Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đế...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2005

.PDF
154
238
84

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA LỊCH SỬ NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2005 (Qua khảo sát thực tế ở thành phố Thanh Hoá và các huyện Thọ Xuân, Hoằng Hoá, Quảng Xương) LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2006 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA LỊCH SỬ NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2005 (Qua khảo sát thực tế ở thành phố Thanh Hoá và các huyện Thọ Xuân, Hoằng Hoá, Quảng Xương) CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.56 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ QUANG HIỂN HÀ NỘI - 2006 MỤC LỤC Trang Mở đầu ………………………………………………………………….7 Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo triển khai thực hiện QCDC 1998-2001……………………………………………………..11 1.1. Những điều kiện có ảnh hưởng đến việc thực hiện QCDC ở Thanh Hóa ……………………………………………………………………..11 1.1.1. Tình hình Thanh Hóa trước khi thực hiện QCDC ở cơ sở ………………....11 1.1.2. Chủ trương của Đảng và Chính phủ về vấn đề thực hiện dân chủ ……...…17 1.2 . Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá bước đầu triển khai thực hiện QCDC (1998-2001) ……………………………………………………………………... .28 1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh ………………………………….……...........28 1.2.2. Lãnh đạo triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở trong những năm 1998-2001 ……………………………………………………...31 1.2.3. Thành quả bước đầu ………………………………………………………..50 Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tăng cường lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở trên quy mô toàn tỉnh (2002-2005)…………….…...60 2.1. Chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh ………………………….…….60 2.2. Lãnh đạo việc xây dựng hương ước, quy ước ...............................................65 2.3. Lãnh đạo thực hiện QCDC 2003 – 2005 …………………..………………..75 Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử …………………….…....109 3.1. Một số nhận xét …………………………………………………………......109 3.1.1. Những thành công của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong lãnh đạo thực hiện QCDC ....................................................................................................109 3.1.2. Những ưu điểm trong sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh ..................................112 3.1.3. Một số hạn chế ……………………………………………………………...113 3.1.4. Tác động của việc thực hiện QCDC đối với đời sống nhân dân ............121 3.2. Một số kinh nghiệm ................................................................................129 3.2.1. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng kết hợp với đề cao quyền làm chủ của nhân dân …………………………………………………….129 3.2.2. Phải kết hợp tuyên truyền giáo dục với tổ chức thực hiện QCDC ……….132 3.2.3. Thực hiện QCDC gắn với các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội ………….135 Kết luận …………………………………………………………….…..…...…136 Tài liệu tham khảo ……………………………………………………...…...138 Phụ lục ………………………………………………………………….……...154 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT BCHTW Ban chấp hành Trung ương BCĐ Ban chỉ đạo BCĐTW Ban chỉ đạo Trung ương BCĐXDCS Ban chỉ đạo xây dựng cơ sở BCĐXDCS và THQCDC Ban chỉ đạo xây dựng cơ sở và thực hiện quy chế dân chủ CNXH Chủ nghĩa xã hội CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa DNNN Doanh nghiệp nhà nước HĐND Hội đồng nhân dân MTTQ Mặt trận tổ quốc QCDC Quy chế dân chủ QCDCCS Quy chế dân chủ ở cơ sở QCTHDC Quy chế thực hiện dân chủ THQCDC Thực hiện Quy chế dân chủ UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 30-CT/TW về thực hiện QCDCCS với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Thực hiện chủ trương của Đảng, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân thực hiện QCDCCS. Qua bảy năm thực hiện, tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở Thanh Hoá có chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi, đặc biệt an ninh - quốc phòng được đảm bảo. Thực tiễn đó khẳng định chủ trương của Đảng là đúng đắn, được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ. Nhận thức được việc thực hiện QCDC liên quan đến động lực phát triển của đất nước hiện nay, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã có nhiều biện pháp tuyên truyền, lãnh đạo tổ chức thực hiện QCDC, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, huy động nguồn lực trong nhân dân để phát triển kinh tế - xã hội . Đó là thành công bước đầu của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, nhưng có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vì thế nên tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ từ năm 1998 đến năm 2005 (qua khảo sát thực tế ở thành phố Thanh Hoá và các huyện Thọ Xuân, Hoằng Hoá, Quảng Xương)” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đã có nhiều bài báo, cuốn sách viết về đề tài dân chủ cũng như việc thực hiện QCDC ở nước ta, nhưng cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu 7 nào mang tính chuyên khảo viết về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá nhằm thực hiện QCDCCS . 3. Mục đích nghiên cứu - Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong việc lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở. - Làm rõ các hoạt động của bộ máy chính quyền và phong trào quần chúng trong việc thực hiện QCDC dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh. - Đánh giá những kết quả bước đầu, bao gồm những thành công và hạn chế trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh thực hiện QCDCCS. - Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong việc thực hiện nhiệm vụ trên. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Những chủ trương, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá để lãnh đạo thực hiện QCDCCS. - Những hoạt động của các cấp uỷ đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng ở Thanh Hoá. - Kết quả việc thực hiện, kể cả thành công và hạn chế. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những điều kiện thuận lợi, khó khăn ở địa phương chi phối sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm 2005 ở Thanh Hoá trong việc thực hiện QCDC. - Những chủ trương của Đảng và Chính phủ về THQCDC ở cơ sở. - Hoạt động của các cấp bộ đảng và chính quyền ở địa phương. - Hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể ở tỉnh, huyện. - Những hoạt động của quần chúng thực hiện QCDC. - Sự biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội do việc thực hiện quy chế này. 8 5. Nguồn tài liệu - Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. - Chỉ thị, nghị định của Chính phủ về thực hiện QCDCCS. - Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá bao gồm: nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh, chỉ thị của Tỉnh uỷ, nghị quyết, báo cáo của UBND, HĐND. - Các loại tài liệu của các ban, ngành ở địa phương. - Các báo cáo kết quả thực hiện QCDC của các cấp, ngành. - Một số tư liệu khai thác nhân chứng lịch sử qua cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. 6. Cơ sở lý luận và Phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học xuất phát từ thực tế khách quan trong mối liên hệ phổ biến và biện chứng. 6.2. Phương pháp nghiên cứu - Chủ yếu là phương pháp lịch sử nhằm mô tả chính xác quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá. - Phương pháp tổng hợp, so sánh, đánh giá nhằm làm rõ thành công, hạn chế và kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong việc chỉ đạo thực hiện. - Phương pháp phỏng vấn: Đối với những người trực tiếp lãnh đạo thực hiện QCDC ở Sở Nội vụ; Ban dân chủ pháp luật thuộc Uỷ ban MTTQ tỉnh; nhân dân địa phương. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, bảng chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở 1998 - 2001 9 Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tăng cƣờng lãnh đạo thực hiện QCDC trên quy mô toàn tỉnh (2002-2005) Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi được sự giúp đỡ của: Văn phòng Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Hội liên hiệp phụ nữ, Ban Dân vận, Ban Tuyên giáo, Trung tâm lưu trữ hồ sơ Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Văn hoá - thông tin, Phòng xây dựng cơ sở và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở thuộc Sở Nội vụ, thành uỷ Thành phố Thanh Hoá, huyện uỷ và UBND các huyện Hoằng Hoá, Quảng Xương, Thọ Xuân, UBND Phường Lam Sơn (thành phố Thanh Hoá) và một số cá nhân. Luận văn cũng là kết quả của một quá trình học tập, nghiên cứu tại Khoa Lịch sử, từ đại học đến cao học với sự giảng dạy, chỉ bảo của các thầy, cô giáo trong Khoa và Bộ môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, nhất là sự hướng dẫn, giúp đỡ của PGS.TS Vũ Quang Hiển. Tôi xin chân thành cảm ơn! 10 Chương 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO TRIỂN KHAI THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG NHỮNG NĂM 1998-2001 1.1. Những điều kiện có ảnh hƣởng đến việc thực hiện QCDC ở Thanh Hoá 1.1.1. Tình hình Thanh Hoá trước khi thực hiện QCDC ở cơ sở Thanh Hoá là một trong những tỉnh định hình sớm, tồn tại, phát triển cùng với lịch sử dân tộc, với diện tích 11.106,09 km2, dân số là hơn 3,6 triệu người, có bảy dân tộc sinh sống (trên 60 vạn là dân tộc thiểu số). Tỉnh Thanh Hoá có một thành phố, hai thị xã và 24 huyện, trong đó có 11 huyện miền núi (với số dân gần một triệu), toàn tỉnh có 626 xã, 5775 làng, 808.000 hộ, đa số là nông dân. Những năm gần đây, do sự nghiệp đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, một bộ phận nhân dân có đời sống khá (chiếm 40%). Bằng sự tập trung mọi nguồn lực và đổi mới cơ chế, chính sách trong quản lý, nền kinh tế trong tỉnh có bước tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm (1996-2000) đạt 7%/năm, GDP bình quân theo đầu người là 286,4 USD. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP bình quân hàng năm của tỉnh giảm từ 46,1% (1991-1995) xuống còn 42,4% (thời kỳ 1996-2000); công nghiệp xây dựng tăng từ 20,3% lên 23,4%; thương mại, dịch vụ tăng từ 33,6% lên 34,2%. Từ năm 1995, sản lượng lương thực luôn đạt hơn một triệu tấn/năm. Bình quân lương thực đầu người thời kỳ 1996-2000 đạt 331,9 kg. Tỉnh Thanh Hoá đã tích cực chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, đầu tư xây dựng, tu sửa các công trình thuỷ lợi, đặc biệt là kiên cố hoá kênh mương. 11 Các vùng cây công nghiệp tập trung, chuyên canh theo hướng sản xuất hàng hoá được quan tâm đầu tư, tạo bước chuyển dịch về cơ cấu cây trồng. Chăn nuôi ổn định. Nghề rừng được tổ chức lại và phát triển theo hướng lâm nghiệp xã hội, chuyển từ khai thác là chủ yếu sang trồng mới, khoanh nuôi bảo vệ rừng. Đánh bắt hải sản, nghề khơi phát triển khá, tạo chuyển biến trong sản xuất thuỷ sản. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong tỉnh được quan tâm củng cố và sắp xếp lại. Một số doanh nghiệp đã vươn lên khẳng định được khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Hai khu công nghiệp mới hình thành là Lễ Môn và Nghi Sơn. Về đầu tư xây dựng cơ bản: bình quân hàng năm huy động được 20003000 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn bên trong chiếm hơn 50%, thu ngân sách địa phương đạt bình quân 549,340 tỷ/năm. Những năm gần đây Đảng bộ tỉnh chăm lo đổi mới, hoàn thiện quan hệ sản xuất, tiếp tục phân loại, sắp xếp lại các DNNN, chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp. Thanh Hoá là một trong những tỉnh đầu tiên trên cả nước có nghị quyết của Thường vụ Tỉnh uỷ về phát triển kinh tế trang trại, đến nay toàn tỉnh có 1.900 trang trại, thu hút gần 10.000 lao động. Cuộc vận động đổi điền dồn thửa trong nông nghiệp đã và đang được tiến hành. Về giáo dục: tổng số học sinh các cấp có trên một triệu. Toàn tỉnh có gần 100% xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học xoá mù chữ, có 168 đơn vị đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, 55 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ, 100% xã có trạm y tế, ở tuyến xã có 135 bác sĩ, 5 năm liền không có dịch xảy ra, riêng sốt rét 7 năm liền không có dịch. Trong phong trào xây dựng nếp sống văn hoá, thực hiện qui ước về việc cưới, tang, lễ hội, ở Thanh Hoá có 1037/5775 làng đăng ký xây dựng làng văn 12 hoá, tổng số dân được xem truyền hình chiếm 70%, được nghe đài phát thanh xã là 90%. Công tác quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá gồm 27 đảng bộ huyện, thị, thành; 12 đảng bộ trực thuộc; 31 ban cán sự đảng; 11 đảng đoàn, tổng số đảng viên là 144.093 đồng chí (26.083 là nữ và 118.010 đảng viên nam). Số đảng bộ, chi bộ cơ sở là 1628, số chi bộ nhỏ là 8556. Chấp hành nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) của BCHTW Đảng khóa VIII về cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thực hiện xong bước kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân, có chương trình kế hoạch thực hiện các công việc sau tự phê bình của tập thể và các đồng chí ủy viên thường trực, kế hoạch triển khai đối với đảng bộ trực thuộc; và tập trung chỉ đạo các huyện, thị, thành, các ban cán sự đảng đoàn, các ngành, đoàn thể cấp tỉnh kiểm điểm theo gợi ý của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ. Vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được phát huy, các chủ trương nghị quyết của Đảng ngày càng thể hiện đúng đắn và sáng tạo, sớm đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình. Sinh hoạt đảng được chú ý cả về hình thức và nội dung, chất lượng sinh hoạt được nâng cao. Tỉnh Thanh Hoá đã xúc tiến xây dựng đề án công tác, tổ chức sắp xếp cán bộ, tinh giản biên chế theo tinh thần nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCHTW Đảng khoá VIII. Trong xây dựng chính quyền các cấp: Đảng bộ tập trung thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của BCHTW Đảng về cải cách hành chính. Thực hiện các nghị quyết của Trung ương, các ngành đã chấn chỉnh một bước quan hệ công tác và lề lối làm việc trong các cơ quan nhà nước, soát xét các khoản thu phí và lệ phí, các khoản đóng góp của nhân dân; chấn chỉnh công tác xây dựng và ban hành các văn bản, công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân... lập lại trật tự kỷ cương trên một số lĩnh vực, nhờ đó chính 13 quyền các cấp được củng cố một bước, ổn định về tổ chức bộ máy và đi vào hoạt động nền nếp, các vấn đề nổi cộm ở cơ sở đã từng bước đựơc giải quyết thỏa đáng, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn khởi trước thành công của sự nghiệp đổi mới. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng có nhiều hoạt động hơn. Nhiều cấp uỷ đảng đã quan tâm đến công tác vận động quần chúng, đã phát động và duy trì thực hiện có kết quả nhiều phong trào. Việc củng cố kiện toàn các tổ chức chính trị - xã hội được các cấp quan tâm, tập trung vào những cơ sở yếu kém, vùng xa, vùng sâu nên số điểm yếu kém được thu hẹp, số đơn vị khá ngày càng tăng. Thực hiện nghị quyết đại hội XIV của Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thanh Hoá đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu và đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá ngày càng phát huy vai trò lãnh đạo của mình. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá vẫn còn gặp một số khó khăn: Tổng sản phẩm (GDP) trong tỉnh (1996 - 2000) bình quân có tăng nhưng còn thấp so với chỉ tiêu đề ra cho thời kỳ 1996 - 2000. Tốc độ phát triển kinh tế có xu hướng chậm lại và thấp hơn so với toàn quốc (7%). GDP bình quân đầu người đạt 279,5 USD, còn thấp so với mục tiêu đề ra đến năm 2000 là 400 - 450 USD. Trong nông nghiệp, cơ cấu mùa vụ thay đổi chậm, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp còn thấp, trình độ thâm canh tăng năng suất giữa các vùng, miền chưa đồng đều. Xuất khẩu vẫn là lĩnh vực khó khăn, yếu kém kéo dài. Trong công nghiệp, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, sản phẩm của tỉnh chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường, hiệu quả kinh doanh thấp. 14 Cơ sở hạ tầng - kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc thu hút vốn cho đầu tư phát triển từ trong và ngoài nước còn hạn chế, đầu tư dàn trải thiếu đồng bộ kéo dài và kém hiệu quả. Đời sống một bộ phận nhân dân vẫn còn khó khăn, nhất là đồng bào miền núi, tỉ lệ người thiếu việc làm còn cao. Trình độ cán bộ và tổ chức bộ máy còn bất cập so với yêu cầu của quá trình đổi mới, bộ máy cồng kềnh, quan liêu, năng lực cán bộ thấp kém, cải cách hành chính chậm, tình trạng cửa quyền, phiền hà gây cản trở công việc chung vẫn tồn tại. Trên đây là một vài nét về tình hình kinh tế - xã hội ở Thanh Hoá, những thuận lợi là cơ sở để Thanh Hoá tổ chức thực hiện tốt QCDC. Những vấn đề còn tồn tại đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá phải nỗ lực hơn nữa. Từ xưa, Thanh Hoá đã nổi tiếng là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hoá, cách mạng, có nhiều vị vua xuất thân từ quê hương Thanh Hoá như Lê Hoàn, Lê Lợi. Nhân dân Thanh Hoá giàu lòng yêu nước, anh dũng kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, quê hương, đó là truyền thống tự chủ, cũng là cái vốn để nhân dân Thanh Hoá phát huy quyền làm chủ của mình theo đường lối của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Về tình hình thực hiện dân chủ ở Thanh Hoá khi chưa có quy chế: Trước năm 1998, vấn đề dân chủ chưa được Nhà nước thể chế hoá thành văn bản pháp lý, nhưng cấp uỷ, chính quyền các cấp ở Thanh Hoá đã quán triệt, vận dụng sáng tạo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” vào cuộc sống, đã phát huy được tính năng động, cổ vũ tinh thần lao động sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở. Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quyết định, nhiều chương trình dự án kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh để nhằm không ngừng mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, củng cố quan hệ sản 15 xuất, tạo môi trường pháp lý, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, nhằm khai thác nguồn nội lực, tranh thủ sự đầu tư giúp đỡ từ bên ngoài. Trong lĩnh vực kinh tế có Nghị quyết 09 của Tỉnh uỷ, Nghị quyết của HĐND về phê duyệt quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Chỉ thị số 23-NC/UB về củng cố thanh tra và tăng cường công tác thanh tra, ban hành quy chế tiếp công dân và quyết định về việc giải quyết các vấn đề bức xúc trong ngành giáo dục đào tạo, quy định mức sinh hoạt phí cho bí thư chi bộ và trưởng thôn. Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội có: Nghị quyết phát động toàn dân xây dựng cơ sở vật chất trường học; Nghị quyết về thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, tang, lễ hội; Nghị quyết về xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa... Để động viên sự đóng góp vật chất từ nhân dân, Đảng bộ tỉnh đã phát động phong trào “Uống nước nhớ nguồn”; phong trào “Ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, phong trào “xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” để động viên nhân dân tham gia vào quản lý xã hội và xây dựng xã hội lành mạnh. Bên cạnh đó, để thực hiện tốt vấn đề dân chủ, hoạt động của HĐND, UBND không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng, năng lực điều hành, thông qua tiếp xúc cử tri, các đại biểu, HĐND đã nắm được tâm tư nguyện vọng và ý kiến đóng góp chân thành của nhân dân, kiến nghị đề xuất cho cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết kịp thời, thoả đáng, đúng pháp luật. Tuy nhiên, do phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể bởi một văn bản pháp lý nào, việc vận dụng tổ chức thực hiện ở mỗi địa phương khác nhau nên hiệu quả còn hạn chế. Việc thực hiện dân chủ ở Thanh Hoá chủ yếu thông qua hình thức dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ít được quan tâm, có nơi hoạt động của HĐND còn mang tính hình thức, hiệu lực, hiệu quả trong quản lí điều hành của chính quyền còn nhiều hạn chế, tình trạng tham ô lãng phí, quan liêu cửa quyền, sách nhiễu, đặc biệt 16 là vi phạm dân chủ trong quản lí đất đai và tài chính còn khá nhiều, thường xuyên có đơn thư khiếu nại, tố cáo, gây mất ổn định chính trị ở cơ sở, cả tỉnh có hàng trăm điểm nóng. Do thực trạng đó, việc Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 30- CT/TW về thực hiện QCDCCS là phù hợp với tình hình địa phương và đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân. 1.1.2. Chủ trương của Đảng và Chính phủ về vấn đề thực hiện dân chủ Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi to lớn. Một trong những thành quả vĩ đại nhất của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng là đã lập nên Nhà nước Cộng hòa dân chủ đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam là nước dân chủ - Nhà nước Việt Nam là nhà nước do nhân dân lao động làm chủ”. Trong suốt chặng đường dài của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta, Nhà nước ta luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nên đã tạo ra sức mạnh vô địch đánh thắng mọi kẻ thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc; tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Trong công cuộc xây dựng đất nước, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” (Hồ Chí Minh), “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” (Lê-nin), thấm nhuần lời dạy của Bác “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” và “Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, mấy chữ a, b, c, này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc”. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước vững bước đi lên. Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chính do quyền dân chủ của nhân dân được phát huy mà mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với nhân dân 17 làm chủ ngày một thêm gắn bó; Đảng và Nhà nước ta lớn mạnh lên, cách mạng nước ta đã liên tiếp đạt được những thành tựu cực kỳ to lớn về mọi mặt. Thực tiễn Cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng khẳng định nguồn gốc của mọi thắng lợi là sức mạnh của nhân dân. Thực tiễn ngày càng khẳng định quan điểm khoa học, cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta, coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, dân chủ là bản chất của chế độ, của Nhà nước ta. Quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện trong ý tưởng, qua lời nói mà được ghi nhận trong Hiến pháp, luật và các văn bản khác. Đặc biệt, những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới về kinh tế - xã hội - chính trị, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân: “Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế” [74, tr. 48]. Nhờ đó chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Những yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ, truyền thống “lấy dân làm gốc”, coi trọng dân vốn đã hình thành trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của Dân tộc ta, đã được Đảng Cộng sản Việt Nam, mà người sáng lập và rèn luyện là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhận thức sâu sắc và quyết tâm phát huy trong quá trình lãnh đạo Cách mạng. Mục tiêu cao nhất của CNXH, tư tưởng cách mạng nhân văn và nhân đạo cộng sản chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội khỏi mọi sự bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, để nhân dân lao động trở thành chủ nhân của xã hội, làm chủ nhà nước là một trong những đặc trưng cơ bản của CNXH. Xây dựng và phát huy được quyền làm chủ của nhân dân cũng là thực hiện được nền dân chủ XHCN, một nền dân chủ ở trình độ cao hơn chế độ dân chủ tư sản cả về pháp lí và trong thực tế. Quyền làm chủ của nhân dân, nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự 18 nghiệp xây dựng phát triển đất nước theo con đường XHCN. Đảng ta là Đảng cầm quyền, có sứ mệnh và khả năng lãnh đạo Nhà nước thể hiện đầy đủ bản chất giai cấp, tính dân tộc và tính nhân dân của mình, thực sự là chỗ dựa quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, đồng thời là công cụ sắc bén bảo vệ cuộc sống của nhân dân trước mọi âm mưu và hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tế cách mạng Việt Nam, Đảng ta coi việc thực hiện dân chủ nói chung, dân chủ ở cơ sở nói riêng là vấn đề bức thiết có tầm quan trọng đặc biệt trong thực hiện nền dân chủ XHCN ở nước ta. Cơ sở không chỉ là xã, phường, thị trấn mà còn là các cơ quan, trường học, bệnh viện, công, nông trường, xí nghiệp. Cơ sở là nền tảng xã hội, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của các chủ trương và chính sách ấy. Thực hiện dân chủ ở cơ sở là thực hiện các quá trình dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội một cách trực tiếp, rộng rãi và liên tục đối với mọi người, mọi giới và mọi lứa tuổi. Dân chủ ở cơ sở được thực hiện thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và sự hiểu biết cùng khả năng thực hiện của mỗi người. Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng, lãnh đạo không phải là không có những yếu kém, khó khăn. “Cùng với những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, việc xây dựng nhà nước cũng đã có những tiến bộ, những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta tình hình tiêu cực, suy thoái phẩm chất vẫn có chiều hướng phát triển, nhất là tệ quan liêu và nạn tham nhũng, tác hại không nhỏ đến việc củng cố nhà nước, làm nhân dân lo lắng đang thực sự là một nguy cơ đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, đối với con người mà nhân dân ta đã lựa chọn” [41, tr. 36]. 19 Về nguyên nhân cần ban hành QCTHDC, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nói: Những năm đổi mới vừa qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Đại hội VII và nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII, quyền làm chủ của nhân dân lại được Đảng và Nhà nước ta phát huy thêm một bước; thể hiện rõ trong nhiều chính sách đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội, đã giải phóng tiềm năng to lớn về vật chất và trí tuệ của nhân dân, nhờ đó mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu, mệnh lệnh cửa quyền, tham nhũng sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa ngăn chặn đẩy lùi được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hoá và thể chế hoá thành pháp luật cho nên chậm đi vào cuộc sống. Tình trạng mất dân chủ, không để dân bàn bạc, quyết định những công việc cụ thể liên quan trực tiếp đến đời sống của dân, bắt dân phải đóng góp nhiều khoản vượt quá khả năng, lại không minh bạch về tài chính, thậm chí xà xẻo vào những khoản tiền do dân đóng góp như ở một số xã thuộc tỉnh Thái Bình và vài nơi khác; tình trạng để tồn đọng hàng vạn đơn khiếu tố bị đùn đẩy không giải quyết hoặc giải quyết không kịp thời, không đúng; tình trạng quan liêu, quản lý lỏng lẻo để thất thoát lớn trong một số ngân hàng hoặc gây lãng phí trong xây dựng v.v... chẳng những làm suy giảm lòng tin của dân đối với Đảng và chính quyền mà còn làm triệt tiêu nguồn động lực của nhân dân và xâm phạm bản chất tốt đẹp của chế độ. Cho nên các cấp uỷ đảng và cơ quan chính quyền cần quán triệt sâu sắc và phải chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của BCHTW Đảng mà cốt lõi là phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền làm chủ của 20 nhân dân phải được thể hiện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng - an ninh, từ xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách đến tổ chức bộ máy, phong cách làm việc, bao quát hoạt động mọi cấp, mọi ngành, từ Trung ương đến địa phương hoặc cơ sở. Vấn đề dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân để phát huy động lực, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh phải được đặt ra cho cả hệ thống chính trị, phải tác động hai chiều: dưới lên, trên xuống cả trong Đảng và trong nhân dân. Cùng với việc triển khai một cách toàn diện và đồng bộ, phát huy quyền làm chủ của dân ở mọi lĩnh vực, mọi cấp. Bộ Chính trị xác định, lúc này khâu quan trọng và cấp bách trƣớc hết là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở [102, tr. 4]. Bộ Chính trị còn chỉ rõ thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ thúc đẩy cải cách hành chính, sửa đổi những cơ chế chính sách, và thủ tục hành chính không phù hợp với cuộc sống. Nhân dân ở cơ sở thực hiện quyền làm chủ tham gia kiểm kê, kiểm soát sẽ tích cực xây dựng Đảng, Chính quyền, đoàn thể trong sạch, vững mạnh, tích cực đấu tranh bài trừ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Xây dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở là bước tiến mới trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, là nét mới trong đời sống chính trị của xã hội ta, đáp ứng nguyện vọng sâu xa của hàng chục triệu quần chúng nhân dân theo Đảng ta làm cách mạng. Xây dựng QCDCCS là quy chế hoá các mối quan hệ trong đời sống xã hội, trước hết là quan hệ giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể với nhân dân, tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Bộ Chính trị chủ trương, thực hiện QCDC ở cơ sở phải đảm bảo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, ba mặt đó phải thống nhất, bảo đảm thực sự phù hợp và ngang tầm với những yêu cầu của nhiệm vụ đổi mới, có một ý nghĩa 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan