Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1961 đến n...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1961 đến năm 1975

.PDF
136
221
105

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------- PHAN THỊ NHUNG ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2011 MỤC LỤC Trang Danh mục các chữ viết tắt ..................................................................................... 2 Mở đầu ................................................................................................................... 3 Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965) ................................................ 9 1.1. Những yếu tố có ảnh hưởng đến kinh tế nông nghiệp của tỉnh và chủ trương của Đảng bộ........................................................................................... 9 1.2. Chỉ đạo của Đảng bộ ........................ 26 Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1965 đến năm 1975 ...................................................................................... 39 2.1. Chuyển hướng phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1965 đến năm 1968 ..... 41 2.2. Khôi phục, phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1969 đến năm 1975 .......... 57 Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm....................................................... 79 3.1. Một số nhận xét .............................................................................................. 79 3.2. Một số kinh nghiệm ........................................................................................ 97 Kết luận .............................................................................................................. 107 Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 110 Phụ lục ................................................................................................................ 132 1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết tắt đầy đủ BCHTW Ban chấp hành Trung ương BBT Ban Bí thư BCT Bộ Chính trị BTV Ban Thường vụ CNH công nghiệp hóa CNXH chủ nghĩa xã hội DTDCND dân tộc dân chủ nhân dân ĐLDT độc lập dân tộc Ha Hécta HĐH hiện đại hóa HTX hợp tác xã KH-KT khoa học - kỹ thuật KT-XH kinh tế - xã hội LLSX lực lượng sản xuất Nxb nhà xuất bản QHSX quan hệ sản xuất TLSX tư liệu sản xuất VC-KT vật chất – kỹ thuật XHCN xã hội chủ nghĩa 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử phát triển sản xuất của xã hội khẳng định nông nghiệp từ lâu đã được coi là một trong hai ngành sản xuất chủ yếu của xã hội. Trong những năm 1961 – 1975, nền kinh tế nông nghiệp miền Bắc đã góp phần trọng yếu trong xây dựng, củng cố hậu phương, đảm bảo đời sống của nhân dân, quân đội, tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực quốc phòng. Phát triển kinh tế nông nghiệp trong thời kỳ này, không những miền Bắc tiếp tục hoàn thành cải tạo, củng cố QHSX mới trong nông nghiệp, đưa sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng toàn diện, phá thế độc canh cây lúa, làm cơ sở phát triển công nghiệp và các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, mà còn đảm bảo cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Những thành tựu về phát triển kinh tế nông nghiệp trong những năm này tác động trực tiếp đến công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương miền Bắc XHCN, ảnh hưởng to lớn đến sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Đây là vùng đất phù sa màu mỡ, có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Những năm 1961 – 1975, thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc, Thái Bình là một trong những tỉnh đầu tiên của miền Bắc đạt năng suất lúa 5 tấn/ha. Kinh tế nông nghiệp của tỉnh Thái Bình đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần ổn định đời sống nhân dân, đóng góp tích cực vào chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. . Vì thế, chúng tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1961 đến năm 1975” làm luận văn cao học, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 3 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu về vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp ở miền Bắc từ năm 1961 – 1975 đã có nhiều công trình khoa học đề cập đến với những mức độ và cách tiếp cận khác nhau như: - Nguyễn Sinh Cúc, Nguyễn Văn Tiêm: Nửa thế kỷ phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam 1945 – 1995, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996. Các tác giả đã trình bày khái quát chủ trương của Đảng, Nhà nước tập trung hoàn thành công cuộc hợp tác hóa, đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, tiến hành cuộc vận động về cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, vận động dân chủ ở nông thôn, vận động đưa HTX lên bậc cao. Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ chủ trương chuyển hướng xây dựng, phát triển kinh tế phù hợp với thời chiến, phát triển nông nghiệp toàn diện, lấy sản xuất lương thực làm trọng tâm, chú trọng phát triển cả kinh tế phụ gia đình, từng bước hình thành, phát triển hệ thống dịch vụ trong nông nghiệp. Trên cơ sở những số liệu thống kê so sánh về tổng sản lượng lương thực, vấn đề xuất, nhập khẩu lương thực và chi viện chiến trường, các tác giả góp phần nêu bật vai trò của nông nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam. - Chử Văn Lâm (chủ biên): Hợp tác hóa nông nghiệp Việt Nam, lịch sử - vấn đề - triển vọng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1972. Tập thể các nhà khoa học tập trung nghiên cứu, làm rõ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong xây dựng, củng cố HTX nông nghiệp. Căn cứ vào đặc điểm tình hình miền Bắc (1961 – 1975), việc củng cố phát triển HTX nông nghiệp được chia làm hai mốc thời gian chính: Củng cố phong trào hợp tác hóa, đưa các HTX nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao (1961 – 1965); Hợp tác hóa nông nghiệp trong thử thách ác liệt của chiến tranh (1965 – 1975). Trên cơ sở quá trình nghiên cứu, các tác giả đi đến kết luận: Mô hình HTX nông nghiệp tỏ ra thích hợp trong điều kiện thời chiến, nhưng dưới góc độ kinh tế chưa phù hợp với đặc điểm của nông nghiệp, nông thôn miền Bắc. 4 - Nguyễn Huy: Đưa nông nghiệp từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983. Tác giả trình bày có tính tổng kết về quá trình lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp (1954 – 1982). Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển nông nghiệp từ năm 1954 đến 1975, tác giả trình bày khái quát về tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp ở miền Bắc Việt Nam, trong đó tập trung làm rõ bước chuyển biến lớn về cải cách ruộng đất, khôi phục sản xuất nông nghiệp, tiến hành xây dựng tổ đổi công từng bước tiến lên xây dựng HTX nông nghiệp ở miền Bắc, làm cơ sở bước đầu để thực hiện đưa sản xuất nông nghiệp từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Về phát triển sản xuất nông nghiệp (1961 – 1975), tác giả chủ yếu tập trung trình bày về những thành tựu, hạn chế trong xây dựng HTX nông nghiệp, về phát triển trồng trọt, chăn nuôi, đầu tư cơ sở VC – KT, thủy lợi, trên cơ sở đó khẳng định tính tất yếu của việc đưa sản xuất nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN. - Bên cạnh các công trình trên, còn một số luận án tiến sĩ, thạc sĩ đề cập đến các khía cạnh khác nhau của việc phát triển kinh tế nông nghiệp những năm 1954 - 1975, như “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1961 đến năm 1975”, Luận án tiến sĩ khoa học, Nguyễn Mạnh Hùng, Hà Nội, 2010. Luận án đi sâu phân tích đường lối, chính sách của Đảng trong lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp miền Bắc từ 19611975; vị trí, vai trò của kinh tế nông nghiệp trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và đúc kết những kinh nghiệm, làm cơ sở vận dụng vào quá trình đổi mới phát triển kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng ở nước ta hiện nay Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo xây dựng và phát triển hợp tác xã nông nghiệp (1958 – 1975), Luận văn thạc sĩ lịch sử của Phạm Thị Kim Lan. Luận văn đi vào nghiên cứu quá trình lãnh đạo của đảng bộ Thái Bình trong 5 xây dựng và phát triển HTX nông nghiệp giai đoạn 1958-1975. Nêu lên những tác động của mô hình này đối với kinh tế nông nghiệp Thái Bình và vị trí của nó trong giai đoạn cách mạng sôi động 1958-1975. Từ đó, đưa ra một số nhận xét về mô hình HTX và cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Thái Bình giai đoạn này. Các nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về thời kỳ khôi phục, cải tạo, phát triển nông nghiệp miền Bắc (1954 – 1975), khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá những chủ trương, chỉ đạo về phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng, các tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết và có những đánh giá xác đáng. Dù vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào đi vào nghiên cứu, mô tả, tổng kết một cách hệ thống và toàn diện quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh, trong những năm 1961 – 1975, trên cả ba vấn đề: hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở VC-KT trong nông nghiệp. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên đã cung cấp kiến thức khái quát về sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng ở miền Bắc, trong những năm 1954 – 1975. Đó là cơ sở hết sức quan trọng giúp tôi hoàn thành luận văn này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ chủ trương, biện pháp tiến hành trong phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ; đánh giá những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, ý nghĩa lịch sử của quá trình Đảng bộ lãnh đạo phát tirển kinh tế nông nghiệp. Trên cơ sở đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn để Đảng bộ tỉnh Thái Bình đề ra chủ trương, đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1961 đến năm 1975. 6 - Trình bày hệ thống diễn biến lịch sử sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về phát triển kinh tế nông nghiệp, trong thời gian trên. - Đánh giá những thành tựu, hạn chế của quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, từ đó phân tích, luận giải làm rõ ý nghĩa lịch sử và rút ra một số bài học kinh nghiệm. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu những chủ trương, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Thái Bình nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1961 đến năm 1975. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung: chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về phát triển kinh tế nông nghiệp. - Thời gian: Từ năm 1961 đến năm 1975 - Không gian: tỉnh Thái Bình 5. Nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn sử liệu - Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế nông nghiệp trong những năm 1961 – 1975. - Các sách chuyên khảo của các tác giả về kinh tế nông nghiệp miền Bắc, trong những năm 1961 – 1975. - Các Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định, Kế hoạch, Báo cáo về phát triển kinh tế nông nghiệp, trong những năm 1961 – 1975, được lưu trữ tại Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Bình; các báo cáo của Ủy ban nhân dân, Ủy ban kiểm tra, Sở nông nghiệp, Chi cục Thống kê Thái Bình về vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp, trong những năm 1961 – 1975. Đây là nguồn sử liệu quan trọng nhất giúp tôi hoàn thành luận văn này. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Trên cơ sở phương pháp luận sử học mác – xít, phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và sự 7 kết hợp hai phương pháp đó để làm rõ qúa trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp. - Luận văn có sử dụng phương pháp thống kê, so sánh để trình bày kết quả nghiên cứu, phân tích, t . 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965) Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1965 đến năm 1975 Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm 8 Chương 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRONG KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 – 1965) 1.1. Những yếu tố có ảnh hưởng đến kinh tế nông nghiệp của tỉnh và chủ trương của Đảng bộ 1.1.1. Tình hình kinh tế nông nghiệp của tỉnh trước năm 1961 và chủ trương của Đảng 1.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên và KT -XH Thái Bình là một tỉnh thuộc Đồng bằng Bắc Bộ, được bao bọc chung quanh bởi sông Hồng, sông Hoá, sông Luộc và biển Đông. Diện tích rộng 1.347 km2, đất nông nghiệp có 107.930 ha, trong đó có 98.406 ha canh tác, chiếm 91,1% so với đất nông nghiệp của tỉnh và chiếm khoảng 5% đất nông nghiệp của miền Bắc [159, tr.2]. Đất đai Thái Bình phì nhiêu, màu mỡ, tươi tốt do được bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Ngoài diện tích cấy lúa, đất đai Thái Bình thích hợp cho phát triển các loại cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả nhiệt đới, hoa, cây cảnh... Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23 - 240C. Lượng mưa trung bình 1.400 mm - 1.800 mm. Độ ẩm trung bình vào khoảng 85 - 90% [159, tr .3]. Tiềm năng về nguồn thủy sản là một trong những thế mạnh của tỉnh Thái Bình. Thái Bình có 3 thủy vực khác nhau: vùng nước mặn, vùng nước lợ, vùng nước ngọt, với nhiều khả năng khai thác và nuôi trồng thủy sản. Các triền cỏ ven đê, ven sông và hệ thống kênh mương ao hồ rộng khắp là điều kiện để phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, vịt, cá... Dân cư đông đúc, với trên một triệu hai mươi vạn người [159, tr. 2]. Nguồn nhân lực dồi dào, với kinh nghiệm thâm canh lâu đời. 9 Bên cạnh những thuận lợi căn bản trên, việc phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh cũng có khó khăn, phức tạp nhất định. Vì bốn bề sông biển bao quanh, giữa lại có sông Trà Lý chạy qua chia tỉnh làm hai miền Nam Bắc, nên có gần 500 km đê điều và nhiều kè, cống, bão gió, lũ lụt thường xuyên đe dọa mùa màng. Sông ngòi tuy nhiều, nhưng quanh co, khúc khuỷu và bị bồi lắng. Mặt khác, việc tiêu nước, tưới nước chịu ảnh hưởng của nước thuỷ triều lên, xuống từng mùa. Lượng mưa giữa các mùa trong năm chênh lệch nhau khá lớn. Trong một năm, thời kỳ mưa ít từ tháng 11 đến tháng 4 với lượng mưa trung bình chỉ chiếm từ 1/5 đến 1/6 cả năm; tháng 7, 8, 9 thường mưa lớn, có những trận mưa trong một vài ngày tới 300 - 400 mm [159, tr. 3]. Thời gian mưa nhiều và có lượng mưa lớn lại là thời gian nước thượng nguồn to đổ về, hoặc gặp bão, nước biển dâng cao, gây khó khăn cho việc tiêu nước. Sâu bệnh cũng thường phát sinh, phát triển quanh năm, phá hoại mùa màng. Diện tích đất chua mặn khá lớn, nhất là hai huyện ven biển Thái Thụy và Tiền Hải. Có nhiều cánh đồng trước kia là những bãi sú, vẹt, với tầng đất màu mỏng, khi nắng nhiều chua mặn bốc lên gây khó khăn cho canh tác. Sản xuất nông nghiệp của tỉnh độc canh khá nặng nề. Do đất chật, người đông nên không có bãi chăn nuôi trâu bò sinh sản, sức kéo quá thiếu, chăn nuôi gia súc gia cầm khó phát triển. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thái Bình nhận thức rõ những đặc điểm của tỉnh mình, chủ động tìm ra những giải pháp tận dụng lợi thế để phát triển KTXH nói chung và phát triển kinh tế nông nghiệp nói riêng. 1.1.1.2. Tình hình kinh tế nông nghiệp tỉnh Thái Bình trước năm 1961 và những yêu cầu đặt ra trong tình hình mới Về phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, cuối năm 1958, tỉnh có 60% hộ nông dân tham gia đổi công, trong đó 24% là thường xuyên và 12% có bình 10 công chấm điểm. Về HTX, tỉnh có 220 cơ sở với 5.767 hộ xã viên chiếm 2% tổng số hộ nông dân lao động [4, tr. 2]. Cuối năm 1959, tỉnh đã có: 2.605 HTX gồm 111.734 hộ xã viên (chiếm 48,62% tổng số hộ nông dân trong tỉnh), trong đó có 15 HTX cấp cao gồm 1.844 hộ (tỷ lệ 0,81%). Đến năm 1960, toàn tỉnh có: 3.063 HTX gồm 196.540 hộ xã viên (chiếm 48,70%), trong đó HTX cấp cao có 235 so với 29.631 hộ 12,9% so với toàn thể nông dân (bằng 15,3% so với số hộ đã vào HTX). Ở vùng thiên chúa giáo số hộ giáo dân tham gia HTX có 2.282 hộ (chiếm 23,8%) số hộ giáo dân [4, tr. 2]. Đến hết năm 1960, toàn tỉnh gồm 292 xã, trong đó có 233 xã căn bản hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp, trong đó 82 xã tỷ lệ nông hộ hợp tác hoá đạt trên 90%, 10 xã đã căn bản hoàn thành cấp cao. Quy mô của HTX cấp thấp bình quân năm 1959 là 42 hộ đến năm 1960 lên 59 hộ và HTX cấp cao là 126 hộ. Vùng biển, tỉnh có 7 HTX cá cao cấp với 603 hộ tỷ lệ 71% số hộ ngư dân. 5 HTX muối với 444 hộ chiếm 97,7% số hộ diêm dân (không kể những hộ nghề cá, nghề muối vào HTX hỗn hợp). Qua đợt kiểm tra phân loại về cấp thấp, tỷ lệ HTX tốt chiếm 32,3%, trung bình 49% và kém là 12,5%. Phân loại cấp cao tỷ lệ khá chiếm 51,5%, trung bình 38,5% và kém có 10%. Đến cuối năm 1960, các HTX đều thực hiện khoán việc và 52% đã tiến hành 3 khoán [4, tr. 3]. Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp trong những năm 1958 – 1960, không những phát triển về số lượng mà chất lượng cũng có những chuyển biến nhất định: từ tổ đổi công lên HTX, từ quy mô nhỏ lên lớn, từ HTX cấp thấp lên cấp cao, mỗi một bước tiến về hình thức cũng đồng thời là một bước tiến trong nội dung của phong trào. Về năng suất, HTX cao hơn tổ đổi công, HTX cấp cao cao hơn HTX cấp thấp. Lao động trong các HTX quy mô càng rộng càng được hợp lý hoá, thu nhập của xã viên cũng tăng lên, không những vì HTX đã có điều kiện mạnh dạn áp dụng kỹ thuật cải tiến, nông cụ cải tiến, 11 mà còn kinh doanh nhiều nghề phụ, triệt để sử dụng sức lao động đấu tranh với thiên nhiên. Phong trào hợp tác hóa của tỉnh trong những năm 1958 – 1960, nói chung phát triển mạnh, nhưng cũng còn một số nơi tỷ lệ nông dân hợp tác hoá còn thấp, toàn tỉnh còn 6 xã dưới 50%, còn 152 xóm chưa có HTX và hiện tượng xin ra vẫn còn lẻ tẻ ở một số nơi, quy mô HTX còn nhiều cơ sở quá nhỏ, tỷ lệ HTX dưới 30 hộ còn 13,9%, không đủ khả năng chống thiên tai, hạn chế điều kiện cải tiến kỹ thuật, cải tiến nông cụ [4, tr. 4]. Về phát triển công nghiệp: Tình hình sản xuất công nghiệp năm 1959 tăng gấp đôi so với 1958. Sang năm 1960, công nghiệp địa phương đã bước đầu được xây dựng và mở rộng cơ sở sản xuất để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ bản. Tổng giá trị hàng công nghiệp so với thủ công nghiệp đã tăng lên 46,9% [4, tr. 10]. Công nghiệp địa phương, ngoài những nhà máy hiện đại như máy xay, máy nước, máy điện, tỉnh còn xây dựng một xưởng cơ khí cơ giới phục vụ những nhu cầu chủ yếu của địa phương, về hàng hoá và TLSX. Cho nên, tuy công nghiệp địa phương mới được xây dựng và phát triển còn chậm, nhưng mạng lưới tương đối rộng, bước đầu đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, cung cấp được một phần vật liệu cho xây dựng cơ bản và hàng tiêu dùng của nhân dân; đồng thời giải quyết cho một số lao động có công ăn việc làm, tăng thu nhập quốc dân. Về giao thông vận tải: Mặc dù gặp nhiều khó khăn về mặt kỹ thuật, phương tiện, máy móc, thiết bị và nguyên, vật liệu, nhưng nhờ sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng bộ tỉnh, cán bộ, công nhân đã nâng cao tinh thần thi đua phát huy sáng kiến, giảm sức lao động, tăng tốc độ vận chuyển và thi công, nên việc thực hiện kế hoạch trong 2 năm 1959, 1960 đã tiến mạnh. Năm 1959, hoàn thành 100% kế hoạch và năm 1960, hoàn thành toàn bộ kế hoạch trước thời hạn 4 tháng [4, tr. 14]. Về kiến thiết cơ bản, tỉnh đã sửa chữa những 12 đường lớn rải đá trên 20 km đường, rải nhựa 3.422 m2, làm 8 cầu mới dài 156 m, đắp gần 2 triệu m3 đất trên 428 km đường đất, sửa chữa 22 cầu cũ và tiến hành giao khoán dưỡng lộ trên 52 km đường… Sự lãnh đạo công tác giao thông vận tải trong những năm 1958 - 1960 được chú ý, đã đặt trọng tâm giải quyết tốt những công trình lớn, công tác chính trị đối với cán bộ và công nhân được chú trọng, đồng thời biết dựa vào quần chúng hoàn thành tốt kế hoạch [4, tr. 14]. Về lúa: Trong những năm 1958 - 1960, công tác sản xuất lúa được coi là công tác trung tâm, được các cấp uỷ tập trung lãnh đạo. Năm 1959, tổng sản lượng cả năm đạt 466.418 tấn - là sản lượng cao nhất từ năm 1959 về trước, dẫn đầu toàn miền Bắc về năng suất lúa. Bình quân lương thực theo đ ầu người là 425 kg, riêng thóc là 405,7 kg (miền Bắc là 326 kg/người). Năm 1960, do bị thiên tai nặng, vụ chiêm nắng hạn kéo dài, vụ mùa khi cày bừa thì thiếu nước, đến lúc cấy lại bị mưa ngập, sâu bệnh phá hoại nghiêm trọng, thêm vào đó là một số khó khăn về khách quan và chủ quan, nên năng suất lúa bình quân cả năm 1960 chỉ đạt 38,58 tạ/ha; bình quân lương thực theo đầu người là 297,1 kg, riêng thóc là 283,2 kg (miền Bắc là 277 kg/người) [160, tr. 151]. Về hoa màu: Những năm 1958 – 1960, cùng với việc đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất lúa, Đảng bộ và nhân dân Thái Bình quan tâm đến việc phát triển các loại hoa màu. Nhiều loại hoa màu như ngô, khoai, đậu… đều tăng qua các năm. Năm 1958, hoa màu quy ra thóc đạt 13.681 tấn, chiểm tỷ trọng 3,3%; năm 1959, đạt 22.020 tấn (chiếm 4,3%); năm 1960, đạt 16.378 tấn (chiếm 4,6%) [160, tr. 148]. Về cây công nghiệp: Thực hiện chủ trương đưa nông nghiệp phát triển toàn diện, từng bước có kế hoạch và cân đối, Tỉnh ủy đã chỉ đạo việc phân vùng trồng các cây công nghiệp phù hợp với đất đai, điều kiện canh tác và kinh nghiệm lâu đời của nhân dân từng địa phương. Trong những năm 1958 – 1960, tỉnh đã phân vùng trồng mía ở huyện Hưng Nhân, trồng bông ở Quỳnh Côi, trồng dâu tằm ở 13 Thái Ninh, trồng thuốc lào ở huyện Thụy Anh… Năm 1958 toàn tỉnh đạt tỷ trọng cây công nghiệp là 2,2%, đến năm 1960 lên 2,6% [160, tr. 150]. Về chăn nuôi: Cùng với việc không ngừng tăng nhanh sản lượng lúa, hoa màu và cây công nghiệp, việc chăn nuôi trong tỉnh cũng không ngừng được đẩy mạnh. Đặc biệt là đàn trâu, bò và lợn phát triển nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống. Năm 1959, trâu, bò cày có 50.546 con, đàn lợn có 263.323 con. Năm 1960, do thiên tai và dịch bệnh, đàn trâu bò có 49.003 con, đàn lợn có 222.323 con [160, tr. 150]. Về thả cá: Bước sang năm 1960, có nhiều HTX đã có kế hoạch nuôi cá trứng và thả cá, nhưng một phần cũng do khó khăn về tài chính, một phần mưa lụt, cá thả bị mất nhiều, nên đến hết năm 1960, công tác thả cá chưa được phát triển đúng mức. Bên cạnh thành tựu đã đạt được, sản xuất nông nghiệp của tỉnh trong những năm 1958 – 1960, còn có những hạn chế cơ bản như: Tồn tại hiện tượng gò ép, mệnh lệnh, kết nạp thiếu thận trọng trong phong trào hợp tác hóa; công tác quản lý còn có nhiều lúng túng, non kém; ý thức giác ngộ XHCN của xã viên còn thấp; trình độ của cán bộ quản lý HTX còn non yếu, quy mô HTX còn nhỏ bé, khó khăn cho việc phát triển sản xuất. Trình độ sản xuất và trình độ kỹ thuật còn lạc hậu, sản xuất nông nghiệp của tỉnh còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, thường xuyên bị nắng hạn, mưa bão, lụt uy hiếp… Công cụ sản xuất thô sơ, sức kéo thiếu nhiều, việc cải tiến kỹ thuật còn kém, nên sản xuất chưa được phát triển mạnh. Với mật độ dân số đông, bình quân ruộng đất ít, việc làm luân canh, tăng vụ còn kém; chăn nuôi, thả cá… phát triển chưa đúng mức. Năng suất lao động trong nông nghiệp không cao, thu nhập của nông dân thấp, đời sống vẫn còn khó khăn, thiếu thốn. Vấn đề lương thực chưa được giải quyết vững chắc, chỉ một vụ mất mùa là đời sống nhân dân trong tỉnh lâm vào khó khăn, túng đói. 14 Về mặt lãnh đạo, Đảng bộ Thái Bình còn nhiều khuyết điểm: Chủ quan trong khi nhận thức vấn đề lương thực; tỉnh đã đánh giá quá cao việc sản xuất và quá thấp sức tiêu thụ của quần chúng. Trong chỉ đạo sản xuất tỉnh mới chú trọng đến lúa mà chưa phát triển được hoa màu. Ngay trong sản xuất lúa, tỉnh cũng chưa chú ý cấy tăng vụ để tích cực lãnh đạo nhân dân thực hiện. Chỉ đạo cải tiến kỹ thuật, cải tiến nông cụ còn hiện tượng bảo thủ, rụt rè, do đó chưa tận dụng và phát huy được hết tính tích cực và khả năng sáng tạo của quần chúng. Chỉ đạo điển hình tuy có đề ra song chưa chú ý đầy đủ và liên tục, chưa phát huy được kinh nghiệm trọng điểm để chỉ đạo chung, chưa khuyến khích được quần chúng dám nghĩ, dám làm, áp dụng và có sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Từ thực tế trên, để đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng toàn diện, góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, trong những năm tiếp theo tỉnh Thái Bình cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề sau: Về xây dựng và phát triển HTX nông nghiệp: Muốn đưa phong trào vững bước tiến lên mạnh mẽ, về mặt tư tưởng, tỉnh không những phải thường xuyên tăng cường giáo dục quần chúng, mà còn phải tiếp tục bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý tốt các mặt; vế sản xuất, tỉnh phải có kế hoạch đẩy mạnh không ngừng. Về phát triển nông nghiệp: Phải theo hướng toàn diện, có cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý, trọng tâm là phát triển sản xuất lương thực; đánh giá cân đối giữa việc sản xuất và sức tiêu thụ của quần chúng; cần chú trọng phát triển cả lúa và hoa màu; trong sản xuất lúa, tăng vụ. Về xây dựng cơ sở VC – KT nông nghiệp: Xây dựng, phát triển có hiệu quả hệ thống thủy lợi và các trạm cơ khí nhỏ phục vụ sản xuất nông nghiệp, từng bước cơ giới hóa nông nghiệp; củng cố vững chắc hệ thống đê điều; đẩy 15 mạnh nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học nông nghiệp vào sản xuất, nhất là về giống, phân bón, thuốc trừ sâu… Về đào tạo và bồi dưỡng trình độ chuyên môn quản lý kinh tế: Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác KH-KT nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp. Vấn đề nâng cao kiến thức văn hóa và trình độ chuyên môn về quản lý kinh tế là yêu cầu cấp thiết với những mô hình đào tạo, bồi dưỡng thích hợp, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục trong đội ngũ cán bộ HTX và xã viên: về quyền hạn, nhiệm vụ của HTX và xã viên; chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và phát triển sản xuất nông nghiệp, về tình hình cách mạng trong nước và thế giới; về âm mưu, hành động của đế quốc Mỹ, tay sai chống phá cách mạng… Đẩy mạnh khai hoang, mở rộng diện tích gieo trồng, đồng thời đẩy mạnh sản xuất các ngành nghề phụ, nâng cao đời sống của nhân dân để đáp ứng kịp thời nhu cầu của nhân dân khi dân số tỉnh tăng nhanh, yêu cầu về phát triển sản xuất công nghiệp và chi viện cho chiến trường; đồng thời vừa tận dụng được lao động lúc nông nhàn, tăng thu nhập cho nông dân. Đẩy mạnh hoạt động thương nghiệp, phát triển giao thông vận tải làm đòn bẩy thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp… Tóm lại: Việc phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện, , vững chắc ở tỉnh Thái Bình là yêu cầu khách quan của tình hình KT – XH của tỉnh, là phù hợp với đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quá trình đó không phải đến năm 1961 mới bắt đầu mà là tiếp tục các chủ trương của Đảng và của Đảng bộ tỉnh Thái Bình. Trong hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới hết sức nặng nề, quá trình đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thái Bình phát huy trí tuệ và tinh thần sáng tạo để khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương, phát triển kinh tế nông nghiệp phù hợp và hiệu quả hơn. 16 1.1.1.3. Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp miền Bắc (1961 – 1965) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960) khẳng định: “Muốn đưa miền Bắc tiến lên CNXH, chúng ta phải đi từ nông nghiệp, phải dựa vào lực lượng của nông dân lao động và phát huy tính tích cực của họ. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi xây dựng một bước cơ sở vật chất – kĩ thuật cho một nền công nghiệp hiện đại XNCH, trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phải tiếp tục đẩy mạnh cải tạo và phát triển nông nghiệp. Cần ra sức hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển nông trường quốc doanh, tạo cơ sở thuận lợi để phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc” [166, tr. 860]. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm của sản xuất nông nghiệp là giải quyết tốt vấn đề lương thực, đồng thời ra sức phát triển cây công nghiệp, chăn nuôi, ngư nghiệp, lâm nghiệp, nhằm đảm bảo nhu cầu về đời sống vật chất của nhân dân, sức kéo và phân bón cho nông nghiệp, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của BCHTW Đảng (7 - 1961) nhấn mạnh vấn đề quan trọng hàng đầu của nhiệm vụ, phương hướng chung phát triển nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là: “Tích cực củng cố, phát triển hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh làm cơ sở vững chắc để phát triển nông nghiệp” [167, tr. 421]. Về nhiệm vụ củng cố, phát triển HTX nông nghiệp, cần ra sức tăng cường lực lượng HTX về các mặt kinh tế, tổ chức và tư tưởng, đồng thời hoàn thành việc cải tạo, nhằm phát huy tính hơn hẳn và tăng thu nhập của HTX, cải thiện đời sống xã viên. Phát huy dân chủ trong nội bộ HTX, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích HTX, lợi ích xã viên, lợi ích của toàn dân, xây dựng HTX theo tiêu chuẩn bốn tốt. Tháng 2 năm 1963, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Về cải tiến quản lý HTX nông nghiệp, Nghị quyết 17 nhấn mạnh các vấn đề: Cải tiến quản lý sản xất, cải tiến quản lý lao động, cải tiến quản lý tài vụ, xây dựng cơ sở VC-KT của HTX. Đồng thời, Nghị quyết Bộ Chính trị chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của chi bộ Đảng đối với HTX, thực hiện đầy đủ nguyên tắc quản lý dân chủ, định chế độ sinh hoạt của HTX, tăng cường công tác kiểm tra, chống mệnh lệnh, độc đoán. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ, cán bộ kỹ thuật cho HTX. Đưa một số cán bộ cấp trên về giúp các HTX một cách lâu dài. Chủ trương của Đảng về củng cố, phát triển HTX nông nghiệp giai đoạn 1961 – 1965, trong điều kiện Đảng lãnh đạo tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng trên phạm vi cả nước là từng bước xác định mô hình HTX nông nghiệp và nông trường quốc doanh ở miền Bắc. Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng (7 - 1961) đã ra Nghị quyết về vấn đề phát triển nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965). Nghị quyết xác định phải kết hợp việc hoàn thiện QHSX mới với việc phát triển sức sản xuất, xây dựng cơ sở VC – KT cho nông nghiệp; kết hợp chặt chẽ việc phát triển hợp tác hóa với thủy lợi hóa dần dần, cải tiến công cụ, cải tiến kĩ thuật, tiến tới một bước cơ giới hóa, nhằm hướng mở rộng diên tích bằng tăng vụ, khai hoang, đồng thời ra sức: “Thực hiện thâm canh tăng năng suất, theo phương châm toàn diên, mạnh mẽ và vững chắc, giải quyết tốt vấn đề lương thực là trọng tâm, đồng thời hết sức coi trọng cây công nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi, mở mang thêm nghề rừng, nghề cá, nghề phụ; sử dụng tốt sức lao động tập thể là chính, đồng thời tận dụng sức lao động của gia đình của xã viên” [167, tr. 422] Phương hướng phát triển chung: Đưa nông nghiệp có tính chất hầu như độc canh trở thành một nền nông nghiệp có nhiều ngành, nghề, nhiều sản phẩm hàng hóa; lương thực từ chỗ thường bị thiếu lúc giáp hạt, đến có dự trữ khá; thực phẩm từ thiếu, tiến đến có dự trữ một phần; cây công nghiệp từ chỗ thiếu, tiến đến chỗ đủ cung cấp trong nước và xuất khẩu được nhiều hơn. Phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng, đồng thời phải phát triển một 18 bước ở miền núi, phát triển toàn diện các ngành vốn có trong nông nghiệp là chủ yếu, đi đôi với phát triển thêm nghề thủ công, xây dựng một số cơ sở công nghiệp địa phương cần thiết và có thể xây dựng [167, tr. 423]. Để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp CNH, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám BCHTW Đảng (4 – 1963) kiến nghị cần bổ sung vào phương hướng chung phát triển kinh tế nông nghiệp miền Bắc “Phải ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, làm cơ sở thuận lợi hơn cho việc phát triển công nghiệp”. Đồng thời yêu cầu các cấp, các ngành phải thấu suốt hơn nữa phương châm phát triển nông nghiệp, tập trung sức phấn đầu làm cho sản xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực chuyển biến tốt hơn, nâng cao năng suất lao động, tăng thêm khối lượng nông sản tiêu dùng ở nông thôn và hàng hóa nông sản phục vụ cho công nghiệp, cho xuất khẩu. Chủ trương của Đảng về phát triển sản xuất nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là bước tiến lớn về phá vỡ thế độc canh, đưa sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, trên cơ sở HTX và nông trường, lâm trường quốc doanh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần xây dựng miền Bắc XHCN vững mạnh. Trước yêu cầu của phong trào hợp tác hóa, đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III, phương hướng xây dựng cơ sở VC- KT nông nghiệp, trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng (7 – 1961) chỉ rõ: Về thủy lợi: Là biện pháp quan trọng hàng đầu trong phát triển nông nghiệp với phương hướng chủ yếu “Thực hiện công tác thủy lợi nhanh và mạnh gắn liền với phát triển hợp tác hóa. Phương châm của công tác thủy lợi là kết hợp giữ nước với dẫn nước và tháo nước, kết hợp những công trình hạng nhỏ do nhân dân làm với những công trình hạng vừa, hạng lớn do Nhà nước làm hoặc do Nhà nước, nhân dân cùng làm. Về công cụ, sức kéo: Chú trọng giải quyết sức kéo, khắc phục tình trạng lạc hậu, thiếu thốn về công cụ, nâng cao năng suất lao động, bảo đảm 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan