Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong k...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)

.PDF
106
568
133

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ —————————————— DƢƠNG THỊ KIM HUỆ ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG ĐỊA PHƢƠNG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945-1954) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI – 2011 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1 Chƣơng 1. ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG ĐỊA PHƢƠNG GIAI ĐOẠN 1945-1950 ................. 8 1.1. Những điều kiện tác động đến sự chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên....................................... 8 1.1.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội tỉnh Thái Nguyên ............................................ 8 1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về lực lượng vũ trang địa phương ............................................................. 12 1.2. Lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương ở Thái Nguyên giai đoạn 1945 - 1950................................................................................ 16 1.2.1. Lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong giai đoạn xây dựng chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến (1945-1946) ............................................................................................... 16 1.2.2. Lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc (1946 - 1950)......................... 24 Chƣơng 2. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG ĐỊA PHƢƠNG TRONG THẾ TIẾN CÔNG CHIẾN LƢỢC CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN (1951-1954)........................................................................ 51 2.1. Âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù và chủ trương mới của Đảng ................ 51 2.2. Chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương ở Thái Nguyên .............. 56 2.2.1. Xây dựng lực lượng bộ đội địa phương vững mạnh, lực lượng dân quân rộng khắp ................................................................................... 56 2.2.2. Công tác Đảng - Công tác chính trị........................................................... 67 2.2.3. Công tác hậu cần ....................................................................................... 68 Chƣơng 3. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM .......................................... 72 3.1. Nhận xét ....................................................................................................... 72 3.1.1. Ưu điểm ..................................................................................................... 72 3.1.2. Hạn chế ...................................................................................................... 78 3.2. Một số kinh nghiệm ..................................................................................... 79 2 3.2.1. Xác định rõ đặc điểm, vai trò, vị trí của tỉnh trong chiến lược cách mạng chung của cả nước, thấy được thuận lợi và khó khăn, từ đó đề ra chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang địa phương phù hợp...................................................................................................... 80 3.2.2. Dựa vào quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân để xây dựng lực lượng vũ trang địa phương rộng khắp ............................ 83 3.2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang địa phương với các cuộc đấu tranh khác của nhân dân trong cuộc kháng chiến toàn diện ............................................................................... 86 3.2.4. Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, coi trọng công tác Đảng công tác chính trị trong lực lượng vũ trang địa phương ........................... 87 3.2.5. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp uỷ trong quá trình thực hiện đường lối cách mạng và đường lối quân sự của Đảng .............. 91 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chiến tranh giải phóng dân tộc là vấn đề trung tâm, xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam trong gần trọn chiều dài thế kỷ XX. Vấn đề này đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống của người dân Việt Nam. Cuộc sống gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Và trong cuộc đấu tranh đó, mỗi người dân đều có thể trở thành người chiến sĩ, cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước với tinh thần yêu nước và chí căm thù giặc sâu sắc. Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cả nước tiến hành cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại bằng đường lối chiến tranh nhân dân độc đáo. Đó là cuộc chiến mà sức mạnh của mỗi người dân được phát huy, tổng hợp thành sức mạnh của cả dân tộc. Ở đó xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trở thành một vấn đề quan trọng được đặc biệt quan tâm. Với phương châm động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, đánh giặc trên mọi mặt trận, Đảng ta đã lãnh đạo xây dựng được lực lượng vũ trang địa phương rộng khắp và to lớn, phát huy được ưu thế của mình, hình thành nên thế trận mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài ngăn bước tiến quân địch. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã khẳng định vai trò chiến lược của các lực lượng vũ trang địa phương. Nằm ở trung tâm vùng trung du miền núi Đông Bắc, Thái Nguyên là địa bàn có ý nghĩa chiến lược quan trọng cho việc xây dựng căn cứ địa trong đấu tranh cách mạng. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Thái Nguyên trở thành trung tâm căn cứ địa, nơi đứng chân của lãnh tụ, các cơ quan trọng yếu của Trung ương Đảng, Chính phủ, nơi khởi nguồn của nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh dân tộc. Kể từ đó cùng với nhiệm vụ tổ chức kháng chiến chống quân xâm lược, việc bảo vệ an toàn tuyệt đối cho Trung 4 ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của quân và dân Thái Nguyên. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này cần có một ―thế trận lòng dân vững chắc‖. Yêu cầu lịch sử đó đòi hỏi việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang địa phương phải ngày càng được đẩy mạnh. Do đó tìm hiểu về ―Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954‖ sẽ góp phần làm rõ sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Thái Nguyên đối với hoạt động xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong 9 năm kháng chiến, để thấy được vai trò của lực lượng vũ trang này ở một giai đoạn đặc biệt của lịch sử dân tộc, từ đó rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho công tác xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu lien quan đến đề tài Xuất phát từ quan điểm chiến tranh nhân dân là nội dung nổi bật và xuyên suốt trong đường lối quân sự, Đảng ta đã xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng bằng cách tổ chức ba thứ quân, trong đó lực lượng vũ trang địa phương là một bộ phận quan trọng tạo nên lực lượng vũ trang nhân dân của cách mạng. Với vị trí chiến lược của mình, lực lượng vũ trang địa phương trở thành một vấn đề lịch sử, được bàn đến rất nhiều trong các bài nói, bài viết và các công trình nghiên cứu của các nhà lãnh đạo, nhà quân sự và các học giả, trong đó phải kể đến những tác phẩm tiêu biểu như: Hồ Chí Minh: Bàn về chiến tranh nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1966. Võ Nguyên Giáp: Vị trí chiến lược của chiến tranh nhân dân ở địa phương và của các lực lượng vũ trang địa phương, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1972. Võ Nguyên Giáp: Những kinh nghiệm lớn của Đảng ta về lãnh đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961. 5 Nguyễn Chí Thanh: Đảng ta lãnh đạo tài tình chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1970. v.v… Các công trình nghiên cứu đó đã tập trung làm rõ những nội dung cơ bản về lực lượng vũ trang địa phương như: Các bộ phận của lực lượng vũ trang địa phương. Vai trò, vị trí chiến lược của lực lượng vũ trang địa phương. Mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang địa phương với các bộ phận khác trong lực lượng vũ trang ba thứ quân. Sự chỉ đạo của Đảng trong xây dựng lực lượng vũ trang địa phương. Các tác giả đều đã khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của lực lượng vũ trang địa phương trong thế trận chiến tranh nhân dân. Những luận điểm đó sẽ là cơ sở lý luận cho việc tìm hiểu, nghiên cứu của đề tài này. Trên cơ sở những lý luận chung về lực lượng vũ trang địa phương, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết nói về lực lượng vũ trang địa phương Thái Nguyên thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp ở những mức độ khác nhau, có thể kể đến như: Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên: “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên”, tập 1 (1936-1965), 2003. Cuốn sách đã dựng lại một cách hệ thống, sinh động quá trình ra đời, xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ tỉnh và quá trình Đảng bộ lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, trong đó có khái quát sự chỉ đạo xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và lực lượng vũ trang địa phương nói riêng. Đồng thời tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm liên quan đến công tác lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh. Cũng nhằm tái hiện lại cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp của nhân dân Thái Nguyên và Bắc Cạn, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Thái đã biên soạn cuốn sách: ―Bắc Thái- Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954‖ 6 (Bắc Thái, 1990). Tác phẩm là sự tổng kết các chặng đường lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Bắc Thái, trong đó có đề cập đến những đóng góp, hoạt động nổi bật của lực lượng vũ trang địa phương trong thời gian này. Một trong những bài học quan trọng được rút ra là ―phải hết sức chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương đáp ứng yêu cầu chiến đấu bảo vệ hậu phương, chi viện cho chiến trường, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc‖ [12, tr.216]. Tác phẩm cũng cho thấy Thái Nguyên có những điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, trong đó đặc biệt phải kể đến yếu tố địa hình phần lớn là rừng núi hiểm trở, cư dân phân tán… phù hợp với tác chiến tại chỗ của bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Trên thực tế, những yếu tố thuận lợi đó đã được phát huy hiệu quả. Tại Hội thảo khoa học: ―50 năm Thái Nguyên trong chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông 1947‖ (năm 1997), tác giả Đặng Môn đã có bài: ―Các lực lượng vũ trang nhân dân địa phương Thái Nguyên từ sau chiến thắng Việt Bắc - Thu đông 1947 đến thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay‖. Với độ dài 10 trang, tác giả đã khái quát một ngắn gọn về lực lượng vũ trang địa phương của tỉnh kể từ sau 1947, nêu ra một số sự kiện và con số liên quan đến hoạt động xây dựng lực lượng này ở Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nằm trong các hoạt động kỷ niệm 50 năm chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên đã xuất bản cuốn kỷ yếu hội thảo khoa học: ―Thái Nguyên trong chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông 1947” (Thái Nguyên, 1997). Tác phẩm là tập hợp những bài viết của các tướng lĩnh, các cán bộ lão thành cách mạng, các nhà nghiên cứu khoa học lịch sử trong và ngoài quân đội ở Trung ương và địa phương về chiến thắng quân sự này. Tập trung vào một mốc lịch sử năm 1947, một số bài viết trong cuốn sách nhắc đến lực lượng vũ trang địa phương với vai trò là lực lượng quan 7 trọng trong việc chiến đấu bảo vệ an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo và các cơ quan trọng yếu của Đảng đóng trên địa bàn tỉnh, đồng thời có những bước phát triển mạnh trong xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho chiến dịch Việt Bắc Thu Đông và những đóng góp nổi bật của lực lượng vũ trang này trong chiến thắng năm 1947. Cùng với đó còn có nhiều tác phẩm khác như: ―Tổng kết chiến tranh du kích Thái Nguyên‖ - Lưu LSĐ tỉnh Thái Nguyên; Sở VHTT Bắc Thái: ―Bắc Thái 40 năm đấu tranh và xây dựng (1945-1985)‖, 1985; Echinard: ―Lịch sử chính trị và quân sự tỉnh Thái Nguyên‖- Lưu LSĐ tỉnh Thái Nguyên… Như vậy có thể thấy: Dù ở những mức độ khác nhau song các công trình trên đều đã quan tâm đến vấn đề lực lượng vũ trang địa phương Thái Nguyên trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Điều đó đã thể hiện tầm quan trọng của công tác chỉ đạo xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang địa phương trong quá trình đấu tranh cách mạng ở Thái Nguyên - trung tâm căn cứ Việt Bắc, Thủ đô kháng chiến trong suốt 9 năm kháng Pháp. Qua đó đã khái quát được những nét chủ đạo về lực lượng vũ trang địa phương Thái Nguyên ở giai đoạn lịch sử này: quá trình hình thành, phát triển và những đóng góp nổi bật. Tuy nhiên, vì chưa phải là các công trình chuyên khảo về lực lượng vũ trang địa phương Thái Nguyên trong kháng chiến chống Pháp nên ở các cuốn sách đó, lực lượng vũ trang địa phương mới được đề cập đến dưới góc độ là một bộ phận của cuộc kháng chiến, nhằm minh họa cho vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với toàn bộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Thái Nguyên chứ chưa phải là vấn đề được đi sâu trình bày, phân tích. Do đó, tập trung vào tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong kháng chiến chống Pháp xâm lược ở Thái Nguyên sẽ là cái nhìn tổng hợp, cụ thể về những chủ trương, nghị quyết của Tỉnh uỷ nhằm xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang này giai đoạn 1945-1954. 8 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích nghiên cứu: Tập trung vào tìm hiểu, phân tích và trình bày cụ thể, có hệ thống về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đối với việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong kháng chiến chống Pháp (1945- 1954). * Nhiệm vụ nghiên cứu Tập hợp các nguồn tài liệu liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh Thái Nguyên trong việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Trình bày có hệ thống, kết hợp với phân tích, đánh giá những quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Khái quát quá trình chỉ đạo tổ chức của Tỉnh uỷ. Kết quả và những đóng góp nổi bật của lực lượng vũ trang địa phương tỉnh trong 9 năm kháng chiến. Nhận xét, đánh giá về công tác lãnh đạo và sự phát triển trong chủ trương chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong kháng chiến chống Pháp, những kinh nghiệm rút ra. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong việc lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương thời kỳ kháng chiến chống Pháp xâm lược (1945-1954). * Phạm vi nghiên cứu: Thời gian: trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Không gian: Tỉnh Thái Nguyên thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Nội dung: Vai trò lãnh đạo của Tỉnh uỷ Thái Nguyên trong xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, tập trung vào ba vấn đề chủ yếu: công tác tổ 9 chức, công tác Đảng - công tác chính trị, công tác hậu cần trong lực lượng vũ trang địa phương. 5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: * Nguồn tài liệu: Những lý luận chung, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về lực lượng vũ trang địa phương. Hệ thống chủ trương, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), hiện lưu tại Văn phòng Uỷ ban tỉnh. Các công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến đề tài. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp phương pháp lịch sử, phương pháp logic với các phương pháp khác: phân tích, tổng hợp, so sánh... 6. Đóng góp của luận văn Khái quát được một số vấn đề lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang địa phương nói chung và lực lượng vũ trang địa phương Thái Nguyên nói riêng giai đoạn 1945-1954. Luận văn là tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, tìm hiểu về lịch sử địa phương ở Thái Nguyên. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được triển khai thành 3 chương: Chƣơng 1: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương giai đoạn 1945-1950. Chƣơng 2: Lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong thế tiến công chiến lược của cuộc kháng chiến (1951-1954). Chƣơng 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm. 10 Chƣơng 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG ĐỊA PHƢƠNG GIAI ĐOẠN 1945-1950 1.1. Những điều kiện tác động đến sự chỉ đạo xây dựng lực lƣợng vũ trang địa phƣơng của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên 1.1.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội tỉnh Thái Nguyên Thái Nguyên là một tỉnh thuộc khu vực trung du và miền núi phía Bắc, nằm ở vị trí trung tâm của vùng chiến lược phía bắc sông Hồng, ở tọa độ từ 21,20 đến 22,03 độ vĩ Bắc, 105,28 đến 106,16 độ kinh Đông. Phía Bắc tỉnh giáp Bắc Cạn, phía Đông Nam giáp Bắc Giang, phía Đông Bắc giáp Lạng Sơn, phía Nam giáp Hà Nội, phía Tây Nam giáp Vĩnh Phúc và phía Tây giáp Tuyên Quang. Thái Nguyên có diện tích tự nhiên 3.541,5km². Với vị trí như vậy, Thái Nguyên trở thành điểm tiếp giáp, là cầu nối giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng với các tỉnh vùng núi phía Bắc (Tuyên Quang, Bắc Cạn, Lạng Sơn). Địa hình Thái Nguyên không phức tạp lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác. Thái Nguyên mang đặc trưng ba vùng rõ rệt: phía Tây và Tây Bắc là vùng rừng núi trập trùng, hiểm trở, đồng thời tạo thành các khu ruộng nhỏ, sâu kín và phì nhiêu nằm rải rác khắp vùng. Phía Đông địa hình phức tạp với những khối đá vôi to lớn, nhiều thung lũng hẹp và sâu. Trong lòng núi đá vôi ở đây có nhiều hang ngầm rộng, trong chiến tranh được dùng làm kho chứa hàng hoá vũ khí hoặc làm nơi trú quân rất thuận lợi. Đặc biệt là huyện Định Hoá, nơi có địa thế hiểm trở, núi rừng bạt ngàn, lại có dãy núi Hồng án ngữ, tạo nên bức tường thành kiên cố. Xen giữa các thôn, bản ở đây là những đồi cây rậm rạp, che kín đường đi lối lại và nhà cửa bên trong. Vị trí hiểm yếu cùng với cơ sở quần chúng vững chắc là nhân tố đặc biệt quan trọng đảm bảo cho sự an toàn tuyệt đối của cơ quan đầu não hoạt động trong suốt thời kỳ 11 kháng chiến. Vùng trung du gồm thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và các huyện Phổ Yên, Phú Bình. Sự xen kẽ giữa các dạng địa hình tạo nên tính chất đa dạng cho cảnh quan thiên nhiên của tỉnh. Bên cạnh những dãy núi đá vôi cao là những đồi núi đất thoai thoải, nhấp nhô. Xen kẽ giữa núi, đồi là những thung lũng nhỏ hẹp khác nhau, lại có những vùng đất đai địa hình tương đối bằng phẳng. Nhìn tổng thể, Thái Nguyên có độ dốc Bắc Nam theo chiều dài của tỉnh. Thái Nguyên có nhiều sông, suối phân bố tương đối đều trên địa bàn tỉnh, trong đó lớn nhất là sông Cầu và sông Công. Các sông, suối hàng năm cung cấp cho đồng ruộng ven sông một khối lượng phù sa lớn, làm cho đất đai thêm phì nhiêu, giữ được độ ẩm quanh năm, thuận lợi cho việc gieo trồng các loại cây lương thực và hoa màu. Bên cạnh đó, do điều kiện đất đai, khí hậu, Thái Nguyên trở thành tỉnh trồng và sản xuất chè ngon nổi tiếng cả nước. Nhờ có nguồn nước dồi dào nên việc canh tác trên các cánh đồng ruộng phân tán được thuận lợi, đồng thời đảm bảo cho đời sống sinh hoạt để xây dựng các khu căn cứ địa an toàn, bí mật trong thời kỳ chiến tranh.Với vị trí và địa hình như vậy, trong thời kỳ kháng chiến, Thái Nguyên có lợi thế để phát huy thế mạnh của ba vùng hỗ trợ lẫn nhau, kết hợp được cả tiến công và phòng ngự, trong khi đó về phía kẻ thù, khi kéo quân lên đây chúng khó có thể kiểm soát được diện rộng mà chủ yếu phải bám dọc các tuyến đường, trục giao thông, nên thuận lợi cho quá trình tác chiến của các lực lượng vũ trang của ta. Trong thời bình cũng thuận lợi để phát huy tiềm lực kinh tế, quốc phòng của tỉnh. Nằm ở vị trí trung tâm của khu vực, Thái Nguyên có hệ thống giao thông đường bộ, đường sông và đường sắt với nhiều tuyến đường quan trọng, đặc biệt là quốc lộ 3 và đường 13A. Từ trước cách mạng tháng Tám cũng như trong suốt thời kỳ kháng chiến, hệ thống giao thông của tỉnh đã góp phần quan trọng đảm bảo giao thông vận tải thông suốt, kịp thời. 12 Với dân số khoảng 1,2 triệu người, Thái Nguyên là tỉnh có nhiều tộc người sinh sống, trong đó có 8 tộc người chủ yếu là Kinh, Tày, Nùng, Dao, HMông, Sán Chí, Sán Dìu, Hoa. Người dân bản địa ở Thái Nguyên so với các tỉnh khác không nhiều, song qua các thời kỳ lịch sử, thành phần tộc người và dân số Thái Nguyên đã gia tăng. Người Kinh chiếm khoảng 75,5% dân số toàn tỉnh. Người Tày là tộc người ở Thái Nguyên từ rất lâu đời và có số lượng đông nhất trong các dân tộc thiểu số. Địa bàn cư trú của người Tày rộng khắp trong phạm vi toàn tỉnh, song chủ yếu là những huyện miền núi, vùng cao… Nhiều tộc người ở Thái Nguyên lại phân thành nhiều chi tộc rất phong phú như người Nùng chia thành Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh; người Dao có 4 nhóm chính là Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Lô gang, Dao quần chẹt… Nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên vốn có truyền thống văn hoá lâu đời. Do tập trung nhiều dân tộc sinh sống nên Thái Nguyên có văn hoá các tộc người hết sức đa dạng. Văn hoá của mỗi dân tộc đều có những nét riêng độc đáo từ sinh hoạt, phong tục tập quán đến trang phục, lễ hội, ngôn ngữ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những tinh hoa văn hoá cùng truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc đang ngày càng được phát huy, góp phần quan trọng tạo nên hình ảnh Thái Nguyên đổi mới và phát triển. Với những yếu tố thuận lợi về tự nhiên, xã hội, Thái Nguyên giữ vị trí chiến lược quan trọng trong chiến tranh. Cả một vùng rừng núi trùng điệp, đi dần từ những ngọn đồi ở Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Giang, đi qua các dãy Tam Đảo chất ngất hay Yên Thế, Nhã Nam hùng vĩ; rồi tiến về phía Bắc là Đình Cả, Bắc Sơn, Cai Kinh, là Kim Hỷ, là tiền Phia Boóc… đứng về địa thế, đây là nơi hết sức thuận lợi cho hoạt động quân sự, cả tiến công và phòng thủ. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, từ xưa ông cha ta đã coi vùng Bắc Cạn - Thái Nguyên ―là nơi phên dậu thứ hai về phương Bắc‖ của nước Việt. Đảng ta coi đây là địa bàn có ý nghĩa chiến lược quan trọng cho việc xây dựng căn cứ địa trong đấu tranh cách mạng, trong các cuộc chiến tranh 13 giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân Thái Nguyên đã được hình thành từ trong lịch sử. Trong cuộc kháng chiến chống Tống ở thế kỷ X, người dân Thái Nguyên đã sát cánh cùng người Việt dưới xuôi bắt chém được Hầu Nhân Bảo, làm cho quân Tống bị thua phải rút về nước. Cuộc chiến chống quân Tống bảo vệ biên giới phía Bắc có công lao to lớn của Dương Tự Minh. Thế kỷ XV, nhân dân châu Thái Nguyên nổi dậy tham gia nghĩa binh áo đỏ chống lại giặc Minh xâm lược. Thái Nguyên đã đóng góp cho bộ tham mưu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hai nhân vật tiêu biểu là hai cha con danh tướng Lưu Nhân Chú. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Tháng 3 năm 1884 giặc Pháp đem quân đánh chiếm Thái Nguyên và đã vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của nhân dân ở đây, chịu tổn thất khá nặng nề. Sau khi bị Pháp chiếm đóng, nhân dân trong tỉnh tiếp tục đứng lên chống Pháp dưới các ngọn cờ xướng nghĩa của Hoàng Hoa Thám (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX), của Chung Á Dệt… Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa lớn nổ ra bất ngờ tại tỉnh lỵ Thái Nguyên đêm 30 rạng ngày 31/8/1917 do Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn) và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo. Tuy chỉ kéo dài trong 4 tháng 11 ngày nhưng đây là lần đầu tiên trong lịch sử cận đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa diễn ra tại một tỉnh, có tuyên bố nền độc lập, đặt ra quốc kỳ, thành lập quân đội riêng. Cuộc khởi nghĩa của Thái Nguyên là cuộc khởi nghĩa lớn nhất nổ ra ở Việt Nam trong thời kỳ thế giới đại chiến lần thứ nhất. Tuy bị dập tắt nhưng cuộc khởi nghĩa đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh, hun đúc truyền thống chống quân xâm lược của nhân dân Thái Nguyên. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền thống ấy đã được phát huy và nhân lên gấp bội. Giữa năm 1945, ―khu giải phóng Việt Bắc được hình thành, một phần Bắc bộ trên thực tế đặt dưới chính quyền cách mạng‖ [19, tr.38], trong đó có Thái Nguyên. Sang đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Bắc được Trung ương 14 Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm căn cứ địa của Trung ương, hậu phương chiến lược của cả nước. Thái Nguyên nằm trong vùng trung tâm của An Toàn Khu (ATK), là nơi ở và nơi làm việc của cơ quan lãnh đạo tối cao cuộc kháng chiến chống Pháp từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc thắng lợi. Gần cơ quan lãnh đạo Trung ương nên Thái Nguyên thuận lợi trong việc tiếp nhận những chủ trương, nhận định của Đảng cũng như nhận được sự phối hợp, giúp đỡ của các đơn vị chủ lực đối với lực lượng vũ trang địa phương trong quá trình xây dựng và tác chiến. Với truyền thống đấu tranh như vậy, con người Thái Nguyên được hun đúc tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên cường, trở thành cơ sở vững chắc cho sự phát triển của phong trào cách mạng. 1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về lực lượng vũ trang địa phương Vấn đề lực lượng vũ trang địa phương được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đề cập đến thông qua việc bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Theo Mác và Ăng-ghen, khi giai cấp công nhân cùng giai cấp nông dân và nhân dân lao động đã giác ngộ và nổi dậy thì nhất định phải có vũ trang mới giành được chính quyền. Trong điều kiện lịch sử khi đó, về mặt lý luận quân sự, vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang mà chủ nghĩa Mác đề ra là vấn đề vũ trang quần chúng chứ chưa phải vấn đề tổ chức quân đội. Trong nhiều tác phẩm nghiên cứu về chiến tranh, Ăng-ghen đã nói rất nhiều đến vai trò và tác dụng to lớn của quần chúng vũ trang trong chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh tự vệ. Ăng-ghen đã viết ―một dân tộc muốn giành độc lập cho mình thì không được tự giới hạn trong những phương thức thông thường để tiến hành chiến tranh. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp mọi nơi - đó là phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể chiến thắng được một dân tộc lớn, mà một quân đội ít mạnh hơn có thể đối lập với một quân đội mạnh hơn và có tổ chức hơn‖ [1, tr.18]. Ăng-ghen còn 15 đưa ra luận điểm nổi tiếng về vũ trang cho giai cấp công nhân, lấy vũ trang nhân dân thay thế cho quân đội thường trực. Đến thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, trong điều kiện lịch sử mới và trên cơ sở lý luận quân sự của Mác-Ăngghen, Lênin đã bổ sung và phát triển vấn đề tổ chức quân sự. Lênin khẳng định sự cần thiết phải xây dựng lực lượng quân đội thường trực chính quy của Nhà nước song phải dựa trên cơ sở vũ trang nhân dân. Lịch sử cho thấy, ở Liên Xô, ngay sau khi cách mạng tháng Mười thắng lợi, các lực lượng vũ trang của quần chúng cách mạng, các đội cận vệ, các đội du kích công nhân và nông dân nghèo đã từng giữ vai trò rất quan trọng trong các cuộc đấu tranh chống các cuộc nổi loạn của bọn phản cách mạng. Khi Hồng quân mới được xây dựng, chính các đội Cận vệ đỏ là bộ phận nòng cốt hợp thành lực lượng của Hồng quân. Trước đó, ở nhiều vùng trên đất nước, các đội du kích là một trong những lực lượng chủ yếu trong cuộc chiến đấu của nhân dân chống bọn can thiệp nước ngoài và bọn bạch vệ. Thực tế đó cho thấy vũ trang quần chúng nhân dân có sức mạnh to lớn trong đấu tranh cách mạng. Đó là vì lực lượng này có những ưu thế nổi bật của mình như: ―có thể chiến đấu được trên bất cứ địa hình nào, do đó chiến đấu được ngay trên những địa hình bất lợi nhất đối với đội hình hàng ngang, có thể tập hợp được quân đội theo cách thích hợp với yêu cầu… có thể ngăn cản được, kìm chân và làm cho đội hình hàng ngang của địch phải mỏi mệt…‖ [1, tr.12]. Ví như với cuộc chiến của nước Phổ năm 1866, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng cùng với việc là nước đầu tiên đã trang bị cho toàn thể bộ binh của mình bằng những vũ khí hiện đại nhất thì chính việc chỉ có nước Phổ là đã tìm cách dùng nhân dân làm lực lượng quân sự với một mức độ rộng rãi hơn là hai nhân tố làm nên thắng lợi này của nước Phổ. Như vậy có thể thấy chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định vai trò, sức mạnh to lớn của lực lượng vũ trang quần chúng trong sự nghiệp cách mạng. 16 Trong quá trình làm cách mạng, khi vấn đề đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang được đặt ra thì giai cấp vô sản, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức nhất thiết phải có tổ chức quân sự của mình. Và thông thường tổ chức ấy có hình thức ban đầu là quần chúng vũ trang, trên cơ sở đó sẽ tiến lên xây dựng quân đội cách mạng. Do đó việc vũ trang quần chúng cách mạng rộng khắp và mạnh mẽ là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Vận dụng sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về lý luận quân sự vào trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng đường lối quân sự đúng đắn và sáng tạo. Ngay trong thời kỳ Đảng ta mới thành lập, những quan điểm quân sự đầu tiên đã hình thành, trong đó vấn đề vũ trang quần chúng, coi cách mạng nói chung và đấu tranh vũ trang nói riêng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân là quan điểm cơ bản. Ngay từ đầu Đảng ta đã đề ra chủ trương: Vừa vũ trang quần chúng vừa thành lập quân đội cách mạng. Những văn kiện đầu tiên của Đảng đã từng nêu rõ các vấn đề tổ chức các đội tự vệ, huấn luyện quân sự cho quần chúng lao động và chuẩn bị những điều kiện để tiến lên xây dựng các đội du kích, tiến hành chiến tranh du kích và khởi nghĩa vũ trang, xây dựng quân đội cách mạng. Xuất phát từ quan điểm chiến tranh nhân dân là quan điểm cơ bản nhất trong đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta đã xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng bằng cách tổ chức ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, trong đó bộ đội địa phương và dân quân tự vệ hợp thành lực lượng vũ trang địa phương rộng rãi. Bộ đội địa phương là một trong ba thứ quân, là chủ lực của địa phương. Đây là lực lượng nối liền giữa các lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích ở cơ sở với các lực lượng chủ lực tác chiến tập trung. Bộ đội địa phương cùng với lực lượng to lớn của dân quân tự vệ hình thành lực lượng tác chiến tại chỗ, hình thành thế bố trí sẵn sàng trên các chiến trường, có mặt ở mọi lúc, mọi nơi, là lực lượng đánh lại một cách kịp thời nhất mọi 17 thủ đoạn cơ động của địch và bảo vệ có hiệu quả tài sản, tính mệnh của nhân dân, bảo vệ và giữ vững tiềm lực của chiến tranh. Dân quân và tự vệ là lực lượng có sức chiến đấu rất to lớn, là lực lượng vũ trang kết hợp chặt chẽ nhất với quần chúng, trực tiếp giữ vững và phát huy sức mạnh của quần chúng ở cơ sở. Vì vậy, muốn cho lực lượng dân quân tự vệ thực sự có vai trò chiến lược, làm tròn nhiệm vụ chiến lược, nhất thiết phải coi trọng nó, cả về số lượng và chất lượng. Nói về vai trò của lực lượng vũ trang địa phương, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: ―Vai trò của các lực lượng vũ trang địa phương rất lớn; nó gắn chặt với vai trò chiến tranh nhân dân ở địa phương, với sức mạnh quần chúng cách mạng của từng địa phương. Nó là lực lượng quân sự kết hợp chặt chẽ nhất với lực lượng chính trị ở từng địa phương. Hoạt động của nó cũng gắn chặt với nhiệm vụ kinh tế của nhân dân. Nó trực tiếp bảo vệ tài sản, tính mệnh của nhân dân. Vì thế muốn tiến hành chiến tranh nhân dân, có lực lượng làm nòng cốt cho nhân dân nổi dậy khởi nghĩa và tiến hành chiến tranh…thì điều trước tiên và quan trọng hơn cả là phải chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang ở địa phương‖ [36, tr.18]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh ―dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã‖ [47, tr.28]. Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, khi chúng ta trong tình trạng đối phó với kẻ thù trên chiến trường không tiền phương, không hậu phương, phải tiến hành cuộc chiến tranh toàn diện, bộ đội chúng ta lại đang trong quá trình xây dựng mọi mặt về tổ chức cũng như về kỹ thuật thì lực lượng vũ trang địa phương là hình thức tổ chức thích hợp và phát huy hiệu quả. Như vậy chỉ có dân quân du kích và bộ đội địa phương mới là tổ chức thích hợp để đoàn kết toàn dân đánh địch trong những điều kiện đó. 18 Khi chiến tranh càng phát triển thì các lực lượng vũ trang địa phương càng phải được củng cố và phát triển vững chắc. Trong suốt chiều dài của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo xây dựng được lực lượng vũ trang địa phương mạnh mẽ và rộng khắp, là cơ sở vững chắc để thực hiện chiến tranh nhân dân. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vai trò chiến lược của lực lượng vũ trang địa phương vẫn được khẳng định. ―Có phải chỉ cần thực hiện nghĩa vụ quân sự để chuẩn bị lực lượng dự bị cho quân chính quy, còn tổ chức dân quân tự vệ không cần thiết nữa hay không? Hoàn toàn không phải như thế. Chiến tranh tương lai nếu có xảy ra thì về bản chất vẫn là chiến tranh nhân dân, cho nên những hình thức tổ chức của các thứ lực lượng vũ trang từ thấp lên cao như chúng ta đã có kinh nghiệm vẫn hoàn toàn thích hợp, cần thiết và có một tác dụng rất to lớn… đó là một trong những điều kiện cơ bản không thể thiếu để tích cực bảo vệ đất nước trong thời bình, để đảm bảo thắng lợi nếu chiến tranh xảy ra‖ [33, tr.40-41]. Do đó vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương lớn mạnh vẫn luôn là nhiệm vụ quan trọng trong công tác quân sự của Đảng ta. 1.2. Lãnh đạo xây dựng lực lƣợng vũ trang địa phƣơng ở Thái Nguyên giai đoạn 1945 - 1950 1.2.1. Lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong giai đoạn xây dựng chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến (1945-1946) 1.2.1.1. Những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến Cách mạng tháng Tám ở Thái Nguyên là một bộ phận của cuộc tổng khởi nghĩa do Đảng, Bác Hồ lãnh đạo. Thắng lợi của cuộc cách mạng đã mở ra trang sử mới đối với nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên, đồng thời tạo ra những tiền đề quan trọng cho giai đoạn lịch sử tiếp theo - giai đoạn kháng chiến chống Pháp xâm lược. 19 Sau ngày giành được chính quyền cách mạng, Thái Nguyên có những thuận lợi cơ bản. Trước hết, nằm trong căn cứ địa và vùng giải phóng Việt Bắc nên cán bộ và nhân dân trong tỉnh sớm được rèn luyện qua các cao trào cách mạng, sớm được hưởng những quyền lợi do cách mạng mang lại. Đồng bào ở đây hiểu rõ những giá trị cao quý ấy, hiểu được ―độc lập tự do là quý báu, quý giá vô ngần. Ta đã khổ sở đau đớn trong bao nhiêu năm mới giành được, cần phải cố gắng gìn giữ, bảo vệ ‖ [12, tr.63], do đó quyết tâm chiến đấu chống lại các âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù để giữ vững thành quả cách mạng. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng gian khổ, kiên cường, nhiều lớp cán bộ ưu tú đã xuất hiện ở Thái Nguyên, trở thành nòng cốt trong phong trào đấu tranh ở các địa phương, tăng cường sức mạnh cho Đảng bộ tỉnh. Tinh thần, ý thức giác ngộ cách mạng của quần chúng nhân dân được nâng cao. Với truyền thống đoàn kết bền vững và phong trào cách mạng phát triển mạnh từ khi có Đảng lãnh đạo, Thái Nguyên có được những kinh nghiệm đấu tranh về việc vận động nhân dân các dân tộc đoàn kết, kinh nghiệm xây dựng căn cứ địa ở vùng rừng núi, về tiến hành chiến tranh du kích cục bộ… Những kinh nghiệm về đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang của Thái Nguyên lúc bấy giờ tuy mới chỉ là bước đầu nhưng vô cùng quý giá. Tuy nhiên, sau cách mạng tháng Tám, cũng giống như tình hình chung của cả nước, Thái Nguyên đứng trước những khó khăn lớn đe dọa đến sự tồn tại của chính quyền cách mạng. Đó là chính quyền cách mạng vừa mới được thành lập, chưa có kinh nghiệm quản lý. Lực lượng vũ trang cách mạng còn nhỏ bé, trang bị thô sơ và còn nhiều thiếu thốn. Lợi dụng sự chống phá của các lực lượng nước ngoài đối với nước ta, các thế lực phản cách mạng trong nước cũng nổi dậy phá hoại. Theo như các nguồn sử liệu ghi lại, một số tên đặc vụ của Tưởng ở thị xã Thái Nguyên nằm vùng từ những năm 40 bắt đầu lộ diện. Những phần tử phản động lợi dụng đạo Thiên chúa ở Nhã Lộng (Phú Bình) đã đứng ra tổ chức ―Liên đoàn thanh 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan