MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................2
I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN........................3
1. Bản chất của kinh tế tư nhân..................................................................3
2. Tính tất yếu tồn tại kinh tế tư nhân ở Việt Nam.....................................4
3. Vai trò của kinh tế tư nhân.....................................................................8
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN ......................13
1. Thực trạng phát triển...........................................................................13
2. Nguyên nhân.......................................................................................18
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN ...........19
1. Những thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế tư nhân..........19
2. Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân........................................22
2.a Các vấn đề kinh tế vĩ mô...................................................................22
2.b Các vấn đề kinh tế vi mô...................................................................27
IV. KẾT LUẬN......................................................................................29
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay,đặc biệt là vấn đề hội nhập nền kinh tế thế
giới đã và đang đặt ra những cơ hội cũng như những thách thức đối với nền kinh tế
Việt Nam.Việt Nam đã và đang có những bước tiến vững chắc trong việc phát triển
nền kinh tế thị trường địng hướng xã hội chủ nghĩa,hội nhập cùng thế giới bằng việc
phát huy nội lực đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngoài thông qua việc phát
huy sức mạnh của các thành phần kinh tế.Trong đó phải kể đến sự đóng góp quan
trọng của thành phần kinh tế tư nhân trong việc phát triển nền kinh tế.
Hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương khóa IX khẳng định: “kinh tế tư
nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.Phát triển kinh tế
tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
Vậy trong việc phát triển kinh tế Việt Nam thành phần kinh tế tư nhân đã có vai
trò như thế nào? Hay tại sao Việt Nam lại phải phát triển kinh tế tư nhân trong khi
chúng ta muôn hướng tới một xã hội xã hội chủ nghĩa nơi sở hữu tư liệu sản xuất là
của tập thể.Việc xác định đúng vai trò của kinh tế tư nhân và con đường đúng đắn
cho sự phát triển của thành phần kinh tế này là việc làm cấp thiết hiện nay, bởi vì
hiện nay toàn cầu hóa là một xu thế phát triển tất yếu trong tiến trình phát triển của
nhân loại, chúng ta không muốn bị cuốn vào vòng xoáy dó một cách thụ động thì
chúng ta phải biết phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong đó có thành
phần kinh tế tư nhân, nó là một mắt xích quan trọng trong việc nối kết nền kinh tế thị
trường Việt Nam với nền kinh tế thị trường thế giới.
Vì vậy em xin làm rõ về vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam và thực trạng
phát triển của thành phần kinh tế này trong thời gian qua cũng như xin đưa ra một số
ý kiến về giải pháp phát triển thành phần kinh tế này.
vai trß vµ gi¶i ph¸p ph¸t triÓn kinh tÕ t nh©n
ë viÖt nam hiÖn nay
2
I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN
1. BẢN CHẤT CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN:
Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên chủ mghĩa xã hội, việc đổi mới đường
lối phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua đã đem lại cho chúng ta những bước
tiến vượt bậc. Chúng ta chấp nhận mở cửa hội nhập với thế giới, xây dựng đường lối
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy nội lực đồng thời
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Việc
xây dựng đường lối phát triển kinh tế như vậy là sự phù hợp với thực tế khách quan
hiện nay ( phù hợp với điều kiện thực tế của kinh tế Việt Nam hiện nay và quá trình
toàn cầu hóa đang diễn ra như một điều tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử)
vì vậy đã mang lại cho chúng ta những thành tựu đáng kể. Trong kết quả chúng ta có
hôm nay phải kể đến sự đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã
hội Việt Nam của khu vực kinh tế tư nhân nhất là sau khi có sự đổi mới đường lối
phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Kinh tế tư nhân là một loại hình Kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, gắn liền với lao động cá nhân người chủ sở hữu và lao động làm thuê.
Kinh tế tư nhân ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội
nhất định, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Như vậy bản
chất của lọai hình kinh tế này đó là dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Người sở hữu tư liệu sản xuất là người chủ và họ luôn có xu hướng tối đa hóa lợi ích
mà mình thu được vì vậy họ phải bóc lột sức lao động của công nhân làm thuê.
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh
mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Trong phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa thì chế tạo ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của nó.
Thật vậy giá trị thặng dư, phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động của công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt phản ánh mối quan hệ kinh tế bản
chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ bóc lột lao động làm thuê. Mục đích của
3
sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng
dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc
đẩy sự hoạt động mỗi nhà tư bản, cũng như toàn bộ xã hội tư bản. Các nhà tư bản
luôn được bộ máy chính quyền tư bản bảo vệ lợi ích nên họ đã tìm đủ mọi cách để
bóc lột giá trị thặng dư như tăng cường độ lao động, kéo dài thời gian lao động, tăng
năng suất lao động… Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định
về hình thức sỏ hữu,quản lí, phân phối để thích nghi với điều kiện mới nhưng về bản
chất thì không thay đổi. Nhà nước tư bản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào
đời sống kinh tế xã hội nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư
sản. Xét trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay thì kinh tế
tư nhân chịu sự kiểm soát quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nên không còn
hoàn toàn giống như kinh tế tư nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khái niệm kinh tế
tư bản tư nhân chỉ xuất hiện gắn liền với sự hình thành và phát triển phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình đổi mới ở nước ta với sự xuất hiện và phát triển các
loại hình doanh nghiệp của tư nhân không đồng nghĩa với sự xuất hiện trở lại của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản. Các loại hình doanh nghiệp tư
nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp ở nước ta, được hình thành và phát triển trong
điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, được nhà nứơc khuyến khích và bảo vệ
không hoàn toàn do quy luật giá trị thặng dư chi phối. Hơn nữa các loại hình doanh
nghiệp của tư nhân và đội ngũ doanh nhân ở nước ta được hình thành và phát triển
trong điều kiện mới, không hàm chứa tính chất giai cấp hay bản chất tư bản như dưới
xã hội tư bản điều này được chứng minh là đã có rất nhiều doanh nhân là đảng viên.
Các doanh nghiệp của tư nhân nước ta đại diện cho một lực lựơng sản xuất mới, là
một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân…
2.TÍNH TẤT YẾU TỒN TẠI KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM:
* Quan điểm về kinh tế tư nhân của Đảng trước khi đổi mới (1986)
4
Kinh tế tư nhân là đối tượng chính phải cải tạo, xóa bỏ. Vì kinh tế tư nhân luôn
đồng nghĩa với làm ăn cá thể bóc lột, tự phát lên con đường chủ nghĩa tư bản, vì thế
kinh tế tư nhân không thể là một chủ thể kinh tế để xây dựng chr nghĩa xã hội.
Sau cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta thì Đảng và Nhà nước đứng trước hai
hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là sở hữu tư nhân của những người sản
xuất nhỏ(cá thể, thợ thủ công, tiểu thương…) và sở hữu tư nhân của giai cấp tư sản
dân tộc Việt Nam. Đối với sở hữu tư nhân của những ngừơi sản xuất nhỏ thì Nhà
nước cải tạo bằng con đường vận động thuyết phục để đưa họ vào làm ăn tập thể.
Còn đối với sở hữu tư nhân của giai cấp tư sản dân tộc thì Nhà nước phân làm hai
đối tựơng, một đối tượng đó là các nhà tư sản dân tộc nhưng có công với cách mạng
và kháng chiến thì Nhà nước cải tạo hòa bình bằng cách chuộc lại hay chưng mua rồi
sau đó chuyển thành sở hữu Nhà nước (sau đó vận động họ kết hợp với nhà nước để
kinh doanh hình thành các xí nghiệp công tư hợp doanh) Đối với nhà tư sản làm tay
sai cho đế quốc phong kiến thì Nhà nước cải tạo bằng cách quốc hữu hóa hay tịch thu
toàn bộ tài sản biến thành sở hữu Nhà nước.
Tuy nhiên trong giai đoạn này ngay cả ở trong nghiệp là nơi diễn ra quá trình xóa
bỏ tư nhân mạnh nhất nhưng sở hữu tư nhân vẩn còn tồn tại,trong thời gian này
những ngừơi không vào tập thể hợp tác xã, làm ăn cá thể, tiểu thương… thường
không được coi trọng, bị phân biệt trong nhiều việc.
* Từ sau đại hội VI kinh tế tư nhân được thừa nhận tồn tại khách quan lâu dài có
lợi cho quốc kế dân sinh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX khẳng định: “ Kinh tế tư nhân là
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
Tuy nhiên trong thời kỳ hiện nay về mặt tâm lý vẫn còn nhiều người nghi ngờ về
tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân, họ vẫn giữ quan niệm cũ trước đổi mới
cho rằng không nên phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân đi liền với sự bóc lột
của tư bản, kinh tế tư nhân là một rào cản trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
5
của chúng ta. Điều này đã tạo nên tâm lý lo ngại cho một bộ phận không nhỏ trong
xã hội và tạo thành một rào cản về mặt tâm lý trong việc xây dựng phát triển kinh tế
tư nhân theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. Việc Đảng và Nhà nước ta
chủ trương xây dựng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là một việc làm đúng đắn, thể hiện tầm nhìn sâu, rộng, xuyên suốt của
Đảng. Việc xây dựng đường lối chủ trương của Đảng đã gắn với thực tế, xuất phát từ
thực tế phù hợp với điều kiện và tình hình phát triển của Việt Nam. Xuất phát từ thực
tế thì nhà nước ta đã khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong gần 20 trở lại đây
vì sự tồn tại phát triển của kinh tế tư nhân hay phát triển nền kinh tế thị trường trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là một sự tất yếu khách
quan xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất: phù hợp với thực trạng của lực lượng sản xuất phát triển chưa đồng
đều ở Việt Nam.
Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là điểm
xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều đó
có nghĩa là trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn rất thấp kém và do đó sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất,
là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi vậy trong giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất chẳng những không cần phải xóa bỏ mà còn cần được tạo mọi điều kiện để phát
triển.
Trình độ lực lượng sản xuất của chúng ta không những còn rất thấp kém mà còn
phát triển không đồng đều có nhiều trình độ khác nhau do đó trong nền kinh tế tồn tại
nhiều loại hình sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất dẫn đến tồn tại nhiều thành phần
kinh tế. Trong lịch sử mỗi phương thức sản xuất có một loại hình sở hữu tư liệu sản
xuất đặc trưng nhưng điều đó không có nghĩa là mỗi phương thức sản xuất chỉ có
một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất mà có thể có nhiều loại hình sở hữu tư liệu sản
xuất khác nhau cùng tồn tại. Sự xuất hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
do tính chất và trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất quy định, lực lượng sản
6
xuất không ngừng vận động biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng không ngừng
vận động biến đổi, tương ứng với mỗi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ có
một kiểu quan hệ sản xuất. Do vậy sự chủ quan nóng vội duy ý chí trong việc xóa bỏ
sở hữu tư nhân, xác lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất đều trái với yêu cầu của
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và phải trả giá. Điều này đã được thực tế ở Việt Nam trong những năm sau
khi giành độc lập đến 1986 chứng minh. việc xóa bỏ vội vàng sở hũu tư nhân, phát
triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã làm cho kinh tế Việt Nam trì trệ, lâm vào
khủng hoảng, lạm phát tăng cao…Vì vậy từ một nền sản xuất nhỏ với nhiều loại hình
sở hữu không thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc xóa bỏ chế độ tư
hưu ngay.
Thứ hai: trong quá trình phát triển do điều kiện lịch sử đã để lại nhiều thành phần
kinh tế như thành phần kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ, thành
phần kinh tế tự nhiên của đồng bào dân tộc ở dẻo cao phía bắc và tây nguyên… mà
chúng ta không thể cải biến nhanh được. Hơn nữa sau nhiều năm cải tạo và xây dựng
quan hệ sản xuất mới mới đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới: thàh
phần kinh tế Nhà nước,thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản nhà
nước… các thành phần kinh tế này tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau.
Thứ ba: phát triển kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với xu thế phát triển kinh
tế khách quan của thời đại ngày nay, thời đại các nước hướng về phát triển kinh tế thị
trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn
ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử nhân
loại, nó tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc phát triển kinh tế thị
trường sẽ giúp Việt Nam có những cơ hội to lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế trong
quá trình hội nhập với thế giới. Chúng ta đang đàm phán để được gia nhập tổ chức
WTO vì vậy nếu chúng ta không phát triển thị trường thì chúng ta sẽ không thể cạnh
tranh được với các nước trên thế giới, dẫn tới việc lạc hậu, bị cuốn theo vòng xoáy
của toàn cầu hóa.
7
Thứ tư: phát triển kinh tế nhiều thành phần phù hợp với lòng mong muốn thiết
tha của người dân Việt Nam là được đem hết tài năng, sức lực để lao động làm giàu
cho đất nước và cho cả bản thân mình, làm cho cuộc sống ngày càng ấm no hạnh
phúc.
Thứ năm: phát triển kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác có hiệu quả nhất
các tiềm năng hiện có và đang còn tiềm ẩn trong nước, có thể tranh thủ tốt nhất sự
giúp đỡ từ bên ngoài nhằm phát triển kinh tế hướng vào mục tiêu tăng trưởng nhanh
và hiện đại hóa. Chỉ có phát triển nhiều thành phần kinh tế chúng ta mới có khả năng
huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, tiềm năng về con người, mới có thể áp
dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế và xây dựng
đất nước.
Thứ sáu: phát triển kinh tế nhiều thành phần mới có khả năng giải quyết được
vấn đề việc làm của chúng ta. Nước ta còn có lực lượng lao động dồi dào (hơn 40
triệu lao động) cần cù thông minh, song số người chưa có việc làm hay thiếu việc
làm còn nhiều, vừa lãng phí sức lao động, vừa gây ra những khó khăn lớn về kinh tế
xã hội ( thất nghiệp, tệ nạn…) Trong khi khả năng thu hút lao động của khu vực kinh
tế nhà nước không nhiều thì việc khai thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần
kinh tế khác là một trong những giải pháp quan trọng để tạo thêm nhiều công ăn
việc làm cho người lao động.
Từ những lý do phân tích như trên chúng ta có thể thấy việc Đảng và Nhà nước
chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là việc
làm hết sức đúng đắn phù hợp với thực tế, mong muốn của người dân và lựa chọn
đúng con đường phát triển giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN:
Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa…” Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của kinh tế tư nhân đã
được Đảng khẳng định và trên thực tế khu vực kinh tế tư nhân cũng đã và đang thể
8
hiện được vai trò của mình trong nền kinh tế, và ngày càng có những đóng góp quan
trọng trong nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân đang thực sự trở thành một động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
* Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước
GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân
nhìn chung tăng ổn định trong những năm gần đây. Nhịp độ tăng trưởng năm 1997 là
12,89%; năm 1998 là 12,74%; năm 1999: 7,5%; năm 2000: 12,55% và chiếm tỷ
trọng tương đối ổn định trong GDP, tuy năm 2000 có giảm chút ít so với năm 1996
(từ28,45% năm 1996 còn 26,87% năm 2000). Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư
nhân trong tổng GDP giảm đi chút ít do sự tham gia và đóng góp của khu vực có vốn
đầu tư nước ngòai.
Bảng đóng góp GDP của khu vực kinh tế tư nhân:
Chỉ tiêu
Đơn
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
vị
Tổng GDP toàn quốc
Tỷ đ
1.khu vưc tư nhân
% trong GDP toàn quốc
%
2. hộ kinh doanh cá thể Tỷ đ
Tỷ trọng hộ trong GDP
%
Tỷ trọng hộ trong khu
-
1996
272.036
77.481
28.48
57.879
21.28
74.7
1997
313.623
87.475
27.89
65.555
20.9
74.94
1998
361.017
98.625
27.32
73.321
20.31
74.34
1999
399.943
106.029
26.51
78.054
19.52
73.62
2000
444.140
119.337
26.87
87.604
19.72
73.41
Vực kinh tế tư nhân
3. Doanh nghiệp tư nhân Tỷ đ
Tỷ trọng trong GDP
%
Tỷ trọng trong khu vực %
19.602
7.21
25.3
21.920
6.99
25.06
25.304
7.01
25.66
27.975
6.99
26.38
31.733
7.14
26.59
Tư nhân
Nguồn:Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng,giải pháp phát triển kinh tế tư nhân. Ban kinh
tế trung ương ngày 26-11-2001
Trong 4 năm (2000-2003) tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân trong công nghiệp
đạt mức 20% năm. Trong nông nghiệp kinh tế tư nhân đã có đóng góp đáng kể trong
trồng trọt chăn nuôi và đặc biệt là trong các ngành chế biến và xuất khẩu. Nhờ sự
phát triển của kinh tế tư nhân, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch quan
9
trọng theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH khu vực nông
nghiệp nông thôn.
* Đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách:
Theo số liệu thống kê của bộ thương mại, đến năm 2002 khu vực kinh tế tư nhân
trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, kinh tế
tư nhân là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, số lượng hàng hóa tham
gia xuất khẩu ngày càng tăng, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân đến nay đã tăng khá, 9 tháng đầu
năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đó các công ty cổ phần đạt 361.759.900
USD, công ty trách nhiệm hữu hạn đạt 1.606.489.900 USD, công ty tư nhân đạt
211.900.000 USD(số liệu của tổng cục hải quan)
Các doanh nghiệp tư nhân đã tham gia tích cực vào xuất nhập khẩu trực tiếp, đến
năm 2000 số doanh nghiệp tư nhân tham gia xuất khẩu trực tiếp tăng lên 16.200
doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về
một số mặt hàng quan trọng( sản phẩm thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến…), đã
có một số doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD / năm, ở một số
địa phương kinh tế tư nhân là khu vực đóng góp chủ yếu về xuất khẩu ( Hà Giang:
60%,Bình Thuận 45%, Quảng Ngãi 34% ).Vì thế khu vực ngòai quốc doanhtrong
nước từ chổ chỉ chiếm 11% giá trị xuất khẩu vào năm 1997 thì đến quý I-2002 dã
tăng lên khoảng 31% ( Thời báo kinh tế Việt Nam số 66 ngày 3-6-2002 ).
Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành nguồn thu quan trọng cho
ngân sách Nhà nước và có xu hướng ngày càng tăng, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên
hơn 7% năm 2002.Nhiều địa phương mức đóng góp của doanh nghiệp dân doanh
chiếm trên 20% nguồn thu ngân sách địa phương ( Bình Định 33% Tiền Giang
24%...). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt
103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001.
* Kinh tế tư nhân có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư xã
hội phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
10
Trong 10 năm gần đây vốn đầu tư cho khu vực tư nhân tăng nhanh, chiếm tỷ lệ
cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư khu vực kinh tế tư
nhân đạt 31.542 tỷ đồng chiếm 24.05% , năm 2000 đạt 55.894 tỷ đồng tăng 13.8% so
với năm 1999,chiếm 24.31% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội,và trong gần 4 năm thực
hện luật doanh nghiệp số vốn các doanh nghiệp đầu tư là hơn 145.000 tỷ đồng. Đặc
biệt số vốn đăng kí giai đoạn 2000-2003 cao gấp 4 lần số vốn đăng kí 9 năm trước đó
(1991-1999). Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò là nguồn
vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế địa phương. Nhờ vốn huy động được
từ thực hiện luạt doanh nghiệp cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội đã thay đổi theo hướng
tăng tỷ lệ vốn đầu tư trong nước, tăng tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực dân doanh trong
tổng dầu tư toàn xã hội (Vốn đầu tư của dân cư và các doanh nghiệp từ chổ chiếm
20% năm 2000 tăng lên 23% năm 2001; 25.3% năm 2002 và trong năm 2003 khoảng
gần 27% trong đầu tư ).
* Khu vực kinh tế tư nhân tạo việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo:
Ở nước ta hàng năm có khoảng 1.5 triệu người đến độ tuổi lao động, gồm có lực
lượng thanh niên đến độ tuổi lao động, số học sinh tốt nghiệp phổ thông , trung học,
đại học , cao đẳng và dạy nghề. Ngoài ra còn có những lao động bị thât nghiệp do
sắp xếp lại sản xuất trong các nghành kinh tế quốc dân. Nếu chỉ thông qua các doanh
nghiệp Nhà nước thì sẽ không bao giờ tạo đủ công ăn việc làm cho những người có
nhu cầu lao động. Thực tế những năm qua cho thấy ở thời điểm cao nhất quốc doanh
củng chỉ thu hút được khoảng 2 triệu lao động/năm. Trong khi dó tính đến thời điểm
31-12-2000 số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân là4.643.884 người
chiếm 12% tổng số lao động xã hội, bằng 1.36 lần tổng số việc làm trong khu vực
kinh tế Nhà nước. Lao động của hộ kinh doanh cá thể là 3.802.057 người,của các
doanh nghiệp tư nhân là 841.787 người, trong 3 năm ( 2000-2002 ) các doanh nghiệp
dân doanh và hộ kinh doanh cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1.5 triệu chổ làm
việc mới . Tuy nhiên số lao động qua thực tế khảo sát ở hộ kinh doanh cá thể còn lớn
hơn nhiều so với số đăng kí vì nhiều hộ gia đình hủ yếu sử dụng lao động trong dòng
11
họ, lao động mang tính thời vụ và lao động nông nhàn không thể hiện trong các báo
cáo thống kê.
Khu vực kinh tế tư nhânvới mọi loại hình, mọi quy mô, mọi nghành nghề, áp
dụng nhiều phương thức sản xuất đã và đang góp phần quan trọng trong việc tạo ra
ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Với việc ngày càng tạo ra nhiều việc
làm và sử dụng linh hoạt mọi loại lao động, tạo được th nhập đáng kẻ cho người lao
động nhất là những người lao động thời vụ hay thiếu việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân. Theo thực tế khảo sát thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế
tư nhân thường có mức thu nhập tương đương hoặc cao hơn thu nhập của người lao
động trồng lúa ở nông thôn cùng địa bàn.Chính vì vậy khu vực kinh tế tư nhân đang
có sức hút lao động lớn và đang làm chuyển dịch dần cơ cấu lao động của nước ta
theo hướng giảm tỉ lệ lao động trong nông nghiệp và tăng tỉ lệ lao động trong công
nghiệp và dịch vụ góp phần đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước.
* Góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế xã hội, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường địn hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân góp phần thu hút được ngày càng nhiều lao
động ở nông thôn vào các nghành phi nông nghiệp nhất là công nghiệp, giúp chuyển
đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân càng càng tiến bộ
hơn, các mặt hàng ngày càng phong phú đa dạng, số lượng hàng hóa tham gia xuất
ngày càng tăng đòi hỏi việc hoàn thiện cơ chế quản lí về nhiều mặt như chất lượng,
hàng giả, trốn thuế…
* Kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh, đẩy nhanh
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự phát triển kinh tế tư nhân là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh
giửa các thành phần kinh tế phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp
nhà nước. Thể chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hơn với cơ chế kinh tế
12
mới.Các loại thị trường bắt đầu hình thành và phát triển như thị trường hàng hóa
dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường chứng khoán…
Khu vực kinh tế tư nhân còn là môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh
tế với nước ngoài. Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay sự giao lưu kinh tế văn
hóa giữa các nước phát triển mạnh và kinh tế tư nhân là khu vực năng động, có
hiệu quả cao cho nên nó là những đối tác quan trọng trong các liên doanh với
nước ngoài. Tuy nhiên chúng ta cũng cần nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh
tế tư nhân thì khi chúng ta gia nhâp WTO mới có chổ đứng trên thị trường thế
giới.
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI
GIAN QUA Ở VIỆT NAM
1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN.
Sau cuộc cách mạng dân tộc thành công chúng ta muốn nhanh chóng tiến
lên con đường xã hội chủ nghĩa nên đã vội vàng thực hiện xóa bỏa mọi hình thức
sở hửu tư nhân chính vì vậy yhành phần kinh tế tư nhân là đối tượng cải tạo của
cách mạng xã hội. Tư liệu sản xuất của nhân dân được Nhà nước chưng mua hoặc
quốc hữu hóa để biến thành tài sản của Nhà nước.Tuy nhiên cả trong hoàn cảnh
như vậy thì kinh tế tư nhân vẫn có sự tồn tại, đặc biệt là trong nông nghiệp nơi có
phong trào tập thể hóa rất cao nhưng vẫn tồn tại kinh tế tư nhân chứng minh sự
tồn tại khách quan và sức sống mãnh liệt của thành phần kinh tế này.
Từ sau đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 198) với sự thay đổi quan
điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân thì khu vực kinh tế tư nhân đã có
sự phát triển rất mạnh mẽ và đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.Các chính sách như chính sách về thuế, đất đai, vốn…
Đã khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển và làm thay đổi diện mạo của khu vực
kinh tế tư nhân.
13
Sự thay đổi đầu tiên phải nói đến là số lượng doanh nghiệp được thành lập
nhiều và gia tăng với tốc độ cao.
Về hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ:Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn và
tăng nhanh. Tính đến cuối năm 2003 cả nước có 2.7triệu hộ kinh doanh cá thể
công thương nghiệp, 130.000 trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng
hóa.
Về doanh nghiệp của tư nhân: năm 1991cả nước chỉ có 414 doanh nghiệp
đến năm 1992 là 5.189 doanh nghiệp, năm 1995 là 15.276 doanh nghiệp, năm
1999 là 28.700 doanh nghiệp. Như vậy trong giai đoạn 1991-1999 bình quân mỗi
năm tăng thêm 5000 doanh nghiệp, trong đó các công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần có tốc độ tăng về số lượng rất cao. Kinh tế tư nhân có sự phát
triển nhanh như vậy vì Nhà nước đã ban hành luật doanh nghiệp tư nhân năm
1990 mở đường cho sự bùng nổ về số lượng của thành phần kinh tế tư nhân. Luật
doanh nghiệpcó hiệu lực từ 1-1-2000 là một khâu đột phá thúc đẩy sự phát triển
vượt của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Tính đến tháng 9-2003
đã có gần 73.000 doanh nghiệp mới đăng kí đưa tổng số doanh nghiệp khu vực tư
nhân ở nước ta lên 120.000, đây là một sự gia tăng nhanh của các doanh nghiệp tư
nhân ở giai doạn này. Thực tế cho thấy nếu so với thời kì trước khi thực hiện luật
doanh nghiệp thì trong 4năm qua số doanh nghiệp đăng kí kinh doanh bình quân
hàng năm bằng 3.75 lần so với thời kì 1991-1999. Đặc biệt ở một số địa phương
như Lai Châu, Hưng Yên, Thanh Hóa… số doanh nghiệp đăng kí kinh doanh tăng
từ 4-8 lần. Điều đáng chú ý là số doanh nghiệp không hoạt động chiếm tỷ lệ thấp,
theo thống kê của nhiều thành phố thì số doanh nghiệp đang thực sự hoạt động
chiếm 80% - 85% trong tổng số doanh nghiệp đăng kí.
BIỂU ĐỒ SỐ LƯỢNG CÁC DOANH NGHIỆP KHU VỰC KINH TẾ TƯ
NHÂN GIAI ĐOẠN 19991-2003.
14
Sự phát triển về quy mô vốn, lĩnh vực và địa bàn kinh doanh:
Cho đến nay khu vực kinh tế tư nhân đã thu hút một lượng lớn vốn đầu tư xã
hội, vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh và hộ kinh doanh cá thể đang trở
thành nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế ở nhiều địa phương.
Tỷ trọng đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp dân doanh trong
tổng số vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và
28.8% năm 2002. Trong những năm qua mức vốn đăng kí trung bình trên một
doanh nghiệp có xu hướng ngày một tăng lên. Theo báo cáo tổng kết 4 năm thi
hành luật doanh nghiệp thời kì 1991-1999 vốn đăng kí bình quân trên một doanh
nghiệp là gần 0.57 tỷ đồng, năm 2000 là 0.96 tỷ đồng, năm 2002 là 2.8 tỷ đồng,
ba tháng đầu năm 2003 là 2.6 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ tiềm lực to lớn của khu
vực kinh tế tư nhân, số doanh nghiệp có vốn đăng kí lớn ngày càng tăng cho thấy
sự làm ăn hiệu quả và phát triển mạnh mẽ ở khu vực kinh tế tư nhân.Sự làm ăn
hiệu quả của các doanh nghiệp tư nhân là do đã biết khai thác các thế mạnh của
các nghành nghề trên khắp các địa bàn. Từ khi có chính sách đổi mới khu vực
kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh, mở rộng các hoạt động kinh doanh trong hầu
hết các nghành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Kinh tế tư nhân không còn
15
chỉ hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, thương mại mà đã mở rọng hoạt
động trong các nghành công nghiệp, dịch vụ cao cấp như công nghiệp sản xuất tư
liệu sản xuất, chế biến, công nghệ thông tin, ngân hàng tài chính…Sự đa dạng hóa
nghành nghề đầu tư đã thu hút được nhiều lao động và các doanh nghiệp cũng
góp phần đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động. Số công nhân có tay
nghề lao động cao ngày càng nhiều, nhân viên kĩ thuật phát triển nhanh. Việc
nâng cao chất lượng nguồn lao động do yêu cầu của công nghệ ngày càng hiên đại
đang được các doanh nghiệp đầu tư, và ngày càng mang lại hiệu quả cao cho các
doanh nghiệp.
Việc phát triển mạnh trong mọi nghành nghề mà pháp luật không cấm đã làm
đa dạng các hình thức tổ chức doanh nghiệp. Nếu trước đây khu vực kinh tế tư
nhân chỉ gồm các doanh nghệp tư nhân và hộ kinh tế cá thể thì hiện nay có thêm
các hình thức khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần… Doanh
nghiệp tư nhân là loại hình mới được phục hồi và phát triển rất nhanh sau khi có
luật doanh nghiệp tư nhân, còn công ty cổ phần mới ra đời chủ yếu sau khi ban
hành luật công ty năm 1990. Theo số liệu điều tra của viện quản lý kinh tế trung
ương năm 1994 cho thấy: 77.7% các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ
phần là thành lập mới, còn 23.3% số công ty là do chuyển đổi hình thức tổ chức
( từ doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân). Hiện nay công ty
trách nhiệm hữu hạn đang là hình thức được yêu thách nhất và phát triển rất mạnh
trong cả nước.
Khu vực kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển nhanh trong thời gian
qua, đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng không phải là không có những
mặt hạn chế yếu kém:
Một là: Hầu hết các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân của nước ta
mới được thành lập, hơn 90% là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kinh nghiệm
và năng lực cạnh tranh thấp nên dễ bị tổn thương.Theo số liệu của phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam có hơn 61% doanh nghiệp mới thành lập thiếu các
16
nguồn lực cơ bản như vốn, thị trường, đất đai, khó tiếp cận với các nguồn cung
ứng hổ trợ.
Thứ hai: Mặc dù đã huy động được một nguồn vốn lớn trong xã hội nhưng
nhìn chung hiện trạng về vốn của khu vực kinh tế tư nhân còn yếu kém, vốn bình
quân thấp. Theo số liệu điều tra của viện quản lý kinh tế trung ương cho
thấy:67.88% số doanh nghiệpvà 40.3% số công ty tư nhân có vốn kinh doanh
dưới 500 triệu đồng. Phần lớn các doanh nghiệp và công ty tư nhân kinh doanh
bằng vốn tự có, việc kinh doanh bằng vốn tự có sẽ hạn chế khả năng mở rộng quy
mô doanh nghiệp và áp dụng công nghệ tiên tiến. Hiệu quả sử dụng vốn của các
doanh nghiệp tư nhân tuy có cao hơn các doanh nghiệp Nhà nước nhưng vẫn còn
thấp.
Thứ ba: Với việc nguồn vốn đầu tư thấp quy mô nhỏ thì các doanh nghiệp chủ
yếu chỉ đầu tư vào các nghành thương mại và dịch vụ sơ cấp, các nghành có thể
thu hồi vốn nhanh, khả năng quay vòng vốn cao mà không có nhiều doanh nghiệp
có tiềm lớn để đầu tư vào các nghành công nghiệp, chế biến, dịch vụ cao cấp.
Thứ tư: kinh tế tư nhân mà nhất là các doanh nghiệp mới tập trung phát triển ở
một số thành phố lớn, nơi có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, còn ở nhiều
vùng nông thôn, vùng dân tộc miền núi có rất ít doanh nghiệp tuy ở đây cũng có
nhiều vùng rất có tiềm năng để phát triển kinh tế.
Thứ năm: Phần lớn lao động trong khu vực tư nhân có tay nghề thấp không
được đào tạo. Công nghệ máy móc, thiết bị của các cơ sở tư nhân rất lạc hậu.
Năm 1994 thì chỉ có 25% số doanh nghiệp và 20.5% công ty tư nhân sử dụng
công nghệ hiện đại; 38.5% số doanh nghiệp và 18.7% số công ty tư nhân sử dụng
công nghệ truyền thống; 38.5% số doanh nghiệp và 60.5% số công ty tư nhân kết
hợp cả công nghệ hiện đại và truyền thống. Còn về quản lý thì phần lớn trình độ
quản lý của các chủ doanh nghiệp tư nhân còn thấp, chưa có kiến thức và kinh
nghiệm kinh doanh trong kinh tế thị trường, thiếu chiến lược kinh doanh, trình dộ
hiểu biết pháp luật, đặc biệt là luật pháp quốc tế còn nhiều hạn chế.
17
Một hạn chế nữa là nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt những
quy định của pháp luật về lao động, chế độ bảo hiểm… Một số doanh nghiệp, hộ
kinh doanh cá thể vi phạm pháp luật, trốn thuế, kinh doanh trái phép, chưa thực
hiện đúng luật doanh nghiệp và các quy định về đăng kí kinh doanh.
2. NGUYÊN NHÂN :
Trong thời gian qua kinh tế tư nhân phát triển một cách nhanh chóng đó là do
sự đổi mới quan điểm của Đảng. Đảng không ngừng đưa ra các chủ chương chính
sách thích hợp để phát triển kinh tế nhiều thành phần và đã thúc đẩy kinh tế tư
nhân phát triển. Đảng và Nhà nước luôn tạo môi trường thuận lợi về thể chế và
tâm lý xã hội cho sự phát triển của kinh tế tư nhân : sửa đổi bổ sung luật doanh
nghiệp, xóa bỏ phân biệt đối sử giữa các thành phần kinh tế, ổn định pháp luật,
quy định rõ những nghành nghề kinh doanh không được phép thực hiện, sửa đổi
bổ sung một số một số cơ chế chính sách về đất đai, tài chính tín dụng, tiền lương,
xúc tiến thương mại…Các chính sách trên đã và đang mang lại hiệu quả và tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Việc khu vực kinh tế tư nhân còn một số mặt hạn chế yếu kém như đã nêu ở
trên là do:
Các công ty tư nhân khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ nên
nguồn vốn đầu tư nhỏ không đủ để đầu tư vào các nghành cần nguồn vốn lớn như
công nghiệp, cơ sỏ hạ tầng… các nguồn vốn của ngân hàng, Nhà nước cho vay thì
thường có thời gian ngắn không tạo sự yên tâm cho chủ đầu tư vì không dễ thu
hồi vốn nhanh trong các nghành công nghiệp, cơ sở hạ tầng… Hơn nữa trình độ
lao động còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu công nghệ ngày càng hiện đại.
Tâm lí muốn thu hồi vốn đầu tư nhanh chóng qua các nghành thương mại dịch
vụ, trình độ quản lí của các doanh nhân còn thấp, chưa có chiến lược đầu tư lâu
dài nên các doanh nghiệp tư nhân thường có quy mô nhỏ và ít đầu tư vào các
nghành công nghiệp.
Hành lang pháp lí và các chính sách cụ thể còn phức tạp hoặc chưa đủ sức thu
hút các doanh nhân bỏ vốn đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp nặng, công nghệ
18
cao, cơ sở hạ tầng… do đó chưa hình thành cơ cấu đầu tư tư nhân có hiệu quả cho
nền kinh tế.
Ở một số tỉnh thành đặc biệt là vùng nông thôn, miền núi chưa có những chính
sách phù hợp để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, cũng như đang còn thiếu
thốn rất nhiều điều kiện để các doanh nhân đầu tư như về chất lượng nguồn lao
động, cơ sở vật chất hạ tầng…
Các cơ quan quản lí hoạt động kém hiệu quả, chức năng chồng chéo không
những gây khó khăn cho việc đăng kí kinh doanh mà còn khó khăn cho việc quản
lí các cơ sở kinh doanh dẫn đến các hiện tượng buôn lậu, trốn thuế, lách luật…
của các công ty tư nhân.
Chính ví vậy chúng ta muốn nâng cao được khả năng cạnh tranh quốc tế khi
hội nhập thì cần phải quyết tâm giải quyết các nguyên nhân trên, ngoài việc khắc
phục trong các chính sách quản lý của Nhà nước chúng ta cũng cần phải có những
chiến lược phát triển lâu dài, phải nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực kinh
tế tư nhân, phải tăng quy mô vốn tự có và tài sản của mỗi doanh nghiệp.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.
NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chúng ta muốn phát triển kinh tế tư nhân để có thể cạnh tranh trên thị trường
quốc tế trước khi đưa ra những giải pháp để xây dựng phát triển chúg ta cũng cần
thấy được những thuận lợi cũng như khó khăn mà khu vự kinh tế tư nhân đang
vấp phải để có thể đưa ra những giải pháp hiệu quả nhất.
Sự thuận lợi đầu tiên trong sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đó
chính là do sự đổi mới đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
cũng như sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân
đã mở đường cho sự phát triển của kinh tế tư nhân. Nếu trước đây kinh tế tư nhân
19
là đối tượng chính phải cải tạo thì hiện nay chúng ta coi kinh tế tư nhân là một bộ
phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế tư nhân
là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng
xã hội chủ nghĩa.Vai trò và vị tri của kinh tế tư nhân đang được cả xã tôn trọng.
Việc đổi mới nhận thức này chính là yếu tố cơ bản nhất tạo ra môi trường tâm lí
xã hội thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
Mặt khác để đường lối chủ chương của Đảng có thể đi vào cuộc sống một
cách thiết thực có hiệu quả, Nhà nước đã không ngừng hoàn thiện các chính sách
khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, từng bước bải bỏ các quy định không phù
hợp, cải thiện môi trường pháp lý trong kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính
( trong việc đăng kí kinh doanh, một cửa một dấu… ). Hàng loạt các văn bản pháp
quy đã ra đời như luật thuế, luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty, luật đất đai…
Đã thực sự thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, tạo ra niềm tin
cho các chủ doanh nghiệp.
Chúng ta cũng có thể thấy rằng khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế
năng động do họ có toàn quyền quyết định mọi vấn đề thuộc về doanh nghiệp
(sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai ), họ không bị rằng buộc bởi
một cơ chế khi quyết định một vấn đề kinh tế như doanh nghiệp Nhà nước, vì vậy
họ ra quyết định rất nhanh chóng đây là yếu tố thời cơ tạo nên sự năng động,
thành công của khu vực kinh tế tư nhân. Không những vậy các doanh nghiệp còn
có thể tự do tìm đối tác của mình, tìm thị trường cho mình nên các doanh nghiệp
rất chủ động trong kinh doanh.
Một sự thuận lợi nữa là việc chúng ta đang phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước cho phép tư
nhân tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu, tìm đối tác làm ăn tạo động lực cho
sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi hiện nay kinh tế tư nhân đang gặp nhiều
khó khăn dẫn đến những hạn chế yếu kém trong quá trình phát triển:
20
- Xem thêm -