Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo phát triển kinh tế miền núi trong những năm 1996...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo phát triển kinh tế miền núi trong những năm 1996 - 2005

.PDF
143
178
118

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------***--------- HOÀNG HẢI YẾN ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ MIỀN NÚI TRONG NHỮNG NĂM 1996 - 2005 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------***--------- HOÀNG HẢI YẾN ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ MIỀN NÚI TRONG NHỮNG NĂM 1996 - 2005 Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60.22.56 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Thịnh HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC Nội dung STT Số trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ 8 LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ MIỀN NÚI GIAI ĐOẠN (1996 – 2000) 1.1 Tiềm năng và thực trạng kinh tế miền núi tỉnh 8 Thanh Hóa trước năm 1996 1.1.1 Tiềm năng và những thuận lợi, khó khăn trong phát 8 triển kinh tế miền núi tỉnh Thanh Hóa 1.1.2 Tình hình kinh tế miền núi Thanh Hóa trước năm 15 1996 1.2 Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo phát triển 19 kinh tế miền núi giai đoạn (1996 – 2000) 1.2.1 Chủ trương chung của Đảng Cộng sản Việt Nam về 19 phát triển kinh tế miền núi giai đoạn (1996-2000). 1.2.2 Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo phát triển kinh tế 24 miền núi giai đoạn (1996 – 2000) 1.2.2.1 Chủ trương và các giải pháp cụ thể của Đảng bộ tỉnh 24 Thanh Hóa về phát triển kinh tế miền núi 1.2.2.2 Quá trình tổ chức thực hiện Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ MIỀN NÚI GIAI ĐOẠN (2001 – 2005) 27 51 2.1 Chủ trương của Đảng Bộ tỉnh Thanh Hóa về phát 51 triển kinh tế miền núi giai đoạn (2001 – 2005) 2.1.1 Chủ trương chung của Đảng Cộng sản Việt Nam về 51 phát triển kinh tế miền núi giai đoạn (2001 – 2005) 2.1.2 Chủ trương và các giải pháp cụ thể của Đảng bộ tỉnh 56 Thanh Hóa về phát triển kinh tế miền núi 2.2 Quá trình tổ chức thực hiện 59 Chương 3: THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ 83 NHỮNG KINH NGHIỆM CHỦ YẾU Một số thành tựu và hạn chế 83 3.1.1 Những thành tựu và nguyên nhân 83 3.1.2 Một số hạn chế và nguyên nhân 88 Những kinh nghiệm chủ yếu và một số vấn đề đặt 92 3.1 3.2 ra 3.2.1 Những kinh nghiệm chủ yếu 92 3.2.2 Một số vấn đề đặt ra 96 KẾT LUẬN 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO 111 PHỤ LỤC 120 BẢNG QUY ƯỚC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BCĐ : Ban chỉ đạo BCH : Ban chấp hành CN – TCN : Công nghiệp – thủ công nghiệp CN – TTCN : Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp CN – XD : Công nghiệp – xây dựng CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội GDP : Tổng sản phẩm quốc nội HĐBT : Hội đồng Bộ trưởng HĐND : Hội đồng nhân dân KTMN : Kinh tế miền núi KVMN : Khu vực miền núi KT – XH : Kinh tế - xã hội UBDTMN : Ủy ban dân tộc miền núi UBND : Ủy ban nhân dân XĐGN : Xóa đói giảm nghèo MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với tiến trình phát triển chung của đất nước, kinh tế miền núi đã có những chuyển biến đáng kể, nhờ chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự quan tâm của toàn xã hội. Hiện nay, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc ở miền núi nước ta đã được cải thiện rõ rệt, bộ mặt nông thôn miền núi đã có nhiều đổi mới: số hộ đói nghèo ở miền núi giảm xuống còn 26%; 93% số xã miền núi có trạm y tế, 100% số xã có trường tiểu học, 97% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 50,7% hộ dân dùng điện… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, cần phải thừa nhận rằng còn những việc chưa làm được hoặc làm chưa có hiệu quả. Thế mạnh, tiềm năng kinh tế ở miền núi chưa được khai thác tốt. Chúng ta chưa tạo ra được những điều kiện cần thiết cho miền núi phát triển toàn diện và đồng bộ. Tỷ lệ đói nghèo khu vực miền núi còn cao so với cả nước, cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội …còn nhiều bất cập. Mặt khác, khu vực miền núi đang đứng trước những thách thức to lớn trong quá trình phát triển, do sức ép về dân số tài nguyên không được khai thác và sử dụng hợp lý đã tác động xấu đến môi trường, thời tiết diễn biến không thuận làm cho tài nguyên rừng, đất và nước bị suy kiệt nhanh. Do điều kiện lịch sử, tình hình kinh tế miền núi phát triển chậm hơn miền xuôi, chậm thích ứng với các yếu tố thị trường; khoảng cách giàu nghèo giữa miền núi và miền xuôi cũng như giữa các vùng thuộc miền núi đang có xu hướng rộng thêm. Trong khi đó các thế lực thù địch không từ bất kỳ một thủ đoạn nào để khoét sâu mâu thuẫn, gây chia rẽ và kỳ thị giữa các dân tộc nhằm phục vụ những mục tiêu đen tối của chúng. Bên cạnh việc khẳng định những thành tự đã đạt được, chúng ta cũng cần nghiêm túc, tỉnh táo nhìn nhận, đánh giá hết những khó khăn, thiếu sót để từ đó tìm ra các giải pháp cụ thể đáp ứng yêu cầu trước mắt, đồng thời có kế hoạch phát triển lâu dài cho miền núi và đồng bào các dân tộc trong tương lai. 1 Thanh hoá là một tỉnh có địa hình chủ yếu là miền núi, tập trung một số lượng lớn đồng bào dân tộc thiểu số. Trong những năm qua, với hàng loạt cơ chế, chính sách, chương trình dự án của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Thanh Hoá đã và đang triển khai có tác động tích cực tới đời sống kinh tế-xã hội của đồng bào các dân tộc miền núi Thanh Hoá. Tình hình kinh tế - xã hội vùng miền núi phía Tây Thanh Hoá có khởi sắc toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; kết cấu hạ tầng thay đổi rõ nét, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, tốc độ tăng trưởng kinh tế miền núi Thanh Hoá đạt 8,7%, thu nhập bình quân đầu người đạt 272USD… Tuy nhiên, kết quả đạt được trong thời gian qua vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, chưa tương xứng với tiềm năng của vùng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và chưa vững chắc; sản xuất nông, lâm nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng đất đai; công nghiệp nhỏ bé, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn phát triển chậm; kết cấu hạ tầng tuy có được tăng cường nhưng vẫn còn nhiều yếu kém… Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, miền núi Thanh Hoá đã và đang tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, đưa cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi bước vào giai đoạn mới. Do vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu quá trình tổ chức lãnh đạo của Đảng bộ Thanh Hoá với chiến lược phát triển kinh tế miền núi trong giai đoạn hiện nay, nhằm làm sáng tỏ những thành tựu và hạn chế, rút ra được những bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế miền núi Thanh Hoá trong những năm tiếp theo của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là việc làm rất cần thiết và cấp bách. Từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn vấn đề “Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển kinh tế miền núi trong những năm 1996 – 2005” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài Miền núi nước ta có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng và môi trường sinh thái, đồng thời miền núi cũng chứa đựng 2 tiềm năng dồi dào, to lớn về đất đai, tài nguyên khoáng sản và khả năng hợp tác giao lưu phát triển kinh tế với các nước trong khu vực. Với vị trí chiến lược quan trọng như trên, phát triển kinh tế miền núi luôn là đề tài được nhiều học giả quan tâm, nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện với nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, đó là các công trình nghiên cứu về kinh tế miền núi trên bình diện chung như: “Kinh tế miền núi và các dân tộc: Thực trạng - vấn đề giải pháp”. Phạm Văn Lang, Nxb. KHXH, 1996. Cuốn sách đã nêu lên vị trí, đặc điểm tự nhiên miền núi nước ta. Thực trạng và sự biến đổi kinh tế từ sau Đại hội VI đến nay. Tồn tại, hạn chế và các vấn đề mới nảy sinh. Quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế miền núi. “Về phát triển kinh tế miền núi”. Chu Văn Tấn - Việt Bắc. NXB Việt Bắc, 1974. Tác giả đã trình bày quá trình xây dựng và phát triển kinh tế miền núi; phát triển những thế mạnh trong nông nghiệp, phát triển những thuận lợi trong công nghiệp, về tăng cường quan hệ sản xuất, về sự giúp đỡ và chỉ đạo của các ngành Trung ương đối với miền núi. “Giải pháp cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học của Viện Dân tộc – UBDT, Nxb. Văn hoá, Thông tin, HN .2005. Cuốn sách là bản tổng tập những tham luận có giá trị, phản ánh sự hưởng ứng xây dựng và triển khai chương trình xoá đói giảm nghèo của các bộ, ngành, đoàn thể và nhân dân ở những địa phương có các dân tộc thiểu số. đồng thời kiến nghị những giải pháp thiết thực nhằm cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số trong cả nước. “Thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa” của Hội đồng Khoa học. UBNDT, Nxb. CTQG, HN. 2006. Cuốn sách đã tiếp cận và trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của chương trình phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nội dung cuốn sách giới hạn trong phạm vi các xã đặc biệt khó khăn và chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề thuộc chương trình 135. “Các vấn đề càn ưu tiên nghiên cứu để phát triển sản xuất hàng hoá ở miền núi và vùng đồng bào 3 dân tộc”. Nxb, Nông nghiệp. 1993. Cuốn sách đã nêu lên thực trạng, tiềm năng phát triển kinh tế miền núi và vùng đồng bào dân tộc. Phương hướng và một số giải pháp thúc đẩy sản xuất hàng hoá. Những đề xuất xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô để phát triển sản xuất hàng hoá ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thêm vào đó còn có một số luận văn, luận án viết về vấn đề phát triển kinh tế khu vực miền núi nói chung, như: “Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”, Luận án TS Triết học của Đinh Văn Phượng, HN, 2000; “Vai trò nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế miền núi ở nước ta” (Qua thực tế các tỉnh miền núi Bắc Bộ), Luận án PTS Khoa học Kinh tế của Đinh Văn Thôn, HH, 1994; “Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp ở các tỉnh Trung du,miền núi phía Bắc Việt Nam”, Luận Án Tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Thế Trường, Hà Nội 2003; “Những giải pháp về quản lý để phát triển cơ sở hạ tầng miền núi Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Lê Kim Khôi, Hà nội 1999… Ngoài ra còn có các báo cáo chuyên đề về các lĩnh vực kinh tế miền núi của các Ban, Ngành ở tỉnh Thanh Hoá, như: “Báo cáo tóm tắt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020” của Sở Kế hoạch và Đẩu tư tỉnh Thanh Hoá (2006). Đây là kết quả của quá trình khảo sát và đưa ra những quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi Thanh Hoá đến năm 2020; “Báo cáo của UBND tỉnh Thanh Hoá về Chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 1991 – 2000; “Báo cáo của UBND tỉnh Thanh Hoá về Chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2010” và báo cáo về “Quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp tỉnh Thanh Hoá đến năm 2015 và định hướng 2020”... Mặc dù có rất nhiều công trình đề cập đến tình hình kinh tế miền núi như trên, song cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống về phát triển kinh tế miền núi Thanh Hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh. Vì vậy, đây là vấn đề mới cần được nghiên cứu. Tuy nhiên, 4 ở những mức độ khác nhau, các công trình trên đã giúp cho chúng tôi có cái nhìn khái quát về tình hình phát triển kinh tế khu vực miền núi nói chung và gợi ra cho chúng tôi những vấn đề cần đi sâu nghiên cứu của đề tài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích: - Làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đối với sự phát triển kinh tế miền núi Thanh Hoá. - Tìm hiểu quá trình triển khai thực hiện những chủ trương mà Đảng bộ đề ra và những kết quả đạt được từ năm 1996 – 2005. - Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế ở khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá, qua đó tìm ra các giải pháp phát triển kinh tế phù hợp với thời kỳ mới nhằm khai thác hiệu quả các tiềm năng kinh tế góp phần nâng cao chất lượng đời sống của đồng bào trong khu vực. 3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau: - Tập hợp những tư liệu lịch sử có liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng và Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá với kinh tế miền núi. - Hệ thống hoá và trình bày những tư liệu đó qua các giai đoạn phát triển để làm sáng tỏ những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn - Làm rõ nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế khu vực miền núi Thanh Hoá. - Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá.. - Đề xuất quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1.Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chủ trương, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đối với kinh tế miền núi và tình hình kinh tế miền núi 5 Thanh Hóa từ năm 1996 đến 2005. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Kinh tế miền núi bao gồm nhiều lĩnh vực và các chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế miền núi của đảng bộ tỉnh Thanh Hoá cũng rất phong phú. Do vậy trong phạm vi có thể đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những chủ trương và giải pháp của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về một số lĩnh vực chủ yếu của kinh tế miền núi, như: Lĩnh vực nông, lâm nghiệp; công nghiệp (bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp);lĩnh vực thương mại, dịch vụ và du lịch. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 5.1. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành của khoa học lịch sử như phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp thống kê, tổng hợp, mô tả… nhằm làm sáng tỏ các giai đoạn trong quá trình nghiên cứu những chủ trương, quá trình triển khai thực hiện của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế miền núi, nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc miền núi Thanh Hoá. 5.2. nguồn tài liệu - Các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng; các văn bản, chỉ thị của Chính Phủ, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư… - Các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá; các Quyết định của Uỷ Ban nhân dân tỉnh, các báo cáo của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn và của các phòng ban có liên quan, hiện đang lưu trữ tại Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ, tại kho lưu trữ của UBND tỉnh, Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Hoá. - Một số sách báo, tạp chí, nghiên cứu của các cá nhân, tập thể về kinh tế miền núi. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn gồm có 3 chương: 6 Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển kinh tế miền núi giai đoạn (1996 – 2000) Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển kinh tế miền giai đoạn (2001- 2005) Chương 3: Thành tựu, hạn chế và những kinh nghiệm chủ yếu 7 Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ MIỀN NÚI GIAI ĐOẠN (1996 – 2000) 1.1. Tiềm năng và thực trạng kinh tế miền núi tỉnh Thanh Hóa trước năm 1996 1.1.1. Tiềm năng và những thuận lợi, khó khăn trong phát triển kinh tế miền núi tỉnh Thanh Hóa Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, vị trí 19023 - 20030 vĩ độ bắc; 140023 – 106 kinh độ Đông, là cửa ngõ nối liền Bắc Bộ - Trung Bộ - Nam Bộ. Thanh Hóa cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km. Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào), phía Đông là Vịnh Bắc Bộ. Với diện tích tự nhiên là 11.106 km2 (chiếm 3,37% diện tích cả nước), trong đó, khu vực miền núi có diện tích là 8.508,33 km2 (chiếm 76,61% diện tích toàn tỉnh). Khu vực miền núi phần lớn nằm ở phía Tây Thanh Hoá, gồm 11 huyện: Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Như Xuân, Như Thanh, Bá Thước, Quan Hoá, Quan Sơn, Mường Lát, Thường Xuân và 26 xã miền núi của các huyện, thị: Thị xã Bỉm Sơn, Hà Trung, Vĩnh Lộc, Yên Định, Triệu Sơn, Tĩnh Gia. Đây là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của Thanh Hoá, khu vực Tây Bắc và cả nước. Là vùng đầu nguồn của các hệ thống sông suối của tỉnh, có ý nghĩa rất lớn và quan trọng về vị trí phòng hộ, dự trữ nguồn nước, giảm tác động thiên tai và bảo vệ môi trường sinh thái đối với tỉnh. Khu vực miền núi Thanh Hóa có địa hình bị chia cắt mạnh, hiểm trở gắn với hệ núi cao Tây bắc và hệ núi Trường Sơn phía Nam. Độ cao trung bình toàn vùng là 600 – 700m (so với mặt nước biển), độ dốc trên 250. Vùng trung du có độ cao trung bình 150 – 200m, độ dốc từ 15 – 200. Với địa hình khó khăn, kinh tế miền núi Thanh Hoá, nhất là vùng cao trong thời gian qua tuy có phát triển hơn nhiều so với trước đây nhưng vẫn còn khoảng cách lớn với vùng đồng bằng. Đây là vùng đất có nhiều tiềm năng 8 chưa được khai thác. Khu vực miền núi Thanh Hoá có thể chia được thành 3 vùng địa hình như sau: Vùng núi cao: gồm các huyện Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hoá, Bá Thước, có diện tích tự nhiên là 3.503,5 km2, chiếm 41,17% diện tích toàn vùng. Đây là vùng có địa hình hiểm trở, có các dãy núi kéo dài thành dải theo hướng Tây bắc – Đông nam, có nhiều đỉnh núi cao trên 1000m so với mặt nước biển. Sông suối chảy qua vùng này có độ dốc lớn, tạo nên tiềm năng phát triển thuỷ điện công suất lớn. Vùng núi thấp: gồm các huyện Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Lang Chánh, Ngọc Lặc, Thường Xuân và các xã miền núi của các huyện Hà Trung, Vĩnh Lộc, Triệu Sơn, Thọ Xuân và thị xã Bỉm Sơn, có diện tích tự nhiên là 3.575,53km2, chiếm 42,03% diện tích tự nhiên toàn vùng. Địa hình dốc từ Tây sang Đông, độ cao trung bình toàn vùng trên 300m, cá biệt có những vị trí cao trên 1000m; Sông suối có nhiều gềnh thác, có tiềm năng phát triển thuỷ điện. Vùng đồi phía Nam gồm các huyện Như Xuân, Như Thanh và các xã miền núi của huyện Tĩnh Gia, có diện tích tự nhiên 1.429,3 km, chiếm 16,8% diện tích toàn vùng; là vùng đồi núi thấp, độ cao trung bình dưới 200m, đất đai màu mỡ, thuận lợi cho phát triển các vùng cây công nghiệp, cây ăn quả và trồng rừng sản xuất. Nằm trong khu vực nhiệt đới gío mùa ẩm và có tính chất hải dương, Thanh Hoá đồng thời lại có những ngày khô, nóng do chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam thổi từ Lào sang (từ tháng 4 đến tháng 7). Nhìn chung, Khí hậu Thanh Hóa tương đối khắc nghiệt, mùa đông ít lạnh, lượng mưa phùn ít so với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mùa hè nóng ẩm, nhiệt độ cao, thường có bão vào tháng 9, gây mưa to, triều cường. Riêng khu vực miền núi có nền nhiệt cao với 2 mùa rõ rệt: mùa hạ từ thánh 4 đến tháng 10 và mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau; chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc về mùa đông, gió Tây khô nóng về mùa hè. Vào mùa hè nhiệt độ thường vào khoảng 250C – 9 280C, những ngày có gió Tây, nhiệt độ thường lên tới 410C – 420C. Mùa đông nhiệt độ vào khoảng 140C – 200C, những ngày có sương muối, nhiệt độ xuống dưới 40C, có thời điềm xuống 20C. Lượng mưa trung bình 1600 2000mm/năm, số ngày mưa 130 – 150 ngày và mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Lượng mưa bình quân hàng năm lớn nhưng lại phân bố không đều. Chảy qua đất Thanh Hóa có 4 hệ thống sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Bạng, sông Yên với tổng chiều dài 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39.756km2; tổng lượng nước trung bình hàng năm 19,52 tỉ m3. Sông suối Thanh Hoá chảy qua nhiều vùng địa hình phức tạp, là tiềm năng lớn cho phát triển thủy điện. Nước ngầm ở Thanh Hoá cũng rất phong phú về trữ lượng và chủng loại bởi vì có đầy đủ các loại đất đá trầm tích, biến chất, mắcma và phun trào. Về tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên đất, theo số liệu của cục thống kê năm 2005, tổng diện tích đất tự nhiên toàn vùng là 851,66 ngàn ha. Trong đó: Đất nông nghiệp: 651,77 ngàn ha, chiếm 76,5% diện tích tự nhiên toàn vùng (chiếm 80% diện tích đất nông nghiệp toàn tỉnh). Trong đó, bao gồm 531,98 ngàn ha đất lâm nghiệp (chiếm 62,5% diện tích tự nhiên toàn vùng, chiếm 2/3 diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh). Tài nguyên rừng: Thanh Hoá là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích đất có rừng là 484.246 ha, trữ lượng khoảng 16,64 triệu m3 gỗ, hàng năm có thể khai thác 50.000 - 60.000 m3. Tài nguyên khoáng sản: Thanh Hoá là một trong số ít các tỉnh ở Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng; có 296 mỏ và điểm khoáng sản với 42 loại khác nhau, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như: đá granit và marble (trữ lượng 2 -3 tỉ m3), đá vôi làm xi măng (trên 370 triệu tấn), sét làm xi măng (85 triệu tấn), crôm (khoảng 21 triệu tấn), quặng sắt (2 triệu tấn), secpentin (15 triệu tấn), đôlômit (4,7 triệu tấn), ngoài ra còn có vàng sa khoáng và các loại khoáng sản khác. Thêm vào đó, Thanh Hóa còn là tỉnh có tiềm năng du lịch lớn với nhiều khu du lịch sinh thái như: Vườn rừng Quốc gia Bến Én vừa là khu bảo tồn thiên nhiên, vừa là 10 địa điểm cho phát triển kinh tế, du lịch; Khu di tích Lam Kinh, thành Nhà Hồ; các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (huyện Quan Hoá, Bá Thước), Pù Hu (huyện Quan Hoá, Mường Lát), các hang động ở Trường Lâm (huyện Tĩnh Gia), cảnh quan núi Diệu Sơn, núi Cửa Hà (huyện Cẩm Thuỷ)… Về dân cư và nguồn lao động: Theo kết quả điều tra ngày 1/4/1999, tỉnh Thanh Hoá có 3.467.609 người. Trong đó, số người trong độ tuổi lao động xã hội trong toàn tỉnh năm 2000 là 1.900.710 người, chiếm 54,8% dân số. Trên địa bàn tỉnh có 28 dân tộc, đông nhất là dân tộc Kinh có 2.898.311 người, chiếm 85,6%; các dân tộc thiểu số như dân tộc Mường có 328.744 người, chiếm 9,4%; dân tộc Thái có 210.908 người, chiếm 6%; dân tộc Mông có 13.320 người, chiếm 0,38%; dân tộc Thổ có 9.890 người, chiếm 0,25%; dân tộc Dao có 5.077 người, chiếm, 0,14%; dân tộc Tày có 444 người; Nùng có 131 người; dân tộc Hoa có 327 người; dân tộc Khmer có 31 người; dân tộc Eđê có 68 người; dân tộc Ngái 47 người; dân tộc Gia Rai có 27 người; dân tộc Ba-na có 9 người; dân tộc Sán Chay có 16 người; dân tộc Chăm có 7 người; dân tộc Sán Dìu có 8 người; dân tộc Mnông có 11 người; dân tộc Raglai có 15 người; dân tộc Mạ có 39 người; dân tộc Cờ Tu có 7 người; dân tộc Giáy có 7 người; dân tộc Khơ Mú có 607 người; dân tộc Co có 10 người; dân tộc Phù Lá có 9 người; dân tộc Si La có 5 người; dân tộc Bru - Vân kiều có 4 người; dân tộc Tà Ôi có 2 người. Dân cư thuộc loại trẻ, số dân có độ tuổi từ 1- 14 tuổi chiếm 35,5%. Từ 15 – 19 tuổi chiếm 50,1%; từ 50 – 59 tuổi chiếm 5,15%; từ 60 tuổi trở lên chiếm 9,1%. Dân số đô thị chiếm 6,8%, nông thôn chiếm 93,2% (cả tỉnh là 9,2% và 90,8%)[1, tr. 78].Cộng đồng dân cư trên địa bàn mang đặc điểm đa dạng và phong phú về bản sắc dân tộc của các vùng miền khác nhau: cần cù, sáng tạo, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất. Hầu hết các dân tộc thiểu số sống thành chòm, bản theo quan hệ huyết thống, dòng họ; sinh sống chủ yếu bằng nông, lâm nghiệp, sản xuất thường độc canh và mang nặng tính du canh. Trong nhiều năm qua, đồng bào miền xuôi cũng có xu hướng lên miền núi tham gia xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá – xã hội, 11 nhiều thanh niên tham gia vào các xí nghiệp, công trường nhà máy, nông trường đã góp tạo nguồn lao động dồi dào hơn cho khu vực miền núi. Bảng 1.1: Diện tích, dân số, mật độ dân số theo các huyện TT Huyện 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 Toàn vùng Thạch Thành Cẩm Thuỷ Ngọc Lặc Lang chánh Như Xuân Như Thanh Thường Xuân Bá Thước Quan Hoá Quan Sơn Mường Lát 26 xã miền núi khác Diện tích (km2) Dân số (nghìn người) Mật độ dân số (người/km2) 8.508,33 1.153,3 136 558,11 167,8 300 425,04 123,2 290 405,97 121,3 299 585,46 56,4 96 719,47 71,0 99 587,33 95,8 163 1.105,05 95,9 87 774,01 113,8 147 988,68 43,8 744 928,58 34,5 37 812,23 32,0 39 528,5 171,0 323 Nguồn: Cục Thống kê Thanh Hoá – 2005 Về cơ sở hạ tầng: Mạng lưới giao thông khu vực miền núi đang được đầu tư và ngày càng phát triển với các tuyến quốc lộ: đường Hồ Chí Minh, đường 15 A, đường 45, đường 217 với tổng chiều dài 404 km, chiếm 5,5 % chiều dài các tuyến quốc lộ trên địa bàn tỉnh. 11 huyện miền núi với 11 tuyến tỉnh lộ, với tổng chiều dài 430 km; 12 tuyến đường huyện quản lý, tổng chiều dài 294 km đã góp phần rất lớn trong việc phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá giữa địa bàn các huyện miền núi với nhau và với miền xuôi trong và ngoài tỉnh cũng như thực hiện trao đổi, giao lưu quốc tế. Chất lượng đường chủ yếu đạt tiêu chuẩn đường cấp III (đường Hồ Chí Minh), đường cấp IV (các tuyến tỉnh lộ), đường cấp V (các tuyến đường 217, 15A…). Các công trình thuỷ lợi trên địa bàn hầu hết là các hồ, đập quy mô vừa và nhỏ và trạm bơm lẻ, công suất nhỏ chủ yếu phục vụ tưới cho cây lúa nước. Các giống cây khác phần lớn là chờ nước mưa. Toàn vùng có 661 hồ, đập lớn nhỏ, 56 trạm bơm, tổng năng lực thiết kế các công trình tưới là 56.600 ha. Về truyền thống văn hoá – lịch sử: Là tỉnh có bề dày lịch sử hào hùng 12 và truyền thống văn hoá độc đáo. Vào sơ kỳ thời đại đá cũ, bằng sự phát hiện và khai quật khảo cổ các di chỉ Núi Đọ, Núi Quan Yên, Núi Nuông đã khẳng định Thanh Hóa là nơi sinh sống của người nguyên thuỷ, đặc biệt hang Con Mong là nơi chứng kiến các giai đoạn phát triển liên tục của con người từ hậu kỳ đá cũ sang thời đại đá mới. Quá trình chinh phục đồng bằng trên đất Thanh Hóa của cư dân đồ đá mới đã để lại một nền văn hoá Đa Bút, là một nền văn hoá khảo cổ tiến bộ cùng thời trong khu vực cách đây 6.000 năm. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước văn hoá Đông Sơn, Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các văn hoá Phùng Nguyên - Đồng Dậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Đó là quá trình chuẩn bị mọi mặt để đến văn minh Sông Hồng cách đây hơn 2.000 năm lịch sử, với văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa đã toả sáng rực rỡ không chỉ trong nước mà còn lan toả ra các vùng phụ cận, các quốc gia trong khu vực suốt thời các Vua Hùng dựng nước. Suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, Thanh Hóa đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Khương Công Phụ, Lê Văn Hưu, Đào Duy Từ, ... Cùng với những trang lịch sử oai hùng, Thanh Hóa có 1.535 di tích, trong đó có 134 di tích được xếp hạng quốc gia, 412 di tích đã xếp hạng cấp tỉnh với các di tích nổi tiếng như Núi Đọ, Đông Sơn, khu di tích Bà Triệu, Lê Hoàn, thành Nhà Hồ, Lam Kinh, Ba Đình, Hàm Rồng ... càng khẳng định xứ Thanh là một vùng “Địa linh nhân kiệt”. Đánh giá thuận lợi và khó khăn Thuận lợi: Là cửa ngõ nối liền Bắc Bộ - Trung Bộ - Nam Bộ, là khu vực có hệ thống giao thông thuận lợi, có các tuyến quốc lộ chạy qua như đường Hồ Chí Minh, đường sang Trung Lào theo quốc lộ 217, Thượng Lào theo đường xuyên ASEAN; có các cửa khẩu thông thương với nước bạn Lào như: Cửa khẩu Na Mèo (huyện Quan Sơn), cửa khẩu Tén Tần (huyện Mường 13 Lát), cửa khẩu Khẹo (huyện Thường Xuân), tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế cửa khẩu, kinh tế vùng biển; xây dựng biên giới hoà bình, hợp tác, hữu nghị…mặt khác, với tiềm năng của 3 vùng kinh tế: miền núi – trung du – đồng bằng và ven biển. Kết hợp với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú; nhiều danh lam thắng cảnh và di tích có giá trị lịch sử và văn hóa…Tiềm năng, thế mạnh đó cho phép Thanh Hoá phát triển một nền kinh tế toàn diện, bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và các ngành dịch vụ, du lịch. Dân số đông với nguồn lao động tương đối dồi dào, cần cù, sáng tạo… cũng là những điều kiện khá thuận lợi để phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế miền núi. Hơn nữa, Thanh Hóa là quê hương có truyền thống đấu tranh cách mạng, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa vừa anh dũng chống giặc ngoại xâm, vừa cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế và văn hóa – đây là nhân tố vô cùng to lớn để đưa nền kinh tế xã hội Thanh Hóa ngày càng phát triển hơn. Những thành tựu về kinh tế - xã hội mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thanh Hóa đạt được trong những năm đầu khi bước vào thời kỳ đổi mới tuy mới chỉ là bước khởi đầu nhưng mang một ý nghĩa vô cùng to lớn, vừa là nền tảng, vừa là động lực để Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thanh Hóa tiếp tục vươn lên, đưa sự nghiệp CNH, HĐH tỉnh nhà ngày càng gặt hái được nhiều thành tựu hơn nữa, phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao hơn nữa đời sống nhân dân… Khó khăn: Địa hình Thanh Hóa chủ yêu là miền núi, địa hình bị chia cắt mạnh, hiểm trở gắn với hệ núi cao Tây bắc và hệ núi Trường Sơn phía Nam. Độ cao trung bình toàn vùng là 600 – 700m (so với mặt nước biển), độ dốc trên 250. Vùng trung du có độ cao trung bình 150 – 200m, độ dốc từ 15 – 200. Với địa hình khó khăn, kinh tế miền núi Thanh Hoá, nhất là vùng cao trong thời gian qua tuy có phát triển hơn nhiều so với trước đây nhưng vẫn còn khoảng cách lớn với vùng đồng bằng. Thêm vào đó là do ảnh hưởng của gió lào gây khô hạn nghiêm trọng, và ở những vùng núi cao có sương mù, sương muối dày đặc thường gây nên những tác động rất xấu đến sản xuất và 14 đời sống nhân dân. Tài nguyên rừng nhiều nhưng rừng Thanh Hoá vẫn được xếp vào loại rừng nghèo. Đại đa số diện tích rừng trên địa bàn là rừng nghèo, rừng tái sinh và rừng mới trồng. Trữ lượng lâm sản thấp, khả năng cho khai thác trong những năm tới là rất hạn chế; một số diện tích có trữ lượng lâm sản lớn lại phân bố trên những vùng núi cao và nằm trong diện tích rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Áp lực dân số và việc làm ngày càng cao, mật độ phân bố dân cư không đồng đều, mật độ dân số trung bình toàn vùng là 124 người/ km2, huyện Ngọc Lặc có mật độ đông nhất là 278 người/km2, trong khi mật độ huyện Quan Sơn là 37 người/ km2, Mường Lát là 39 người/ km2. Thực trạng phân bố dân cư như trên và vấn đề di cư tự do ở một số bộ phận dân cư trên địa bàn các huyện vùng cao khá phức tạp. Đồng bào người Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc chuyển đến khá đông, trong nội bộ các huyện cũng có di cư tự do, thêm vào đó là hiện tượng vượt biên trái phép, vi phạm hiệp định biên giới vẫn còn, xảy ra mất ổn định về kinh tế, an ninh, quốc phòng vùng biên. Cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, đội ngũ cán bộ còn thiếu kinh nghiêm tổ chức, quản lý… Tất cả những khó khăn trên đã và đang trở thành lực cản cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hóa nói chung và KVMN Thanh Hóa nói riêng. Điều đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thanh Hóa phải có những chủ trương, chính sách, hành động đúng đắn và thiết thực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH,HĐH, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với công bằng xã hội 1.1.2. Tình hình kinh tế miền núi Thanh Hóa trước năm 1996 Sau 5 năm phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIII (8/1991), đến năm 1995, kinh tế miền núi Thanh Hóa đã đạt được những thành tựu quan trọng: Về nông- lâm nghiệp, miền núi Thanh Hoá đã tập trung phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, tăng độ che phủ rừng. Giá trị sản xuất nông- lâm nghiệp 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan