án, luận văn tiến sĩ, thạc sĩ “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ các bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hồng Lê, Luận văn thạc sĩ Triết học, năm 2001. “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy Mác-Lênin ở các trường chính trị tỉnh” của Nguyễn Đình Trãi, luận án tiến sĩ Triết học, năm 2001. 4 “Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở miền núi từ năm 1996 đến năm 2006” của Lê Văn Minh, luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng CSVN, năm 2009. “Quá trình đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở trong cuộc đấu tranh “chống diễn biến hòa bình” của Vũ Ngọc Am, luận án tiến sĩ Triết học, năm 2002. Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu ở góc độ khác nhau, nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở như đề tài mà chúng tôi đã lựa chọn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận văn làm rõ sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1997 đến năm 2010, từ đó rút ra một số kinh nghiệm, góp phần đẩy mạnh công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Vĩnh Phúc thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích hệ thống quan điểm của Đảng về công tác GDLLCT. - Làm rõ quá trình quán triệt, vận dụng hệ thống quan điểm của Đảng về công tác GDLLCT của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc để đề ra chủ trương và những biện pháp, giải pháp chủ yếu đối với công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phù hợp với thực tiễn địa phương. - Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở địa phương. - Đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác GDLLCT từ năm 1997 đến năm 2010. 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh. 4.2. Phạm vi - Nội dung: Những chủ trương cơ bản, chủ yếu, những biện pháp, những sự kiện quan trọng trong quá trình quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác GDLLCT. - Không gian: Luận văn nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, nhưng có nghiên cứu ở mức độ nhất định các tỉnh lân cận để so sánh. - Thời gian: Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với công tác GDLLCT từ năm 1997 đến năm 2010, có phần liên hệ với thời gian trước để so sánh. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối của Đảng, nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về công tác GDLLCT. 5.2. Nguồn tư liệu Luận văn khai thác nguồn tư liệu chủ yếu là các văn kiện Đại hội Đảng, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, Hội nghị Bộ Chính trị cũng như các nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về công tác GDLLCT từ năm 1997 đến năm 2010; những báo cáo tổng kết thực tiễn công tác GDLLCT của Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương và các cơ quan có liên quan. 5.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của Luận văn là kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic để làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Ngoài ra, luận 6 văn còn kết hợp phương pháp điều tra, khảo sát, phân tích, so sánh để dựng lại bức tranh lịch sử về công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2010 dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh. Để luận giải và rút ra những kinh nghiệm chủ yếu có giá trị lý luận và thực tiễn, luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp logic - lịch sử, so sánh và hệ thống hóa. 6. Đóng góp khoa học của luận văn - Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1997 đến năm 2010, trên cơ sở đó nêu rõ những thành tựu và hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. - Rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với công tác GDLLCT, góp phần thực hiện tốt hơn nữa công tác GDLLCT cho đội ngũ cán bộ cơ sở thời gian tới. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và tuyên truyền về lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ đổi mới. 7. Ý nghĩa của luận văn Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Về ý nghĩa lý luận: Luận văn dựa trên những lý luận khoa học của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, áp dụng vào thực tiễn lịch sử để nêu lên những lý luận khoa học về công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh Vĩnh Phúc những năm 1997 đến năm 2010. Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn nêu lên cách nhìn vừa cụ thể vừa khái quát về chặng đường lịch sử của Đảng bộ tỉnh trong công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1997 đến năm 2010. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và ứng dụng vào thực tiễn của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới. 7 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1: Chủ trương và sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1997 đến năm 2005. Chương 2: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 2005 đến năm 2010. Chƣơng 3: Nhận xét và kinh nghiệm 8 Chƣơng 1 CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005 1.1. Vài nét khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, lịch sử tỉnh Vĩnh Phúc 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội Vĩnh Phúc nằm trong khu vực châu thổ sông Hồng, thuộc Trung du và Miền núi phía Bắc, có tọa độ địa lý từ 21°08′-21°19′ độ vĩ Bắc và 105°109′106°47′ độ kinh Đông. Cũng như các tỉnh khác thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Vĩnh Phúc chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và có mùa đông lạnh. Hàng năm có hai mùa nóng và lạnh rõ rệt, nhiệt độ trung bình hàng năm là 24 độ C. Vĩnh Phúc nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, phía Bắc giáp với tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang; phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ; phía Đông và phía Nam giáp với Thủ đô Hà Nội. Do vị trí nằm ở trung tâm Đồng bằng sông Hồng, là miền chuyển tiếp, cầu nối giữa các tỉnh miền núi phía Bắc với Thủ đô Hà Nội với các tỉnh đồng bằng Bắc bộ nên hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ khá phát triển. Với tổng chiều dài đường bộ khoảng 1.500km, Vĩnh Phúc là điểm đầu của Quốc lộ 18 đi cảng Cái Lân (Quảng Ninh), tiếp giáp với sân bay quốc tế Nội Bài, con đường xuyên Á chạy qua Cảng Cái Lân - Nội Bài - Vĩnh Phúc - Lào Cai - Vân Nam (Trung Quốc) dài hơn 40km; đường quốc lộ 2 chạy dọc tỉnh; đồng thời có hệ thống giao thông đường sắt Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam (Trung Quốc). Vĩnh Phúc có 4 con sông chính: sông Hồng, sông Lô, sông Phó Đáy và sông Cà Lồ bởi vậy giao thông đường thủy phát triển khá nhộn nhịp. Tỉnh Vĩnh Phúc có chín đơn vị hành chính bao gồm: Thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên và bảy huyện: Lập Thạch, Tam Dương, Tam Đảo, Bình Xuyên, 9 Vĩnh Tường, Yên Lạc và Sông Lô. Trong đó thành phố Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của tỉnh , cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 25km. Quá trình phát triển KT-XH của đất nước trong các năm qua đã tạo cho Vĩnh Phúc những lợi thế mới về vị trí địa lý kinh tế, tỉnh đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp các tỉnh phía Bắc. Đồng thời, sự phát triển các tuyến hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan đã đưa Vĩnh Phúc xích gần hơn với các trung tâm kinh tế, công nghiệp và những thành phố lớn của quốc gia và quốc tế thuộc hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng, Quốc lộ 2, Việt Trì - Hà Giang - Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong tương lai là đường vành đai IV Thủ đô Hà Nội... Vĩnh Phúc nằm trong vùng chuyển tiếp giữa vùng gò đồi, trung du với vùng đồng bằng Châu thổ Sông Hồng, bởi vậy, địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và chia làm 3 vùng sinh thái: Vùng núi, Trung du và Đồng bằng. Với diện tích tự nhiên 123.650,05 ha; đất nông nghiệp: 86.718,73ha, trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 50.365,99ha; đất lâm nghiệp32.688,66 ha; đất nuôi trồng thuỷ sản: 3.590,21ha, đất nông nghiệp khác 73,8 ha; đất phi nông nghiệp 34.768,7 ha; đất chưa sử dụng 2.162,54ha. Thiên nhiên, đất đai, sông nước đã ban tặng cho người dân Vĩnh Phúc những sản vật quý giá. Ngay từ buổi đầu lịch sử, thời các vua Hùng dựng nước, Vĩnh Phúc nằm trong địa phận bộ Văn Lang, trên hợp lưu của 3 con sông: Sông Thao, Sông Đà, Sông Lô… Từ năm 111-TCN, nhà Hán xâm chiếm nước ta, chia làm 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Nhân, Nhật Nam. Khi đó, dưới quận là huyện, và Vĩnh Phúc bấy giờ thuộc huyện Mê Linh. Trải qua nhiều biến động lịch sử, đến cuối thế kỷ XIX, tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên lần lượt ra đời. Đến ngày 12/2/1950 tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập trên cơ sở hợp nhất 2 tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên nhằm tăng cường sự chỉ đạo phong trào đấu tranh hậu địch. Ngày 26/1/1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết hợp nhất 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, lấy tên là Vĩnh Phú. Sau nhiều lần thay đổi, đến tháng 10 1/1997, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 gồm 6 đơn vị hành chính cấp huyện: thị xã Vĩnh Yên và 5 huyện (Lập Thạch, Vĩnh Tường, Tam Đảo, Mê Linh) [51, tr. 13]. Tháng 6/1998, huyện Tam Đảo được chia tách thành 2 huyện: Tam Dương và Bình Xuyên. Ngày 9/12/2003, huyện Tam Đảo mới được thành lập. Từ 1/8/2008, Chính phủ ra Quyết định tách huyện Mê Linh sát nhập vào thành phố Hà Nội, ngày 29/12/2008, huyện Lập Thạch được chia tách thành 2 huyện: Lập Thạch và Sông Lô. Như vậy, hiện nay tỉnh Vĩnh Phúc có 9 đơn vị hành chính bao gồm thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên và 7 huyện với 137 xã, phường, thị trấn. Vĩnh Phúc là tỉnh khá đông dân, tính đến cuối năm 2004 dân số có 1.154.792 người; lực lượng lao động chiếm hơn 63% dân số; mật độ dân số là 842 người/km2 [56, tr. 31]. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng hiện nay, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phúc tiếp tục phát huy truyền thống văn hiến cách mạng, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh cách đây 50 năm khi Người về thăm Vĩnh Phúc đã căn dặn: “Phải làm cho Vĩnh Phúc trở thành một trong những tỉnh giàu có, phồn vinh nhất miền Bắc nước ta”. Từ chỗ ngân sách của tỉnh chỉ thu được gần 100 tỷ đồng (năm 1997), trang trải chưa đủ tiền lương cho cán bộ viên chức và các đối tượng chính sách được hưởng lương, nhưng chỉ sau năm năm (trong nhiệm kỳ Đại hội XIII Đảng bộ tỉnh), tận dụng lợi thế về địa lý, khí hậu, nguồn nhân lực dồi dào; với chính sách thông thoáng “trải thảm đỏ mời gọi đầu tư”, Vĩnh Phúc đã có sự chuyển đổi rõ rệt về cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ. Vốn là tỉnh thuần nông, hiện nay trên địa bàn Vĩnh Phúc đã hình thành nhiều khu công nghiệp tập trung như: khu công nghiệp Khai Quang, khu công nghiệp Bình Xuyên, khu công nghiệp Bá Thiện... Công nghiệp, dịch vụ về Vĩnh Phúc kéo theo sự tiến triển của tiểu thủ công nghiệp, một số làng nghề thủ công nghiệp truyền thống được khội phục và phát triển ổn định. Một số thị trấn, thị 11 tứ mới được hình thành, tỷ trọng GDP công nghiệp, dịch vụ so với nông nghiệp đã dần chiếm ưu thế, tạo điều kiện cho nền kinh tế của tỉnh phát triển toàn diện và vững chắc, GDP năm sau cao hơn năm trước, bình quân 17,4%/ năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp- xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp - thủy sản. Nếu như năm 2000, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng; dịch vụ; nông lâm nghiệp thủy sản lần lượt là: 14,1 %; 19% và 66,9%. Đến năm 2005 tỷ lệ này là 18%; 20,7% và 61,3%. Đến năm 2010, nông nghiệp chỉ chiếm 31,2 %; công nghiệp, xây dựng 33,1 %; dịch vụ 35,7% [60, tr. 12]. Song song với phát triển kinh tế, giáo dục và đào tạo tiếp tục được phát triển, đảm bảo cân đối về quy mô, loại hình và nâng cao chất lượng, từng bước được thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm, lĩnh vực y tế dự phòng, tiêm chủng, bảo vệ sức khỏe trẻ em, khám chữa bệnh có nhiều chuyển biến tích cực. Cơ sở khám chữa bệnh được đầu tư và nâng cấp. Hoạt động thể dục, thể thao, rèn luyện sức khỏe của nhân dân được chú ý phát triển. Bộ máy chính quyền các cấp được kiện toàn theo hướng tinh giảm, nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành quản lý xã hội. Kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, không còn hộ đói; số hộ nghèo giảm từ 18,04% năm 2005 xuống còn 7% năm 2010 (theo tiêu chí mới); thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 31 triệu đồng, tương đương 1.630 USD, gấp 3,45 lần so với năm 2005. Phong trào đền ơn đáp nghĩa và giúp giúp đỡ các gia đình chính sách khó khăn đạt kết quả cao, góp phần ổn định đời sống các đối tượng bảo trợ xã hội [20, tr. 23]. Diện mạo của Vĩnh Phúc có sự thay đổi căn bản, tiềm lực và vị thế của tỉnh trong khu vực và cả nước ngày càng được tăng cường. 1.1.2. Truyền thống lịch sử Người dân Vĩnh Phúc có truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động, đoàn kết, anh dũng trong đấu tranh chống lại sự áp bức bất công của thế lực 12 phong kiến và kẻ thù xâm lược. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc Vĩnh Phúc đã nêu cao ý chí quật cường, anh dũng đấu tranh với kẻ thù để bảo vệ quê hương đất nước. Vào buổi sơ khai lịch sử dân tộc, khi giặc Ân sang cướp nước Văn Lang, nhân dân vùng Vĩnh Phúc đã đứng lên giúp Vua đánh giặc cứu nước. Đến thời An Dương Vương nhiều người Vĩnh Phúc đã giúp nhà Vua chống giặc ngoại xâm bảo vệ nước Âu Lạc. Trong hơn nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân Vĩnh Phúc liên tục đứng lên chống lại ách áp bức, bóc lột và âm mưu đồng hoá của kẻ thù, giữ vững bản sắc dân tộc và độc lập tự do của tổ quốc. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng những năm đầu Công nguyên. Thế kỷ VI nhân dân Vĩnh Phúc tham gia ủng hộ nghĩa quân của Lý Bí chống quân Lương ở vùng hồ Điển Triệt (Tứ Yên - Lập Thạch). Thế kỷ X giúp tướng quân Nguyễn Khoan xây dựng thành Gia Loan chống giặc. Thế kỷ XIII giúp vua tôi nhà Trần làm nên chiến thắng Bình Lệ Nguyên đánh giặc Nguyên Mông thắng lợi. Thế kỷ XV có danh tướng Trần Nguyên Hãn giúp Lê Lợi đánh thắng giặc Minh, được phong tới chức tả tướng quốc. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, trên đất Vĩnh Phúc từ năm 1885 đến 1893, các thổ hào trong tỉnh gồm các ông Đề, ông Đốc, ông Lãnh... (những chức quan thời Nguyễn) đã dấy binh chống lại xâm lược của thực dân Pháp, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Hoạt động ở vùng Bạch Hạc, Vĩnh Tường, Tam Dương, Lập Thạch có nghĩa quân của Đốc Khoát, Đốc Giang, Đốc Huỳnh, Đốc Thành. Hoạt động ở cùng Kim Anh, Đa Phúc, Yên Lãng có Lãnh Giang, Đốc Két, Tuần Bốn... Những năm đầu thế kỷ XX nhân dân vùng Vĩnh Phúc lại đứng lên ủng hộ nghĩa quân Đề Thám chống Pháp ở vùng núi Tam Đảo. Tiếp theo là ủng hộ cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên do Đội Cấn cầm đầu năm 1917, khi nghĩa quân về hoạt động trên đất Vĩnh Phúc. Năm 1930, Nguyễn Thái Học quê ở Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc là lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng 13 lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái, đã để lại tiếng vang và bài học về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đặc biệt, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống đế quốc Mỹ, quân dân Vĩnh Phúc đã liên tục giành được những chiến thắng vẻ vang, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giữ vững được các khu du kích, đồng thời, lực lượng ta càng đánh càng thắng. Trong 2 lần chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, quân dân Vĩnh Phúc đã phối hợp với bộ đội chủ lực đáng 783 trận, bắn rơi 120 máy bay Mỹ, tiêu diệt hàng ngàn tên địch, phá hoại hàng chục căn cứ quan trọng của địch… [51, tr. 138]. Những truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Vĩnh Phúc qua hàng nghìn năm lịch sử, chẳng những tô thắm thêm truyền thống của quê hương mà còn là mảnh đất tốt để khi có hạt giống cách mạng của Đảng gieo mầm sẽ nhanh chóng phát triển. Nhìn lại chặng đường lịch sử mà Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phúc đã đi qua, nhất là trong hơn 15 năm tái lập tỉnh, thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, có thể tự hào về những thành tựu to lớn mà Đảng bộ và nhân dân đã đạt được. Bên cạnh những thuận lợi, Vĩnh Phúc cũng có nhiều khó khăn, xuất phát điểm kinh tế còn thấp, cơ sở hạ tầng còn kém, tuy chưa chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã khới sắc, nhưng nhìn chung vẫn là tỉnh thuần nông, sản xuất mạnh mún, hàng hóa nông nghiệp ít, chất lượng chưa cao, công nghiệp nhỏ bé, nguồn thu ngân sách còn hạn chế. Đời sống nhân dân ở một số vùng còn gặp nhiều khó khăn, hàng vạn người thiếu việc làm, bộ máy tổ chức chưa hoàn thiện, đội ngũ cán bộ, viên chức còn thiếu, chưa đồng bộ, trật tự kỷ cương còn lỏng lẻo, năng lực lãnh đạo và quản lý, trình độ cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức chưa đáp ứng được những đòi hỏi của giai đoạn mới, một bộ phận cán bộ, đảng viên tính chiến đấu giảm sút, suy thoái đạo đức... Việc chia tỉnh, tái lập tỉnh mới, nhìn chung cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi. Song đây là việc lớn, tác động đến tâm tư, tình cảm, công tác, 14 đời sống của cán bộ, công nhân viên của các sở, ngành, đoàn thể ở tỉnh. Do vậy, tiếp tục làm tốt công tác tư tưởng nói chung, công tác GDLLCT nói riêng để cán bộ và nhân dân nhận thức đúng đắn việc chia tỉnh thấy hết sức khó khăn, hiểu rõ thuận lợi, tăng cường đoàn kết, khắc phục mọi khó khăn ở từng cơ quan, đơn vị, phát huy những thuận lợi, để sớm ổn định mọi mặt, quyết tâm xây dựng tỉnh phát triển nhanh hơn. 1.2. Công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Vĩnh Phúc trƣớc năm 1997 1.2.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Khái niệm “cán bộ chủ chốt”, “cán bộ chủ chốt cấp cơ sở” Theo định nghĩa của “Từ điển tiếng việt” thì chủ chốt là: “Quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào” [32, tr. 184]. Theo định nghĩa trên khi xác định cán bộ lãnh đạo chủ chốt cần đặt người cán bộ trong một tổ chức nhất định để xem xét. Có thể cán bộ ở tổ chức này trong mối quan hệ này là cán bộ chủ chốt, nhưng trong tổ chức khác, trong mối quan hệ khác không phải là cán bộ chủ chốt. Như vậy, cán bộ chủ chốt là người đứng đầu quan trọng nhất ở mỗi tổ chức, có tác dụng chính chi phối tổ chức ấy. Vậy, cán bộ chủ chốt của mỗi cấp là những người đứng đầu các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và đứng đầu ban ngành của mỗi cấp, được gắn với tổ chức và chức danh cụ thể. Họ là những người đứng đầu quan trọng nhất trong hệ thống bộ máy Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang và các đoàn thể chính trị, xã hội ở cơ sở, có tác dụng chính chi phối việc chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội trên địa bàn và lĩnh vực mà họ phụ trách. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở và tầm quan trọng của việc giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan