Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam và nhận thức của đảng cộng sản vi...

Tài liệu Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam và nhận thức của đảng cộng sản việt nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đất nước

.DOCX
34
1
50

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH ĐẠI HỌC BÁCH KHOA  BÀI TẬP LỚN MÔN CHU NGHIA XA HỘI KHOA HỌC ĐỀ TÀI: THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI Ở VIỆT NAM. LIÊN HỆ NHỮNG ĐÓNG GÓP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - XA HỘI CUA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA 34 NĂM ĐỔI MỚI Giảng viên hướng dẫn: ThS.Đă ̣ng Kiề Diễ Thành phố Hồ Chí Minh – 2021 MỤC LỤC PHẦN I: MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 PHẦN II: NỘI DUNG.................................................................................................2 CHƯƠNG 1: THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI Ở VIỆT NAM....2 1.1. ĐẶC ĐIỂM QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI Ở VIỆT NAM..............2 1.2. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CUA CHU NGHIA XA HỘI VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG CHU NGHIA XA HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........4 1.2.1. Những đặc trưng bản chất của chủ nghia xa hội ở Việt Nã.................4 1.2.2. Phương hướng xây dựng chủ nghia xa hội ở Việt Nã hiện nay...........6 CHƯƠNG 2: NHẬN THỨC CUA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI CUA ĐẤT NƯỚC.....................................10 2.1. TÍNH TẤT YẾU CUA THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI Ở VIỆT NAM.............................................................................................................10 2.2. NHẬN THỨC CUA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI...........................................................................12 2.2.1. Thành tự̀ đạt được.................................................................................12 2.2.1.1. Về chính trị.........................................................................................12 2.2.1.2. Về kinh tế............................................................................................15 2.2.1.3. Về văn hóa, con người và xã hội.........................................................18 2.2.1.4. Về đối ngoại và hội nhập kinh tế.........................................................22 2.2.2. Những khó khăn, thách thức...................................................................24 2.4. Một số giải pháp khắc phục các hạn chế, hoàn thiện con đường đi lên xa hội chủ nghia của đất nước...................................................................................28 PHẦN III: KẾT LUẬN.............................................................................................30 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................31 PHẦN I: MỞ ĐẦU Lý do chọn đê tài: Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác cho thấy sự biến đổi các xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên. Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luật vận động của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mong muốn có ngay một chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp để thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa bất công, tàn ác là những điều tốt đẹp, là khát vọng chính đáng. Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền lựa chọn con đường, sự phát triển của mình sao cho phù hợp với xu thế chung của thời đại, với quy luật khách quan của lịch sử và nhu cầu, khát vọng của dân tộc. Do đó, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan hoàn toàn phù hợp với xu thế chung đó. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào Đảng ta vẫn luôn kiên định với con đường xã hội chủ nghĩa. Tại đại hội bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết khẳng định: “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”. Vì vậy, nhằm để nhấn mạnh tầm quan trọng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như là vai trò của Đảng trong thời kỳ quá độ ấy, nhóm đã lựa chọn đề tài: “Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đất nước”. 1|Page PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG 1: THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI Ở VIỆT NAM 1.1. ĐẶC ĐIỂM QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI Ở VIỆT NAM Với sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cùng với những đặc điểm tình hình thực tế ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội”. Qua lời khẳng định của người, chúng ta có thể hiểu quan niệm của ông cũng như của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Để thực hiện được điều đó, chúng ta luôn có những thuận lợi và khó khăn, những yếu tố này luôn đi liền với nhau, cụ thể được biểu hiện qua: Việt Nam xuất phát từ một xã hội là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Do trải qua giai đoạn hàng ngàn năm bị chiến tranh đô hộ của các chế độ thực dân, phong kiến áp đặt nên tàn dư sau đó là điều không thể tránh khỏi. Hơn thế nữa, các thế lực thù địch vẫn không ngừng phá hoại, xuyên tạc, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại với quy mô toàn cầu, thu hút một cách mạnh mẽ đối với tất cả các nước. Điều đó làm cho nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa chịu ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực đến sự phát triển của các quốc gia, các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ và cũng đặt ra thử thách không nhỏ cho Việt Nam khi phải hòa mình vào xu thế nhưng không được phép hòa tan mất đi bản sắc đặc trưng của dân tộc, đất nước. Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các quốc gia với các chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại. Trong môi trường tập thể ấy, các quốc gia phải vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa phải cạnh tranh gay gắt để bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh ấy dù gặp vô vàng khó khăn, thách thức, nhưng kết quả cuối cùng theo sự tiến hóa của lịch sử, 2|Page loài người nhất định phải tiến tới chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, nhân dân Việt Nam phải luôn luôn cứng rắn, kiên quyết với niềm tin con đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng không thông qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà không thông qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng, khoa học và phản ánh đúng với quy luật, đường lối phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ hiện tại. Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã chỉ rõ: “Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc, nhân dân, phản ánh xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin”. Đó chính là tư tưởng mới, nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng này cần được hiểu đầy đủ với những nội dung sau: Thứ nhất, đây là con đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nó là con đường đúng nhất, duy nhất mà Đảng và nhân dân ta sẽ luôn tin tưởng, kiên quyết, bất kể cho các thế lực thù địch luôn tìm cách xuyên tạc, phá vỡ niềm tin mãnh liệt ấy. Thứ hai, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Điều này có nghĩa là trong thời kỳ này, xã hội còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa giờ đây không còn chiếm giữ vai trò chủ đạo trong xã hội nữa. Tương tự, thời kỳ quá độ vẫn còn nhiều hình thức phân phối, ngoài phân phối theo lao động (vẫn giữ vai trò chủ đạo) còn có hình thức phân phối theo mức độ đóng góp và quỹ phúc lợi xã hội. Bên cạnh đó, tuy thời kỳ quá độ vẫn còn tồn tại quan hệ bốc lột và bị bốc lột, nhưng quan hệ bốc lột tư bản chủ nghĩa giờ đây không còn giữ vai trò thống trị như trước nữa. 3|Page Thứ ba là Việt Nam phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. Đặc biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành tựu về quản lý để phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, đặc biệt là phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không được lơ là, phải tiếp thu một cách có chọn lọc, tránh để sai sót, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Cuối cùng là Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Nó là một sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, nó đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao và khát vọng lớn của toàn Đảng, toàn dân thì mới có thể thực hiện được. Chúng ta phải đồng lòng, tin tưởng vào đường lối sáng suốt, chính sách lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để có thể bước qua được thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội một cách viên mãn, thành công. Như vậy, chúng ta thấy rằng, Việt Nam xuất phát điểm đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế còn hết sức lạc hậu, vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu cho nên tất yếu thời kỳ quá độ sẽ phải kéo dài hơn, khó khăn hơn, phức tạp hơn. Đảng và nhà nước ta phải làm những nhiệm vụ mà đáng lẽ ra những nhiệm vụ đó phải thuộc về các giai cấp tầng lớp trước thuộc chủ nghĩa tư bản nên thời kỳ quá độ của chúng ta không thể nóng vội, chủ quan để có ngay chủ nghĩa xã hội mà phải thực hiện từng bước, hoàn thành từng nhiệm vụ trong tổng thể thì mới có thể đạt tới mục đích cuối cùng, đó là thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. 1.2. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CUA CHU NGHIA XA HỘI VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG CHU NGHIA XA HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.2.1. Những đặc trưng bản chất của chủ nghia xa hội ở Việt Nã Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân 4|Page đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước dân chủ cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Và những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội được thể hiện rõ nét lần đầu tiên tại Đại hội Đảng lần thứ VII (26/07/1991)1, đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta với sáu đặc trưng cơ bản sau: - Do nhân dân lao động làm chủ - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu - Có nền văn hóa tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc - Con người được giải phóng khỏi những áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới - Song đến Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng vững vàng và đã có bước phát triển mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã bổ sung và phát triển thành tám đặc trưng2 , đó là: + Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh + Do nhân dân làm chủ + Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. + Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. + Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. + Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. 1 Đảng Cộng sản Việt Nã, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI, Nxb: CTQG, HN 2 Đảng Cộng sản Việt Nã, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI, Nxb: CTQG, HN, 2011, tr68 5|Page + Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do đảng cộng sản lãnh đạo. + Có mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. 1.2.2. Phương hướng xây dựng chủ nghia xa hội ở Việt Nã hiện nay Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 8 phương hướng3 cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau: “Một là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”. Do nước ta có xuất phát điểm đi lên con đường chủ nghĩa xã hội là rất thấp, đó là vừa đi lên từ nền nông nghiệp lạc hậu vừa bỏ qua tư bản chủ nghĩa nên ta chưa có nền công nghiệp hiện đại. Vì lẽ đó nên trong thời kỳ quá độ này chúng ta phải thực hiện phương hướng công nghiệp hóa và phải kèm theo đó là hiện đại hóa, cụ thể là công nghiệp hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, bởi nếu chỉ có công nghiệp hóa truyền thống thì mãi mãi chúng ta sẽ có khoảng cách so với các nước tư bản và các nước phát triển ngày càng xa hơn. Và phải phát triển thêm nền kinh tế tri thức, trước đây sau khi phân tích hiện tồn và nhìn thấy cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong chủ nghĩa tư bản, Mác đã dự báo rằng: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào đó thành lực lượng sản xuất trực tiếp” 4, thực vậy ngày này ta thấy hầu hết tất cả sản phẩm được tao ra có đóng góp từ yếu tố nguyên liệu và cơ bắp là rất thấp, chủ yếu đó là hàm lượng chất xám kết tinh trong sản phẩm. Nhưng đồng thời không được quên bảo vệ tài nguyên và môi trường, đây là một mâu thuẫn cần giải quyết, nhiều nhà đầu tư trong nước chạy theo lợi nhuận mà sẵn sàng hi sinh môi trường như sự kiện “Vedan giết sông Thị Vải – Đồng Nai năm 2006” nên chúng ta phải sử dụng tài nguyên hiện nay sao cho không ảnh hưởng đến thế hệ mai sau. “Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục đích của việc phát triển nền kinh tế thị trường là để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần 3 Đảng Cộng sản Việt Nã, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI, Nxb: CTQG,HN, 2011, tr70 4 C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb: Chính trị q̀ốc gia, Hà Nội, 2000, t. 46, phần II, tr. 372 – 373 6|Page của người dân và phải định hướng theo xã hội chủ nghĩa là vì lợi ích của nhân dân và xuất phát từ lợi ích nhân dân. “Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Tiếp tục xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phải xây dựng con người, con người ở đây là chỉ con người mới xã hội chủ nghĩa, như chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”5, con người này phải có trình độ, có tác phong công nghiệp, phải có bản lĩnh chính trị và hiểu được mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kèm theo là phải nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. “Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội”. Nhìn lại lịch sử của dân tộc Việt Nam, đó là lịch sử đi cùng với việc dựng nước và giữ nước, đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, ngày nay cũng vậy trong nước có các thế lực phiến loạn, “dân chủ cuội” sẵn sàng xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa xã hội, và đặc biệt chiến lược mà chúng đã và đang sử dụng là một chiến lược rất thành công trong việc lật đổ các nước Liên Xô và Đông Âu đó là chiến lược “diễn biến hòa bình – bạo loạn lật đổ” trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị đến kinh tế, văn hóa tư tưởng, chẳng hạn như sự kiện “Tây Nguyên 2001-2004”. Do đó phải bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh, muốn làm được điều ấy thì trước hết phải xây dựng trên một cơ sở kinh tế vững mạnh, thu nhập bình quân đầu người của nước ta phải cao thì ta mới có thể chi ra cho quốc phòng, an ninh để mua hoặc sản xuất các loại vũ khí để bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân. “Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Đường lối đối ngoại của ta phải là độc lập, tự chủ, độc lập ở đây là độc lập thực sự, trải qua mồ hôi, xương máu mới có được nên ta phải tự chủ không bị sự can thiệp, áp đặt của các thế lực từ bên ngoài, phải hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Đồng thời phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế do xu thế hội nhập quốc tế hiện nay là điều tất yếu, một quốc 5 Báo q̀ân kh̀ 7, Nxb: Báo q̀ân kh̀ 7, 2020 7|Page gia nào trong điều kiện hiện nay quay lưng lại với hội nhập quốc tế thì quốc gia đó chắc chắn không phát triển và tiến bộ được và nước ta muốn tích cực hội nhập thì phải dựa trên nội lực của mình đó là tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực con người dồi dào, ở Việt Nam hiện nay giá lao động đang rẻ, đặc biệt là trong thời kỳ dân số vàng hiện nay,… “Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất”. Phương hướng này nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động sức lực, trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. “Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nhân dân sẽ được thực hiện quyền của mình trực tiếp nhất thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước này phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân. “Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”. Vì Đảng giữ vai trò lãnh đạo, lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương nên đảng phải thực sự trong sạch và vững mạnh. Những phương hướng trên vừa là kết quả tổng kết thực tiễn vừa là kết quả nghiên cứu lý luận, học hỏi kinh nghiệm quốc tế của Đảng và nhà nước ta. Và trong quá trình thực hiện tám phương hướng cơ bản kể trên thì trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta còn yêu cầu phải đặc biệt chú trọng và giải quyết thêm “tám mối quan hệ lớn”6. Song sau 30 năm tổng kết và đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt: kinh tế, xã hội, phúc lợi, an ninh trật tự,… và tại Đại hội Đảng lần XII (2016) từ bài học kinh nghiệm 30 năm đổi mới, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, Đảng một 6 Đảng Cộng sản Việt Nã, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb: CTQG,HN, 2011, tr 72-73 8|Page lần nữa quán triệt và đặt mục tiêu thực hiện tốt “12 nhiệm vụ”7 cơ bản và “9 mối quan hệ lớn”8 7 Đảng Cộng sản Việt Nã, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII, Nxb: CTQG,HN, 2016, tr77-80 8 Đảng Cộng sản Việt Nã, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII, Nxb: CTQG,HN, 2016, tr80 9|Page CHƯƠNG 2: NHẬN THỨC CUA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI CUA ĐẤT NƯỚC 2.1. TÍNH TẤT YẾU CUA THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI Ở VIỆT NAM Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, sau khi hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta chuyển sang thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Nhưng thực tế, cho đến nay vẫn còn không ít người hoài nghi về tính tất yếu của bước quá độ này, thậm chí có ý kiến cho rằng, không cần sử dụng phạm trù thời kỳ quá độ hoặc nên lựa chọn một con đường khác. Bởi vậy, làm rõ tính tất yếu khách quan và nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN ở nước ta vẫn là một vấn đề lý luận và thời sự cấp bách trong hoàn cảnh hiện nay. Khi phân tích những mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản và những đặc trưng của xã hội cộng sản, Các Mác đã chỉ ra rằng, từ xã hội TBCN lên xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN) là cả một thời kỳ lịch sử lâu dài, từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công CSCN. Trong quan niệm đó, thời kỳ quá độ được coi là một quá trình cải biên từ xã hội TBCN lên xã hội CSCN. Trên cơ sở thực tiễn của Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga và thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô, Lê Nin đã phát triển nhiều luận điểm mới cho rằng, từ CNTB lên CNXH có một thời kỳ lịch sử đặc biệt, đó là thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh bổ sung thêm, các nước thuộc địa, nô lệ, tiền TBCN đặt trong chủ nghĩa Mác-Lênin có thể quá độ lên CNXH. Vì vậy, con đường quá độ từ CNTB lên CNXH và CNCS là một tất yếu khách quan, không thể đảo ngược được. Nước ta đi lên CNXH là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tiến hóa của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới. Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử, thời kỳ chuyển biến cách mạng mà bất cứ quốc gia nào đi lên 10 | P a g e CNXH cũng đều phải trải qua. Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu lịch sử. Bởi vì, thời đại chúng ta đang sống là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định, CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng hình thái kinh tế-xã hội CSCN mà giai đoạn đầu là giai đoạn XHCN. Đảng ta ngay từ khi mới ra đời, trong cương lĩnh (năm 1930) đã khẳng định mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của nước ta là độc lập dân tộc và CNXH. Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc, lại phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta là một tất yếu lịch sử. Tuy nhiên, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta sẽ lâu dài và gian khổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái mới, cái tiến bộ nhất định thắng”. Nước ta là một nước nông nghiệp, công cuộc thay đổi xã hội cũ thành xã hội mới sẽ gian nan và phức tạp hơn đánh giặc, vì phải đấu tranh với kẻ địch nguy hiểm khác đó là nghèo nàn, đói khổ và lạc hậu. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử nước ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải cải biến quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới. Đó là cuộc cách mạng vĩ đại, vẻ vang nhất trong lịch sử loài người, nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go, phức tạp và đầy khó khăn. Trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay, nước ta luôn có những khả năng và tiền đề để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ngay cả trong điều kiện không còn hệ thống XHCN thế giới. CNTB có vai trò lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xã hội hóa lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu TBCN. Quá trình này diễn ra một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ. Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo định hướng XHCN. Sự rút ngắn này 11 | P a g e chỉ có thể thực hiện thành công với điều kiện chính quyền thuộc về Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức đầy đủ sự rút ngắn ở đây không phải là công việc có thể làm nhanh chóng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tiến lên CNXH, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục; CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần”. Do đó, chúng ta không thể nóng vội tiến ngay lên CNXH mà còn phải duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong một thời gian tương đối dài. Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, giúp chúng ta khắc phục được những quan niệm đơn giản, duy ý chí về thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước đang phát triển. Đồng thời, chúng ta không ngừng tiếp thu có chọn lọc, tận dụng phù hợp với giá trị của nền văn minh nhân loại để hiện thực hóa con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn. 2.2. NHẬN THỨC CUA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHU NGHIA XA HỘI 2.2.1. Thành tự̀ đạt được 2.2.1.1. Về chính trị  Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của Đảng Đảng ta đã xác định rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng theo Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và nhiều văn kiện của Đảng sau đó. Khẳng định rõ hơn, quyết liệt hơn, Đảng ta là “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam” 9. Cơ sở tư tưởng, kim chỉ nam xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng được khẳng định đầy đủ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lê-nin làm hệ tư tưởng. Hồ Chí Minh làm cơ sở tư tưởng và phương châm 9 Đảng Cộng sản Việt Nã, Điều lệ Đảng, Nxb: CTQG, H. 2011, tr. 4 12 | P a g e hành động”, dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Công tác cán bộ của Đảng bộ tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện cụ thể, toàn diện và đồng bộ. Bộ máy Đảng trở nên cơ động, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Công tác phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên đã có kết quả ngay từ đầu. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được cập nhật: vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của Đảng trong việc lãnh đạo hệ thống chính trị được xác định rõ hơn, sâu sắc hơn. Dân chủ trong Đảng ngày càng tiến bộ và Đảng ngày càng khẳng định khả năng hoạch định đường lối, chỉ đạo chính trị, tư duy chiến lược và tổ chức thực hiện các sáng kiến, chủ trương đó trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.  Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Quốc hội đã có những bước đổi mới quan trọng, từ bầu cử đại biểu đến đổi mới tổ chức bộ máy và chế độ làm việc, tăng cường bộ phận chuyên trách. Phương thức bầu cử đại biểu Quốc hội đã được cập nhật, phù hợp với yêu cầu dân chủ và pháp quyền. Nhiều quy định mới, cách làm mới như cho phép tự do ứng cử, tăng số lượng đại biểu chuyên trách, quan tâm đến tiêu chuẩn đại biểu nhằm cải thiện công việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Quốc hội và các Ủy ban đã cải tiến nội dung, phương thức làm việc; bảo vệ nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và cơ chế làm việc của các thiết chế của bộ máy nhà nước từng bước được cập nhật, hoàn thiện và hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn và ngày càng trở nên dân chủ hơn. Việc giám sát, thảo luận và ra quyết định đối với các vấn đề quốc gia quan trọng quốc gia đã trở nên chất lượng và thực tiễn hơn. Quốc hội đã làm tốt hơn công việc đưa ra quyết định. Chỉ thống kê số lượng các luật, quy định được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua từ năm 1986 đến năm 2016. Nó đã tăng gần gấp 8 lần so với luật và quy định được ban hành trong 41 năm trước (483/63); trong 4 năm 2016 - 2020, Quốc 13 | P a g e hội đã ban hành 65 luật và 99 nghị định, trong đó có nhiều đạo luật quan trọng nhằm thể hiện và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản và nghĩa vụ của xã hội, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, có một số luật mới lần đầu tiên được Quốc hội ban hành như luật An ninh mạng, luật Quản lý Ngoại thương, luật Phòng chống tác hại của rượu bia, v.v. Chính phủ cũng đã có những thay đổi đáng kể về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động. Nguyên tắc pháp quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước được chấp hành tốt hơn. Hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước được nâng lên, các nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước từng bước được thực hiện. Quyền lực trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước đã có những cơ chế kiểm soát và đạt được một số thành công nhất định. Các thủ tục của chính phủ dựa trên sự đổi mới quan trọng, chủ yếu quản lý ở tầm vĩ mô thông qua chính sách, kế hoạch, pháp luật. Thực hiện một bước trong quản lý bền vững, với nhiều cải cách hành chính, loại bỏ nhiều thủ tục, văn bản nhũng nhiễu, gây phiền hà. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả; trong đó đã tập trung chỉ đạo, xử lý nghiêm và công khai kết quả xử lý nhiều vụ việc tham nhũng, góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập. Hệ thống tư pháp đã được cải thiện phù hợp với nhu cầu dân chủ và pháp quyền. Chức năng, nhiệm vụ và phương thức làm việc của các cơ quan tư pháp ngày càng được xác định rõ ràng hơn. Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tối cao và cấp tỉnh có một số thay đổi; thành lập các toà án chuyên trách mới (như toà thương mại, toà lao động, toà hành chính). Cơ cấu tổ chức của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã được điều chỉnh để tập trung vào việc thực hiện các chức năng hành chính và thực thi pháp luật, giám sát và xử lý 14 | P a g e các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và các trường hợp phá sản của doanh nghiệp. Trong tố tụng, có một quy trình khoa học hơn, nâng cao hiệu quả tranh tụng và chú trọng vai trò của luật sư. Quyền hạn của Tòa án cấp huyện được tăng lên cùng với việc nâng cao chất lượng giải quyết tố tụng, phát huy vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết bước đầu được thực hiện có hiệu quả. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng được cải tiến để hạn chế tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan, bỏ lọt tội phạm. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử và các biện pháp thi hành án sẽ được nâng cao. 2.2.1.2. Về kinh tế  Chuyển nền kinh tế từ thế bị bao vây, cấm vận, khép kín sang nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế Bước vào công cuộc đổi mới, Đảng xác định phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Đảng ta đã quyết định từ bỏ mô hình tập trung bao cấp, tiến tới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với tư cách là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và phân phối. Từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là việc tạo lập môi trường cạnh tranh, bình đẳng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và mở cửa nền kinh tế, chủ động hội nhập quốc tế. Chính những sự thay đổi ấy đã đem lại những bước chuyển mình của nền kinh tế Việt Nam. Tính đến tháng 7 năm 2000, Việt Nam đã ký hiệp định thương mại với 61 nước trong đó có Hoa Kỳ, nâng tổng số nước có quan hệ ngoại thương với nước ta từ 50 nước năm 1990 lên 170 nước năm 2000. Đến đầu năm 2020, Việt Nam đã gia nhập 16 hiệp định thương mại tự do (FTA),có quan hệ thương mại với 224 đối tác, trong đó hơn 70 quốc gia là thị trường xuất khẩu của chúng ta; có quan hệ với hơn 500 tổ chức quốc tế; 71 quốc gia công nhận quy chế kinh tế thị trường của 15 | P a g e Việt Nam; các đối tác hợp tác trong nước và địa phương và các công ty nước ngoài ký 420 thỏa thuận quốc tế, tăng 20,3% so với 2014-2016.  Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, một nền kinh tế triển vọng của Châu Á Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước năm 1986, bước đầu đã đạt được những kết quả rất quan trọng. Đến năm 1995, hầu hết các mục tiêu chủ yếu của “Kế hoạch 5 năm” (1991-1995) đã được hoàn thành, sự nghiệp đổi mới đã giải phóng đất nước khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết trong thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sau 10 năm đổi mới (1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội và sau 25 năm đổi mới (năm 2010) đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Từ năm 2006 đến năm 2010, nền kinh tế nước ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức khá, tiềm lực và quy mô kinh tế phát triển nhanh, nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Giai đoạn 2011-2020, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp tạo môi trường và động lực hiệu quả phát triển kinh tế- xã hội. Đặc biệt khi đại dịch COVID 19 xuất hiện và làm “chao đảo” nển kinh tế trên toàn cầu, Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể, theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại lễ kỷ niệm 75 năm thành lập Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 31/12/2020, năm 2020, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt khoảng 343 tỷ USD, đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư ASEAN, GDP bình quân đầu người đạt 3.521 USD đứng thứ 6 ASEAN. Bất chấp đại dịch Covid-19, nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng đầy bản lĩnh. Tạp chí The Economist (Anh) tháng 8/2020 đã xếp Việt Nam trong tốp 16 nền kinh tế mới nổi thành 16 | P a g e công nhất thế giới. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2019, với tăng trưởng kinh tế bình quân 6,8%/năm giai đoạn 2016 - 2019, Việt Nam nằm trong tốp 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất.  Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế từng bước được đẩy mạnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã xác định: “Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta”10. 20 năm đầu, công nghiệp hóa diễn ra trong điều kiện có chiến tranh. Những năm sau, vấn đề công nghiệp hóa vẫn trì trệ do khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chỉ đến khi tư duy kinh tế được đổi mới và nhất là từ Đại hội Đảng lần VIII (1996), công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta mới được xác định một cách đầy đủ, với mục tiêu: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Trong 35 năm đổi mới, đặc biệt sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, nhận thức của Đảng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những bước phát triển mới về cả nội dung và phương thức thực hiện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tích cực thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bước đầu tạo môi trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại Từ năm 2011- 2020, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 xuống 13,1% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng tương ứng từ 81,1% lên 86,9%. Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có tiến bộ. Cơ khí hóa, điện tử hóa, thủy lợi hóa, sinh học hóa,… được chú trọng gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới. Tốc độ triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện, nhiều dây chuyền công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến, quy trình quản lý 10 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, tập 1, trang 65 17 | P a g e công nghiệp hiện đại được áp dụng. Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao, thị trường được mở rộng. Một số ngành dịch vụ mới, chủ lực có giá trị gia tăng cao như khoa học - công nghệ, thiết kế công nghiệp, nghiên cứu thị trường, tài chính, ngân hàng, viễn thông,... đã hình thành và từng bước phát triển. Việc phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao có tiến bộ, tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng nền kinh tế tri thức. 2.2.1.3. Về văn hóa, con người và xã hội  Văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, đại chúng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ;công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc đạt nhiều kết quả; di sản văn hóa đang trở thành tài nguyên độc đáo của du lịch Việt Nam Nhận thức của Đảng và Nhà nước, của nhân dân về vai trò của văn hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đầy đủ và nâng cao. Trong đường lối đổi mới xây dựng, phát triển đất nước, Đảng xác định ba trụ cột quan trọng nhất, trong đó, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển kinh tế xã hội là trung tâm và xây dựng văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Trên cơ sở ấy, Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hóa với vai trò không chỉ là “nền tảng tinh thần vững chắc” của xã hội, mà còn là “sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” nhằm phát huy, hình thành các nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam. Sản phẩm văn hóa tăng đáng kể về số lượng, chất lượng. Văn học, nghệ thuật đã tạo ra nhiều tác phẩm phản ánh mọi lĩnh vực đời sống, nỗ lực đổi mới tư duy sáng tạo, tìm tòi phương thức thể hiện mới để nâng cao năng lực khám phá cuộc sống. Ngành nghệ thuật biểu diễn có sự phát triển phong phú và đa dạng. Nhiều loại hình văn hóa, nghệ thuật đã có bước phát triển năng động, thích nghi với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Sức sáng tạo của nhân dân được phát huy trong các hoạt động sáng tác, biểu diễn, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật,.... Nhiều giá trị văn hóa Việt Nam, được 18 | P a g e
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan