Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm ...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010

.PDF
141
386
91

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------- NGUYỄN NGỌC HẢI ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Hà Nội, 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------- NGUYỄN NGỌC HẢI ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010 Chuyên ngành: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Mã số: 602256 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN KIM ĐỈNH Hà Nội, 2012 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG SAU KHI TÁI LẬP TỈNH (1997 – 2001) .............................................. 14 1.1. Giáo dục phổ thông của tỉnh Nam Định trước năm 1997 .................................. 14 1.1.1. Đặc điểm tình hình ................................................................................14 1.1.2. Giáo dục phổ thông tỉnh Nam Định trước năm 1997 .............................19 1.2. Giáo dục phổ thông tỉnh Nam Định từ năm 1997 đến năm 2001....................... 26 1.2.1. Đảng bộ tỉnh Nam Định vận dụng chủ trương của Đảng lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông .................................................................................26 1.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ...................................................................37 Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 ....................................... 51 2.1. Từ năm 2001 đến năm 2005 ................................................................................ 51 2.1.1. Nam Định vận dụng chủ trương của Đảng về phát triển giáo dục phổ thông ........................................................................................................51 2.1.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ...................................................................59 2.2. Giáo dục phổ thông của tỉnh Nam Định từ năm 2006 đến năm 2010 ................ 73 2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh ................................................................73 2.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ...................................................................79 Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................................................... 91 3.1. Nhận xét chung .................................................................................................... 91 3.1.1. Thành tựu..............................................................................................91 3.1.2. Hạn chế ............................................................................................... 101 3.2. Một số kinh nghiệm ........................................................................................... 105 KẾT LUẬN ................................................................................................................... 116 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 119 PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 129 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Số lượng học sinh phổ thông toàn tỉnh (1996 – 2000). Bảng 1.2: Kết quả thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế, khu vực các bộ môn văn hóa khối trung học phổ thông (1995 – 2000). Bảng 2.1: Số lượng học sinh phổ thông của tỉnh (2000 - 2006). Bảng 2.2: Kết quả xếp loại hạnh kiểm của học sinh tiểu học năm học 2005 2006. Bảng 2.3: Tỷ lệ giáo viên phổ thông đạt chuẩn (2003 - 2006) Bảng 2.4: Kết quả xây dựng cơ sở vật chất giáo dục phổ thông (2000 – 2005) Bảng 2.5: Kết quả xếp loại học lực khối trung học (2006 - 2010) Bảng 2.6: Trình độ đào tạo của giáo viên phổ thông (2007 – 2008) MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử Việt Nam từ xa xưa đã chứng minh rằng: dân tộc Việt Nam là một dân tộc hiếu học, thông minh, nhạy cảm với cái mới bất kể từ đâu đến và biến nó thành của mình, phù hợp với mình. Nhân tố này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình phát triển của lịch sử đất nước nói chung và lịch sử giáo dục Việt Nam nói riêng. Từ sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã được Đảng và Chính phủ đặc biệt quan tâm. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 03/9/1945, bàn về những nhiệm vụ cấp bách, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ “chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm”. Nhân dịp khai giảng năm học đầu tiên của chế độ mới, tháng 9/1945, trong bức thư gửi cho học sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Trong hoàn cảnh miền Bắc vừa xây dựng, vừa chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư gửi cán bộ, giáo viên, công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp năm học 1968, Người khẳng định: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt và học tốt”. Trong tình hình hiện nay, cả nước đang phấn đấu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì vấn đề giáo dục và đào tạo càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Xu hướng chung của kinh tế thế giới là toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đa phương và đa dạng với những tác động rất nhiều mặt, thì chúng ta lại càng phải coi trọng sự nghiệp giáo dục để giữ vững độc lập tự chủ, phát huy nội lực, vững vàng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là diệu kế để tránh nguy cơ bất cứ từ đâu đến, xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng con người, xây dựng cộng đồng dân tộc. Trong chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo của Đảng, giáo dục phổ thông (GDPT) là một bộ phận trọng yếu, cơ bản của nền giáo dục quốc dân, bao gồm: giáo dục tiểu học và giáo dục trung học; ở bậc trung học có hai cấp trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT). “Ở đây có sự gặp nhau hài hòa giữa 3 nhân tố: giáo dục phổ thông, tuổi trẻ và triển vọng nghề nghiệp. Đó là quá trình chuẩn bị vào đời của mọi người”. Nền giáo dục cách mạng tỉnh Nam Định kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã trải qua chặng đường gần 70 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, vượt lên rất nhiều khó khăn, thử thách và đạt được nhiều thành tích. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, tỉnh Nam Hà được chia tách thành 2 tỉnh Nam Định và Hà Nam vào giữa năm học 1996 – 1997. Vì vậy, ngành Giáo dục và Đào tạo Nam Hà cũng chia tách thành hai ngành giáo dục – đào tạo Nam Định và Hà Nam, bắt đầu làm việc theo đơn vị hành chính mới từ ngày 01/01/1997. Phát huy truyền thống “Đất học”, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định, giáo dục phổ thông của tỉnh đã đạt được những thành tựu to lớn, rất đáng khích lệ, có ý nghĩa vô cùng to lớn với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, giáo dục phổ thông tỉnh Nam Định cũng còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém và vướng mắc cần tháo gỡ. Là một người con được sinh ra và lớn lên ở cái nôi của nền giáo dục phổ thông Nam Định giàu truyền thống, xuất phát từ lòng yêu mến, tự hào và biết ơn đối với mảnh đất hiếu học, với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định với sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010, nhằm mục đích tổng kết một chặng đường phát triển giáo dục phổ thông của một tỉnh giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, góp phần làm rõ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trên mặt trận văn hóa – giáo dục; đồng thời qua đó làm sáng tỏ hơn những thành tựu, hạn chế của ngành giáo dục phổ thông Nam Định và rút ra một số bài học kinh nghiệm, đề xuất một số ý kiến góp phần vào sự phát triển giáo dục phổ thông của tỉnh trong giai đoạn mới, tôi đã chọn và giải quyết Đề tài: “Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010” làm Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề - Nhóm thứ nhất: Một số công trình nghiên cứu chuyên khảo viết về giáo dục – đào tạo đã xuất bản như: “Những bài nói và viết về giáo dục” của Nguyễn Văn Huyên (Nxb Giáo dục Hà Nội, xuất bản năm 1990), “Sơ thảo lịch sử giáo dục Việt Nam” của Phạm Minh Hạc (Nxb Giáo dục Hà Nội, xuất bản năm 1992), “35 năm phát triển giáo dục phổ thông” của Vũ Thuần Nho (Nxb Giáo dục Hà Nội, 1990), “45 năm phát triển giáo dục Việt Nam” của Phạm Minh Hạc (Nxb Giáo dục Hà Nội, 1990), “Giáo dục quốc sách hàng đầu tương lai của dân tộc” của Phạm Văn Đồng (xuất bản năm 1999), “Về phát triển toàn diện con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Phạm Minh Hạc (xuất bản năm 2001), “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI” của Phạm Minh Hạc (Nxb Chính trị Quốc gia, 1999), “Giáo dục Việt Nam 1945 – 2005” của Nguyễn Quang Kính (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005)… Những tác phẩm này tổng kết quá trình phát triển, đặc điểm, nhiệm vụ và những phương hướng để phát triển nền giáo dục Việt Nam, trong đó có giáo dục phổ thông. - Nhóm thứ hai: Đối với giáo dục và đào tạo Nam Định, trong đó có giáo dục phổ thông đã có một số bài nghiên cứu, tác phẩm, tiêu biểu nhất là cuốn sách “Giáo dục – Đào tạo Nam Định thành tựu và đổi mới” của Nxb Thống kê (2004) giới thiệu toàn diện những thành tựu của giáo dục và đào tạo Nam Định từ sau cách mạng tháng Tám/1945 đến nay, “Mười thế kỷ giáo dục – đào tạo Việt Nam” (Nguyễn Minh San (Chủ biên), Nxb Dân trí, 2010) có giới thiệu về thành tựu của giáo dục và đào tạo tỉnh Nam Định, Phát huy truyền thống vẻ vang, Giáo dục – Đào tạo Nam Định vững bước đi lên, Báo Nam Định.... Bên cạnh đó, còn một số Luận văn, Khóa luận Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, như: Đảng bộ huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định lãnh đạo hoạt động giáo dục – đào tạo giai đoạn 1991 – 2001 (Khóa luận tốt nghiệp năm 2005) của Nguyễn Thị Hằng, Đảng bộ thành phố Nam Định với sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo của Vũ Xuân Đại, Đảng bộ huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định lãnh đạo phát triển giáo dục – đào tạo thời kỳ 1991 – 2001 của Vũ Thị Huệ, Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục – đào tạo từ năm 1997 đến năm 2006 (Luận văn Thạc sỹ - Trung tâm Đào tạo Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, 2011) của Vũ Thị Huệ… Đây thực sự là nguồn tài liệu quý giá để chúng tôi tham khảo. Tuy nhiên, nội dung mà các tác phẩm này đề cập đến còn mang tính chất khái quát đối với toàn bộ sự nghiệp giáo dục của tỉnh, hoặc mới chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp là một huyện, thành phố, chưa đi sâu vào nghiên cứu các chủ trương, đường lối của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong quá trình lãnh đạo hoạt động giáo dục đào tạo, đặc biệt trong khía cạnh cụ thể là giáo dục phổ thông. Đây cũng chính là vấn đề mà chúng tôi tập trung làm rõ trong Luận văn này. - Nhóm thứ ba: những khóa luận tốt nghiệp, luận văn của sinh viên, học viên chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu về sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo. Một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam viết về lĩnh vực này: Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục – đào tạo (Luận văn Thạc sĩ, 1998) của Lương Thị Hòe, Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông thời kỳ 1986 – 2003 (Luận văn Thạc sĩ năm 2005) của Vũ Thị Kim Yến, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1965 đến năm 1975 (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, năm 2009) của Phạm Thị Giang, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông trong những năm 1996 – 2006 (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, năm 2009) của Ngô Thị Thu Hà, Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông trong những năm 1996 – 2006 (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử năm 2009) của Nguyễn Thị Hồng Hạnh... Những luận văn này rất phong phú, đa dạng về nội dung và phạm vi nghiên cứu, đều nhằm tìm phương hướng cho sự phát triển giáo dục và đào tạo của từng địa phương cũng như cả nước, là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng của luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: - Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010. - Qua đó, nêu lên những thành tựu, hạn chế, một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn. Nhiệm vụ: - Trình bày, phân tích quá trình Đảng bộ tỉnh Nam Định vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010. - Đánh giá, nhận xét khách quan những thành tựu, hạn chế trong việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Nam Định từ năm 1997 đến năm 2010. - Rút ra những kinh nghiệm và đề xuất một số khuyến nghị trong việc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh để đẩy mạnh phát triển giáo dục phổ thông ở Nam Định hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu về nội dung của Luận văn là: sự lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông ở Nam Định từ năm 1997 đến năm 2010, chủ yếu thông qua các văn kiện của Đảng bộ và chính quyền tỉnh về giáo dục phổ thông trong giai đoạn này. Phạm vi nghiên cứu của đề tài về không gian và thời gian là: sự lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Nam Định trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2010. 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu chính Luận văn được tiến hành trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục – đào tạo. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chính trong Luận văn là phương pháp lịch sử, phương pháp logíc, và một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp… Nguồn tư liệu chủ yếu được sử dụng là: các văn kiện của Đảng; văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định, các nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh ủy Nam Định về phát triển giáo dục phổ thông; các văn bản tài liệu của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định, các báo cáo tổng kết năm học của các trường phổ thông, các huyện trong tỉnh; các sách tham khảo, tạp chí, khóa luận, luận văn có liên quan… 6. Đóng góp của Luận văn Hệ thống hóa lại quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Nam Định từ năm 1997 đến năm 2010. Nêu lên những nhận xét, đánh giá khách quan về giáo dục phổ thông tỉnh Nam Định những năm từ 1997 đến 2010. Luận văn được sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy. 7. Bố cục Luận văn bao gồm phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo và 3 chương: Chương 1: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông sau khi tái lập tỉnh (1997 – 2001) Chương 2: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2010 Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG SAU KHI TÁI LẬP TỈNH (1997 – 2001) 1.1. Giáo dục phổ thông của tỉnh Nam Định trước năm 1997 1.1.1. Đặc điểm tình hình Nam Định là tỉnh duyên hải phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, phía Đông Nam giáp biển Đông, phía Đông Bắc giáp tỉnh Thái Bình, phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp tỉnh Ninh Bình. Nam Định có diện tích tự nhiên là 1.671,5 km2, bằng 6,52 % diện tích toàn quốc. Toàn tỉnh hiện nay có 10 đơn vị hành chính bao gồm thành phố Nam Định và 9 huyện, tính từ bắc xuống nam là Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, với 225 xã, phường, thị trấn. Nam Định là vùng đất nằm giữa hạ lưu hai con sông lớn của đồng bằng Bắc Bộ là sông Hồng và sông Đáy. Nam Định có bờ biển dài 72 km, từ cửa Ba Lạt đến cửa Đáy. Đây là vùng biển có tiềm năng kinh tế, là một trong những cửa ngõ của quốc gia, một phên dậu của đất nước và là vị trí tiền tiêu, khu vực biên phòng bờ biển của địa phương. Không những bờ biển dài, tỉnh Nam Định còn có hệ thống giao thông đa dạng và thuận lợi: 6.898 km đường bộ, 417 km đường sông và biển, 42 km đường sắt chạy qua (từ ga Bình Lục về Nam Định qua Trình Xuyên, Gôi, Cát Đằng đi Ninh Bình), rất thuận tiện cho giao lưu và giao thương hai miền Nam - Bắc của đất nước và khu vực. Địa hình Nam Định chia thành hai vùng tự nhiên. Phía Bắc là vùng bị bào mòn, bồi tụ phù sa cổ, đất thấp, có những dải võng tạo thành địa hình ô trũng (Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc). Đất đai ở đây do bị ngập nước lâu ngày nên độ phì kém, độ PH cao, dần dần về sau được tiếp nhận phù sa của sông Hồng và sông Đáy nên màu đất thường nâu tươi, độ phì cao. Ở phía Nam tỉnh kiến tạo địa hình khác hẳn với phía Bắc, đất ở đây đều do phù sa sông Hồng và sông Đáy bồi đắp, hàng năm thường lấn ra biển hàng chục mét. Đất vùng này tương đối bằng phẳng, màu mỡ. Song, để có thể nuôi sống con người, người dân ở đây đã tiến hành các cuộc khai khẩn lấn biển qua nhiều thế hệ, đắp đê ngăn mặn, đào ngòi tiêu nước, thau chua rửa mặn, cải tạo đồng ruộng. “Làm như Nam Hạ bốc đất”, câu ngạn ngữ ấy đã khái quát được phần nào hình ảnh người dân nơi đây và tình hình khẩn hoang ở vùng biển Nam Định xa xưa. Cuộc chiến đấu chinh phục và chiến thắng thiên nhiên ở vùng đất này là bản anh hùng ca của nhiều thế hệ. Vùng đất này ngày càng mở rộng bao nhiêu thì càng thu hút người nơi khác đến sinh cơ lập nghiệp bấy nhiêu. Họ đã hình thành một cộng đồng đoàn kết, gắn bó keo sơn, hợp sức nhau giành giật với đất đai, trời biển, làm ra những sản phẩm để nuôi sống mình, để tồn tại và phát triển. Sự đoàn kết này còn làm phong phú thêm nét đẹp truyền thống văn hóa làng xã bình dị nhưng giàu tính nhân văn. Với những đặc điểm tự nhiên, lịch sử trên, vùng đất Nam Định thường xuyên chứa đựng cả những yếu tố thuận lợi và khó khăn. Đứng ở thế giao hòa giữa đất liền và biển cả, cư dân lại gồm những con người đi mở cõi, đã tạo ra khí phách riêng của người Nam Định - rất quả cảm, thông minh, hiếu học và ham học hỏi; cần cù và sáng tạo trong lao động; giàu nghị lực, giỏi nghề sông nước và thạo thủy chiến. Trong cuộc chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm kiên cường qua nghìn đời của cư dân đất Việt, người dân Nam Định đã góp phần vẻ vang tạo dựng nên nền văn minh sông Hồng rực rỡ. Không phải ngẫu nhiên mà phủ Thiên Trường là nơi phát tích của vương triều Trần tồn tại 175 năm oanh liệt, nơi sinh thành, nuôi dưỡng và tôi luyện của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, những tài danh lớn, những trạng nguyên xuất chúng như Khiếu Năng Tĩnh, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, nhà thơ Tú Xương… Đây cũng là vùng đất sinh ra những chiến sĩ cộng sản tiêu biểu của Đảng ta như Trường Chinh, Lê Đức Thọ… Nhân tố này đã tác động không nhỏ tới sự phát triển của giáo dục tỉnh Nam Định nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng. Từ xa xưa, người dân Nam Định đã rất hiếu học, coi trọng việc học hành, đầu tư thích đáng cho giáo dục và coi giáo dục là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Trong quá trình hình thành vùng đất này, người dân Nam Định thường xuyên phải vật lộn với thiên tai, biển dữ, từ bao đời nay nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ yếu ở Nam Định. Trên địa hình không bằng phẳng, nơi trũng quá, nơi vùng cao hạn hán kéo dài, nơi phù sa ngập mặn… người dân Nam Định bằng sức lao động cần cù, bền bỉ và sáng tạo đã ngăn đập, đắp đê, cải tạo đất canh tác phục vụ tích cực cho trồng trọt, nhất là cây lúa. Cho đến nay, Nam Định vẫn là vùng nông nghiệp đầy tiềm năng phát triển, là một trong những vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ. Nam Định có bờ biển dài hơn 70 km nên cư dân đã sớm khai thác lợi thế về hải sản biển, nghề làm muối và phát triển du lịch. Những cánh đồng muối ở Giao Thủy và Hải Hậu đã cung cấp hàng chục vạn tấn muối mỗi năm; nghề đánh bắt thủy hải sản thu hút hàng ngàn lao động, hằng năm cung cấp cho thị trường hàng ngàn tấn tôm cá. Ngoài ra, vùng ven biển có nhiều cánh rừng ngập mặn thu hút nhiều loài chim, tạo ra cảnh quan thiên nhiên vừa phong phú, vừa hấp dẫn, vừa đầy tiềm năng phát triển kinh tế. Bên cạnh nghề trồng trọt, chăn nuôi và khai thác hải sản biển, người dân Nam Định còn nổi tiếng với các nghề thủ công truyền thống. Vùng Mỹ Lộc xưa còn có nghề đóng thuyền, đánh bắt cá. Sau này, do nhu cầu, nghề đóng thuyền chuyên phục vụ cho công việc thông thương bằng đường thủy và còn phục vụ cho quân sự cũng như cho công việc đi lại của các vua Trần mỗi khi từ Thăng Long về Tức Mặc. Nhiều làng nghề đã ra đời từ thế kỷ thứ X như La Xuyên, Cát Đằng, Tống Xá (Ý Yên), Quần Phương (Hải Hậu), Phương Để (Trực Ninh), Vân Tràng (Nam Trực)… Do kinh tế phát triển, việc giao lưu hàng hóa ngày càng mở rộng, thành Nam xưa trở thành một thương cảng sầm uất, các thuyền bè từ Nam Ngãi, Thanh Nghệ ra, từ Móng Cái - Quảng Yên xuống và cả ngoại quốc thường xuyên lui tới qua đường biển vào cửa sông Đáy, sông Hồng tới sông Vị. Thế kỷ XIX, cảng Nam Định là một cảng vào loại lớn nhất Bắc Kỳ, khi mà Phố Hiến nằm sâu trong nội địa và cảng Hải Phòng chưa định hình. Người Nam Định rất coi trọng thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ, các anh hùng dân tộc, những người tài cao học rộng, những ông tổ nghề nghiệp, những vị thần có công với nước. Những ngày giỗ, lễ tết đều được tổ chức rất long trọng, trang nghiêm. Hai nơi có lễ hội lớn là đền Trần ở Tức Mặc, Bảo Lộc (Mỹ Phúc) thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn (tháng tám) và hội Phủ Giầy ở Kim Thái (Vụ Bản) thờ Mẫu Liễu Hạnh (tháng ba). Hầu như làng nào ở Nam Định cũng có ngôi đình, đền, miếu, phủ, từ đường để suy tôn, tưởng nhớ những người có nhiều công đức. Nhiều tôn giáo cũng phát triển ở Nam Định, sớm nhất là đạo Phật, đến đạo Thiên Chúa và Tin Lành. Nam Định từ xa xưa vẫn được coi là vùng đất văn hiến mặc dù không cổ kính lâu đời như các xứ Bắc, xứ Đông, xứ Đoài. Đặc biệt, nhà Trần là một hiện tượng độc đáo trong các triều đại phong kiến Việt Nam, ngoài những chiến công chống giặc ngoại xâm hiển hách, lừng lẫy trong lịch sử, thì các đời vua đều là nhà thơ, nhiều vị uyên thâm Phật học, tiêu biểu như Trần Nhân Tông. Thái sư Trần Thủ Độ tuy không được học hành nhiều, song khi nắm trọng trách điều hành đất nước luôn luôn là mẫu mực cho đạo đức “cần, kiệm liêm, chính, chí, công, vô, tư”. Các vị tướng lĩnh, công hầu trong ba lần chiến thắng quân Mông – Nguyên hầu hết là tôn thất nhà Trần, không những giỏi chinh chiến và còn là tác giả của những áng “thiên cổ hùng văn”, có võ tướng thông thạo âm luật, biết nhiều ngoại ngữ… Nam Định là vùng đất học, có trường thi lập ra từ thời Lê (kỳ thi đầu tiên vào năm 1441) đến năm 1845 được xây trên đất làng Năng Tĩnh. Sau khi lập vương triều, nhà Nguyễn đã tổ chức thi cử để chọn nhân tài bổ sung cho bộ máy cai trị. Nhà Nguyễn không lấy đỗ trạng nguyên, Nam Định có Trần Bích San (người thành phố Nam Định) đỗ Tam Nguyên (trong số ba người của cả nước). Đặc biệt, tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh (Ý Yên) được cử giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám (hiệu trưởng trường đại học duy nhất cả nước lúc bấy giờ). Nói đến vùng đất văn hiến không thể không nói đến số lượng người đỗ đạt. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong hơn 800 cử nghiệp Nam Định có 87 vị đại khoa, trong đó học vị trạng nguyên có 5 vị, bảng nhãn 3 vị, thám hoa 3 vị, hoàng giáp 14 vị, tiến sĩ và phó bảng 62 vị. Nhiều dòng họ, nhiều gia đình ở Nam Định có truyền thống hiếu học. Tiêu biểu như làng Cổ Lễ (Trực Ninh), làng Tam Đăng (Ý Yên),…, trong đó nổi trội nhất là làng văn hiến Hành Thiện. Thế kỷ thứ XIX, làng Hành Thiện có nhiều người đỗ đạt nhất nước, với 81 cử nhân và 145 tú tài, gấp đôi làng xếp thứ hai là làng Đông Ngạc (Hà Nội). Tính riêng các vị đại khoa, Hành Thiện còn hơn cả tổng số ở Nam Kỳ cộng lại (7/5 vị), trong đó có tiến sĩ Đặng Xuân Bảng (ông nội của cố Tổng Bí thư Trường Chinh) vừa là nhà khảo cứu uyên thâm, vừa là người có tư tưởng cách tân. Nền nông nghiệp mang nặng dấu ấn của vùng đồng bằng ven biển, cùng với truyền thống văn hiến lâu đời, đã tạo nên tính cách riêng của người dân Nam Định: chăm chỉ, cần cù, hiếu học và ham học hỏi, sáng tạo trong lao động, kiên cường bất khuất trong đấu tranh, có tinh thần tự lực, tự cường và ý thức cộng đồng sâu sắc, luôn kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông để bảo vệ và xây dựng quê hương, Tổ quốc. Đây là nhân tố quan trọng tác động không nhỏ đến giáo dục tỉnh Nam Định. 1.1.2. Giáo dục phổ thông tỉnh Nam Định trước năm 1997 Năm 1920, ở vùng phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, trường Pháp - Việt đầu tiên được thành lập là trường Thành Chung tại thành phố Nam Định, với mục đích đào tạo công chức phục vụ cho bộ máy thống trị. Trường Thành Chung Nam Định được thành lập bởi Nghị định số 2455 do Toàn quyền Đông Dương ký ngày 24/8/1920. Năm học đầu tiên có 45 học trò và thầy giáo đầu tiên là thầy Nguyễn Văn Hiếu. Cho tới năm 1933, ở Nam Định cứ 100 người mới có 1 người được đi học, hơn 90% dân số mù chữ. “Lúc đó có một nghìn năm trăm ty rượu và thuốc phiện cho một nghìn làng trong khi chỉ có một trường học cho bấy nhiêu làng” [2, tr. 54]. Sự thống trị của thực dân Pháp, đặc biệt là từ sau khai thác thuộc địa lần thứ nhất đã làm cho xã hội Việt Nam nói chung và xã hội Nam Định nói riêng nhanh chóng chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến với những biến động lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, phong trào học chữ quốc ngữ được dấy lên rộng khắp từ thành thị đến nông thôn. Các lớp học được mở ra ngay trong nhà dân, ở đình, đền, chùa. Với sự nỗ lực thi đua “người người đi học, nhà nhà đi học”, chỉ trong thời gian ngắn toàn tỉnh đã thanh toán mù chữ cho hàng chục vạn người. Đến cuối năm 1949, toàn tỉnh đã có 250.908 người thoát nạn mù chữ. Các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Hải Hậu đã thanh toán được 80% số người mù chữ [2, tr. 274]. Sự nghiệp giáo dục phổ thông cũng được Đảng bộ tỉnh hết sức quan tâm chỉ đạo xây dựng hệ thống giáo dục từ tỉnh đến xã. Mỗi xã hoặc liên xã đều lập trường cấp I và huyện nào cũng có từ một đến hai trường cấp II. Phong trào toàn dân đi học là một trong những nét tiêu biểu của một dân tộc đang vươn lên làm chủ đời mình. Ở một số nơi sát đồn bốt địch, có khó khăn, phức tạp hơn về mở trường lớp, nhưng chính quyền vẫn tìm mọi cách khắc phục để thực hiện chương trình học tập cho học sinh. Sau khai giảng năm học mới (9/1951), các trường phổ thông quốc lập đã có: 1 trường phổ thông cấp II (ở Ninh Cường) và 125 trường cấp I. Các trường dân lập và tư thục gồm có 2 trường cấp II và 213 trường cấp I. Các trường phổ thông có 712 giáo viên và 24.379 học sinh [2, tr. 349]. Trường cấp II Ninh Cường là trường phổ thông cấp II đầu tiên do tỉnh mở. Trường thu hút cả học sinh thành phố Nam Định về học. Nhiều thanh niên, học sinh trong vùng bị địch chiếm đã ra theo học ở khu căn cứ. Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, mặc dù còn nhiều khó khăn về đời sống, cơ sở trường lớp và đội ngũ giáo viên, nhưng Đảng bộ và nhân dân Nam Định vẫn quan tâm tới việc học tập của con em. Thời kỳ này, hệ thống giáo dục phổ thông phát triển đều ở các nơi. Trường công lập có ở hầu khắp các huyện và thành phố Nam Định. Riêng các huyện Hải Hậu, Trực Ninh, Vụ Bản, Ý Yên, Nam Trực, Xuân Trường có thêm trường cấp II dân lập, thành phố Nam Định có thêm 3 trường tư thục. Chất lượng học tập của học sinh thi cuối khóa năm học 1957 – 1958 đạt từ 85 – 90 %. Có 4.766 em được tuyển từ lớp 4 lên cấp II (đạt 87%), có 33 lớp số học sinh trúng tuyển vào cấp II đạt 100 % [2, tr. 421]. Nam Định là tỉnh có số lượng học sinh trúng tuyển vào cấp II cao nhất trong toàn Liên khu. Trong ba năm (1958 – 1960), toàn tỉnh đã căn bản xóa nạn mù chữ trong nhân dân (đạt 93,8%). Sau một năm hòa bình, từ năm học 1973 – 1974, phong trào thi đua dạy tốt học tốt được đặc biệt đẩy mạnh. Số học sinh sự kỳ thi cuối khóa ở các cấp tăng hơn các năm trước: 86.379 học sinh phổ thông và 5.063 học viên bổ túc văn hóa. Đến năm học 1974 – 1975, trường lớp sớm được ổn định, có 454.711 học sinh phổ thông, 61.314 học sinh vỡ lòng, 44.448 học sinh mẫu giáo đến trường và 18.085 thầy cô giáo, đưa tỷ lệ học sinh đến trường tăng lên 32,51 % dân số. Tuy nhiên, tình trạng thiếu bàn ghế, sách giáo khoa vẫn còn phổ biến, còn 13,3 % số em dưới 7 tuổi, 6,6 % số em dưới 8 tuổi và 2,5 % số em từ 9 – 10 tuổi chưa được tới trường [2, tr. 639]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Nam Định, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ oanh liệt, ngành giáo dục của tỉnh nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng đã ghi được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở và tiền đề để phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh trong những giai đoạn tiếp theo khi đất nước đã hòa bình và thống nhất. Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng trên mọi lĩnh vực, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước, của địa phương đạt được những thành tựu rất đáng phấn khởi, đời sống nhân dân được cải thiện, nhu cầu về học tập cao hơn. Đến năm học 1994 – 1995, lần đầu tiên giáo dục đào tạo Nam Định là đơn vị duy nhất dẫn đầu toàn quốc về các chỉ tiêu thi đua, lá cờ đầu của toàn ngành. Giáo dục phổ thông có bước chuyển biến mới, tăng trưởng mạnh cả về quy mô và chất lượng giáo dục: Quy mô giáo dục đào tạo tiếp tục phát triển. Số học sinh tăng ở tất cả các bậc học. Học sinh tiểu học đến trường ngày càng đúng độ tuổi (82,07 % năm học 1995 – 1996), các chỉ tiêu kế hoạch phổ cập giáo dục tiểu học của tỉnh được hoàn thành vượt mức, kết quả phổ cập giáo dục tiểu học ngày càng vững chắc, ổn định, chất lượng ngày càng tốt hơn. Nhiệm vụ chống mù chữ được đẩy mạnh, tiếp tục chú trọng việc thực hiện đúng độ tuổi xóa mù chữ. Việc đa dạng hóa các loại hình và sắp xếp mạng lưới trường lớp tiếp tục có chuyển biến mới. Ở các bậc phổ thông đã chú trọng củng cố, mở rộng nhiều trường trọng điểm chất lượng cao, giáo dục tiểu học mở rộng số trường nhập công nghệ giáo dục, hệ thống trường chuyên, trường năng khiếu được chăm lo tốt hơn về đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại. Chất lượng giáo dục đào tạo tiếp tục được nâng cao: Giáo dục tiểu học có chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện theo hướng đổi mới bậc học. 100% số trường dạy đủ các môn bắt buộc; đại bộ phận giáo viên có ý thức đổi mới phương pháp dạy học; công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được chăm lo tốt hơn, chất lượng giải trong các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh và quốc gia được nâng lên. Để nâng cao chất lượng giáo dục, các nhà trường đã tích cực triển khai thực hiện tổ chức học 2 buổi trên ngày. Hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động đội sôi nổi có tác dụng giáo dục tốt. Giáo dục trung học phổ thông thực hiện đầy đủ chương trình và tích cực nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; 100% số trường trung học phổ thông tổ chức dạy ngoại ngữ và 28% số trường dạy tin. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được chú trọng, Nam Định vẫn là một trong số các tỉnh được nhiều giải và nhiều giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia; đặc biệt năm học 1995 – 1996, Nam Định có một học sinh được tham gia đội tuyển toán quốc gia đi thi quốc tế, đây là một tín hiệu đáng phấn khởi, tạo niềm tin làm tiền đề cho các năm học tiếp theo. Năm học 1995 – 1996 là năm đầu tiên thực hiện đổi mới tổ chức thi tốt nghiệp theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ Sở đến các trường đã tiến hành nghiêm túc các công đoạn của kỳ thi, bước đầu đánh giá được thực chất của chất lượng dạy và học. Ở kỳ thi tốt nghiệp trung học cơ sở có 31.301 học sinh đỗ, đạt 96,3%; kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông có 8.745 học sinh đỗ, đạt 83,8% [50, tr. 5]. Chất lượng giáo dục đào tạo đã tiếp cận theo hướng nâng cao phẩm chất chính trị, bồi dưỡng năng lực, tư duy tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan