BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT
KHOA XÂY DỰNG
TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM – 7020301
ĐỀ TÀI 8: Đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới.
Trách nhiệm cảu sinh viên trong việc thực hiện chính sách đối
ngoại và hội nhập quốc tế.
Hà Nội, 2021
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
1.
Lý do chọn đề tài:...................................................................................1
2.
Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:.........................................................1
3.
Phương pháp nghiên cứu:.....................................................................2
4.
Phạm vi nghiên cứu ( cục dạng thời đại và nội dung):.......................2
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................4
1. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế là đòi hỏi
khách quan của đất nước và xu thế chung của cả thế giới.........................4
1.1. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế....................................................................................4
1.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
chính sách đối ngoại....................................................................................4
1.1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc............................................5
1.2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và xu thế của thế giới6
1.2.1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước..................................6
1.2.2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới........................................7
2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ
RỘNG CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI.........................................................7
2.1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới...............7
2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1995)..........9
2.2.1. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991).....................................9
2.2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995).....12
2.3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-đến nay):. 13
2.3.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004):....13
2.3.2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 – đến nay). 16
3. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI................................................20
3.1 Chủ trương, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới. 20
3.2. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực...............................24
1
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
3.3. Một số bài học bước đầu về chính sách đối ngoại...........................26
4.1. Những cơ hội của sinh viên...............................................................28
4.2. Thách thức, khó khăn khi sinh viên.................................................29
4.3 Trách nhiệm của sinh viên.................................................................30
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................31
2
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
PHẦNMỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài:
Tình hình thế giới tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó
lường về ngoại giao giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Toàn cầu
hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia
lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà
bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế hàng đầu của mỗi quốc gia, phản ánh
đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.
Sau khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã
lớn mạnh, có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, môi
trường hoà bình. Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong tiến
hành công cuộc Đổi mới với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp
tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm:
“Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã và
đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để cùng
nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói
nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, ...
Những nỗ lực của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với
bạn bè ở khu vực và quốc tế. Việt Nam sẽ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hợp tác quốc tế, độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an
ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc…
Chính vì những lý do trên nhóm chúng em chọn đề tài nghiên cứu “ĐƯỜNG
LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ
SAU NĂM 1986 ĐẾN NAY” .
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Mục đích:
Thông qua quá trình xác định chính sách đối ngoại theo đường lối đổi mới
toàn diện đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy cảm
chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính
sách đối ngoại phù hợp với chính sách đối nội và xu thế thời đại để hội nhập
với cộng đồng quốc tế vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
Nhiệm vụ:
3
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
+ Trình bày những cơ sở dẫn đến sự xác định chính sách đối ngoại theo
đường lối đổi mới
+ Trình bày các giai đoạn phát triển của đường lối đối ngoại đổi mới, cái
mới, cái sáng tạo của Đảng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại đổi
mới.
+ Thông qua việc phân tích những thành tựu, tồn tại khẳng định chủ
trương “độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá” quan hệ quốc tế là quyết
sách đúng đắn, nhạy bén của Đảng, từ đó bước đầu nêu lên những kinh nghiệm
thực hiện chính sách đối ngoại.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Theo phương pháp luận sử học, đồng thời dựa vào phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và
kết hợp chặt chẽ các phương pháp lịch sử với so sánh, thống kê nhằm làm nổi
bật những thắng lợi trong đường lối chính sách đối ngoại của Đảng gần 20 năm
qua
4. Phạm vi nghiên cứu ( cục dạng thời đại và nội dung):
Chính sách đối ngoại của Đảng là một đề tài rộng khoá luận đề cập tới
những vấn đề sau.Thời gian và không gian đề cập là từ năm (1986 – đến nay) ở
Việt Nam. Đây là thời kỳ Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm
đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của đất nước và đáp ứng xu thế thời đại.
4
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình làm bài, chúng em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ
mọi người, đặc biệt là thầy Nguyễn Tuấn Vương . Chúng em rất cảm ơn thầy
đã có những hướng tận tình và kịp thời trong quá trình chúng em làm tiểu luận.
Đồng thời, chúng em cũng xin cảm ơn các thầy, cô trong bộ phận thư viện nhà
trường và các thầy cô trong khoa lí luận chính trị thuộc trường đại học Mỏ Địa Chất Hà Nội đã tạo điều kiện cho nhóm chúng em tìm kiếm thông tin,tài
liệu…và hoàn thành bài này.Tuy chúng em đã cố gắng làm thật tốt,nhưng cũng
không thể tránh khỏi những sai sót nhất định, nên chúng em rất mong muốn
thầy và các bạn góp ý chân thành để chúng em hiểu biết hơn về chủ trương,
đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cùng với đó là sự nhận thức sâu sắc
hơn về những vấn đề mang tính quan trọng và những chiến lược, hướng đi
mang tầm quốc gia của nước ta trong những năm tới.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
5
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
1. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế là đòi hỏi khách
quan của đất nước và xu thế chung của cả thế giới.
1.1. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế.
1.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
chính sách đối ngoại
Giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ
chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua
thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.Củng cố
và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các
phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở
rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh
hoạt, sáng tạo và hiệu quả”. Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của
nhân dân thế giới, tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác
với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế – xã hội.Chủ
động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối thoại với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền.
Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn
đề “dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội
bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính
trị của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với
các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, phục vụ lợi ích đất nước
làm mục tiêu .Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù
hợp với chiến lược phát triển đất nước. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các
hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp
6
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
tác toàn diện có hiệu quả với các nước ASEAN, châu Á – Thái Bình Dương…
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ
sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định
và minh bạch.
Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến thương mại đầu tư,
phát triển thị trường, sản phẩm và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh
nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn
đầu tư ra nước ngoài.Đẩy mạnh công tác văn hoá – thông tin đối ngoại, góp
phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước. Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại
vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có
đạo đức và phẩm chất tốt.Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu
về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và
các nhà khoa học.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước
đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, Nhà nước và nhân dân; chính trị và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc
phòng và an ninh; thông tin trong và ngoài nước.
1.1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam
luôn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, gian khổ. Qua những thăng trầm
ấy, ngoại giao Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát triển, vừa mang
đậm bản sắc dân tộc, vừa kết tinh những tinh hoa của nhân loại để tạo nên một
bản sắc riêng của nền ngoại giao Việt Nam.
Ngoại giao Việt Nam truyền thống bắt nguồn từ ý chí đấu tranh kiên cường
cho độc lập, tự do của dân tộc với nhiều tấm gương điển hình như Lý Thường
Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi... và nhiều bài học sâu sắc và bổ ích về
quan hệ với lân bang, ứng xử trong đối ngoại... Đó còn là lòng mong muốn hòa
bình, hòa hiếu, thủy chung, xuất phát từ bản chất nhân văn sâu sắc và truyền
thống yêu chuộng hòa bình vốn có của người Việt... Lịch sử đấu tranh bất
khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã mang lại cho ngoại giao
Việt Nam tính chiến đấu cao, bản chất hòa bình, hòa hiếu, nhân nghĩa, thủy
chung, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.
Tư tưởng đối ngoại và phong cách ngoại giao của Người là sự kết tinh
truyền thống của dân tộc và tinh hoa của nhân loại, trong đó ngoại giao nhân
7
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
dân là một “binh chủng” đa kênh và đa năng quan trọng, cùng với ngoại giao
Đảng và Nhà nước hợp thành nền ngoại giao tổng hợp của quốc gia
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, các nước tiến hành các hoạt động ngoại giao
dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng quy tụ lại thành hai loại chính là ngoại
giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Ngoại giao nhà nước là mối quan hệ
giữa chính phủ với chính phủ của các nước có chủ quyền, giữa các nhà lãnh
đạo của các nước. Các quan chức làm việc trong các đại sứ quán hoặc cơ quan
đại diện ngoại giao của một nước ở nước ngoài là những người đại diện cho
chính phủ ở nước sở tại. Ngoại giao nhân dân là một hình thức hoạt động quan
hệ đối ngoại do các tổ chức, các đoàn thể, hoặc cá nhân thuộc nhiều lĩnh vực
tiến hành, không mang tính chất chính thức của Chính phủ.
Hoạt động của ngoại giao nhân dân là phát huy “sức mạnh mềm” của một
nước, hỗ trợ cho ngoại giao nhà nước để thực hiện chính sách đối ngoại mà
chính phủ nước đó đề ra. Ngoại giao nhân dân là lực lượng quan trọng của mặt
trận ngoại giao và ưu thế của ngoại giao nhân dân là có thể đi đầu, có thể đi
trước tại những nước, những khu vực và về một số vấn đề mà ngoại giao chính
thức của nhà nước chưa có điều kiện triển khai.
Hồ Chí Minh chủ trương đối ngoại rộng mở, mở rộng lực lượng theo
phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tránh đối đầu “không gây thù oán với một
ai”, tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể nhằm tập
hợp lực lượng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều tầng,
nhiều nấc. Người từng nói: “Đường lối tấn công vào lòng người, chinh phục
bằng đạo lý, chuyển hóa bằng nhân tình, thuyết phục lòng người để nhân lên
sức mạnh của chính nghĩa”. Như vậy, với Hồ Chí Minh, ngoại giao không chỉ
là sự nghiệp của toàn dân, mà còn phải lôi kéo, thuyết phục bằng chính nghĩa
để nhân dân và bạn bè thế giới ủng hộ, giúp đỡ mình.
Ngoại giao Việt Nam hiện đại bắt đầu từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời (1945) và vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dẫn
dắt và rèn luyện. Ngoại giao Việt Nam hiện đại là sự kết hợp tài tình giữa ngoại
giao truyền thống Việt Nam với những tư tưởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ
Chí Minh được vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Trải qua những giai đoạn khác nhau, trong thời chiến cũng như trong thời bình,
ngoại giao Việt Nam hiện đại đã kế thừa xứng đáng truyền thống cha ông, góp
phần không nhỏ vào bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước
ngày càng phồn thịnh.
1.2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và xu thế của thế giới
1.2.1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước
8
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Năm 1975 nước ta hoàn toàn giải phóng, tổ quốc hòa bình, thống nhất cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được
thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số
thành tựu quan trọng. Chiến tranh vừa kết thúc thì nước ta phải tập trung vào
công cuộc khắc phục hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh, thì lại xảy
ra hai cuộc chiến là chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia, và cuộc
chiến biên giới phía Bắc với Trung Quốc. Hai cuộc chiến này đã làm suy giảm
tiềm lực của đất nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những âm
mưu thâm độc phá hoại nước ta. Đại hội Đảng lần V (3-1982) nhận định
“Nước ta đang ở trong tình thế vừa có hòa bình vừa phải đương đầu với một
kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Mặt khác do tư tưởng chủ quan, nóng
vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngắn đã dẫn đến
những khó khăn về kinh tế xã hội.
1.2.2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới
Trong khi đó trên thế giới, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh
mẽ; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế
giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa hoãn của các
nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương, hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới
phát triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống nước xã hội chủ nghĩa đã và
đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mạnh. Tuy nhiên, đến
giữa thập kỉ 70, tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện
sự trì trệ và mất ổn định. Trong các nước xã hội chủ nghĩa cũng xuất hiện
những mâu thuẫn bất đồng, Đông Nam Á cũng đã có những chuyển biến mới.
Sau năm 1975, Mỹ đã rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa: khối quân sự
SEATO tan rã; ngày 24 – 2 – 1976, các nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện
và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là hiệp ước Bali), mở ra cục diện hòa bình
hợp tác trong khu vực.
2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG
CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI
2.1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới.
Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là "Ra
sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những
vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta". Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng
9
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam
với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng
có lợi.
Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối
ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô là
hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra
sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia
đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á
hoà bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982)xác định: Công tác đối ngoại phải trở
thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính
sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.Về
quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác toàn
diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn đá tảng trong
chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đăc biệt Việt Nam-LàoCampuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các
nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để
giải quyết các trở ngại; nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình
và ổn định; chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ
sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan
hệ bình thường về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, với tất
cả các nước không phân biệt chế độ chính trị.
Thực tế cho thấy ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai
đoạn (1975-1986) là xây dựng quan hệ hợp tác.Từ năm 1975 đến năm 1977,
nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15-9-1976,
Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Qũy tiền tệ quốc tế (IFM); ngày
21-9-1976, tiếp ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB); ngày 239-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); ngày 20-9-177, tiếp
nhận ghế thành viên Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động trong
phong trào không liên kết… Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ
hợp tác kinh tế với Việt Nam.Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á:
Cuối năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức
ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
10
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Những kết quả đối ngoại trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng
Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và
mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước hệ thống chủ nghĩa đã tranh
thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh;
việc trở thành thành viên chính thức của Qũy tiền tệ quốc tế; Ngân hàng thế
giới; Ngân hàng phát triển châu Á và thành viên chính thức của Liên hợp quốc,
tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh
thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước , các tổ chức quốc tế đồng thời phát
huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Việc thiết lập quan hệ ngoại
giao với các nước trong tổ chức ASEAN đã tạo thuận lợi để triển khai các hoạt
động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu
vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Hạn chế và nguyên nhân.
Nhìn tổng quát, từ năm 1975- 1986, quan hệ hợp tác của Việt Nam gặp
những khó khăn trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây, cộ lập trong đó đặc biệt từ
cuối thập kỷ 70 đến thế kỷ XX, lấy cớ “ sự kiện campuchia” các nước ASEAN
và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam…
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn
này chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và
chay đua kinh tế trên thế giới. Do đó, đã tranh thủ được các nhân tố thuận lợi
trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế
sau chiến tranh; không kịp thời đổi mối quan hệ đối ngoại phù hợp với tình
hình. Nguyên nhân những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn ( 1975
-1986) đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “ bệnh chủ quan, duy ý
chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ
quan”.
2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1995)
2.2.1. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)
Hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam được bắt đầu từ năm
1986. Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (tháng 7/1986) chủ trương
chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Đến
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng nhấn mạnh : “Ra sức kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ hòa bình ở Đông Dương, góp
phần giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
Quốc…”. Hòa bình ở khu vực và thế giới có quan hệ gắn kết với nhau, thế giới
có hòa bình thì các khu vực mới có hòa bình và ngược lại. Đổi mới toàn diện,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) của Đảng đề ra chính
11
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
sách đối ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Đại hội
khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà
bình và hữu nghị”. Về quan hệ với các nước khu vực Đông Nam Á: “Chúng ta
mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải
quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây
dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác”. Đại hội VI
nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là "... tranh thủ điều kiệnquốc tế thuận lợi cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc"... và "cần hoà bình để
phát triển kinh tế". Nghị quyết của Đại hội VI và các nghị quyết của Trung
ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở
rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị
- xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị, phù hợp với lợi ích của nhân
dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo,
sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, đồng thời là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia nhập
ASEAN của Việt Nam.
Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu và
những chính sách đối ngoại lớn. Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam lúc này là
hòa bình và phát triển. Đảng và Nhà nước ta quyết tâm giải quyết vấn đề
Campuchia, từ đó giải quyết vấn đề bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc,
ASEAN và Hoa Kỳ.
Từ giữa những năm 80, các nước lớn và ASEAN đi vào hòa hoãn, hợp tác giải
quyết các vấn đề khu vực, trong đó có vấn đề Campuchia. Đại hội VI đã khẳng
định “chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương
lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại
hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác”.
Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI 20/5/1988) là mốc khởi đầu của
quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta. Nghị
quyết khẳng định nước ta “lại càng có những cơ hội lớn để có thể giữ hòa bình
và phát triển về kinh tế” và xác định “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc
phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ
càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội hơn”. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thay chủ trương 10 năm trước tăng
cường liên minh 3 nước Đông Dương làm đối trọng với các nước ASEAN.
Ngược lại, chúng ta khẳng định không đối lập nhóm 3 nước Lào, Việt Nam,
Campuchia, xã hội chủ nghĩa với nhóm ASEAN, tư bản chủ nghĩa.
Nghị quyết nêu rõ chúng ta cần có chính sách toàn diện với Đông Nam Á,
trước hết là tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt với Indonexia, phá vỡ bế
tắc trong quan hệ với Thái Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học 12
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
kỹ thuật, văn hóa với các nước trong khu vực, thúc đẩy việc xây dựng khu vực
hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt nghị quyết cũng nhắc lại lời
cảnh báo của nghị quyết 32 khóa V về nguy cơ tụt hậu xa hơn “nếu chúng ta lại
để lỡ những cơ hội lớn đó thì sẽ gặp những thách thức mới và sẽ bị thua kém
về mọi mặt so với nhiều nước trên thế giới”. Ra sức tranh thủ sự đồng tình của
thế giới, làm thất bại âm mưu cô lập ta về kinh tế và chính trị; lợi dụng sự phát
triển của khoa học - kỹ thuật, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công
lao động quốc tế.
Thực hiện chủ trương trên, ta đã mời ngoại trưởng Indonexia sang thăm và ký
Thông cáo chung Việt Nam - Indonexia tại thành phố Hồ Chí Minh ngày
29/07/1987, vừa khai thông quan hệ song phương, mở đường cho xu thế đối
thoại, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia. Việt Nam đã từng bước rút quân
khỏi Campuchia từ 1984 – 1989. Như vậy vấn đề Campuchia đi dần vào giải
pháp hòa bình. Trước những tiến triển mới đó, các nước ASEAN bắt đầu phát
triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam tham gia vào
hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3
họp tại Manila ( Philipin ) Tổng thống Philipin C.V. Akinô tuyên bố không coi
Việt Nam là mối đe dọa đối với Philipin. Tiếp đó tháng 2/1989 Bộ trưởng
Ngoại giao Philipin tuyên bố “ không chống lại việc Việt Nam gia nhập
ASEAN”. Còn thủ tướng Thái Lan Chatichai, khi lên cầm quyền tháng 8/1988,
đã đưa ra chủ trương “ Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”.
Chính sách trên của Thái Lan đã được thủ tướng Malaysia tuyên bố ủng hộ
(6/1989). Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI, Nhà nước ta cũng
luôn khẳng định lập trường của Việt Nam là được chung sống hoà bình với các
nước trong khu vực, sẵn sàng hợp tác để xây dựng Đông Nam Á thành một khu
vực hoà bình, ổn định và phát triển. Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các
nhà báo châu Á - Thái Bình Dương tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh một lần nữa nhấn mạnh:
Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các
nước trong khu vực.Tại Hội nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch
tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á”.
Những phát biểu trên một lần nữa nhấn mạnh quan điểm trước sau như một của
Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề gia nhập ASEAN. Quan hệ Việt Nam –
ASEAN đã được đẩy mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện
chính trị nổi bật và quan trọng nhất trong quan hệ hai bên đó là Tổng thống
Indonexia Xuhacto, nguyên thủ của một nước ASEAN đầu tiên, thăm hữu nghị
chính thức Việt Nam tháng 10/1990. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng lần lượt
thăm hữu nghị chính thức Indonexia, Vương quốc Thái Lan và Cộng Hòa
Singapore từ ngày 24/10 đến ngày 01/11/1991.
13
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Kể từ giai đoạn này, các nước ASEAN tách dần khỏi lập trường của Trung
Quốc về vấn đề Campuchia, vượt qua chính sách bao vây cấm vận của Hoa Kỳ
đối với Việt Nam để đi vào cải thiện quan hệ với Việt Nam - Đông Dương.
Buôn bán hai chiều Việt Nam - ASEAN đã tăng từ 107 triệu đô la Mỹ năm
1985 lên 740 triệu đô la Mỹ năm 1991.
Chúng ta đã giải quyết được vấn đề Campuchia trên cơ sở giữ vững một số
thành quả của cách mạng Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc, khai thông quan hệ với các nước ASEAN tạo dựng tiền để để ta tham gia
tổ chức này nhằm xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định, hợp tác
để phát triển, từng bước cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ từ đó có điều kiện tăng
cường quan hệ với Nhật Bản và các nước phương Tây khác. Những thành tựu
đối ngoại thời kỳ đầu đổi mới này sẽ tạo đà cho những thắng lợi lớn hơn thời
kỳ tiếp theo.
2.2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995)
Quan hệ Việt Nam – ASEAN bắt đầu có những chuyển biến tích cực, và việc
Hiệp định Pari về Campuchia được ký kết tháng 10/1991 đánh dấu chấm dứt
của “ thời kỳ Campuchia trong quan hệ Việt Nam – ASEAN , mở ra một thời
kỳ mới , thời kỳ hợp tác của cả hai bên”.
Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên lợi ích lớn nhất của đất nước lúc
này là duy trì hòa bình, ổn định khu vực, tạo dựng một môi trường quốc tế và
khu vực thuận lợi cho công cuộc đổi mới, cải thiện đời sống nhân dân, đưa đất
nước đi lên theo kịp với nhịp độ phát triển chung của các nước trong khu vực
và trên thế giới. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị
quyết xác định nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối
ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở
rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả
về chính trị, kinh tế, văn hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và
phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa
dân tộc... Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình
thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Lãnh đạo ta và lãnh đạo các nước ASEAN liên tiếp tiến hành các chuyến viếng
thăm lẫn nhau, góp phần gia tăng sự hiểu biết và tin cậy. Ta và các nước này đã
ký hàng chục hiệp định cấp chính phủ tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển hợp
tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật. Các nước ASEAN trở thành
bạn hàng quan trọng, chiếm khoảng 30% hàng xuất - nhập khẩu của ta, kim
ngạch buôn bán hai chiều tăng từ 1,6 tỷ USD năm 1991 lên 2,7 tỷ USD năm
1994. Các nước thành viên ASEAN cũng chiếm hơn 20% tổng số đầu tư nước
14
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
ngoài vào Việt Nam. Giữa Việt Nam và các nước này cũng từng bước thương
lượng giải quyết những vấn đề tồn tại. Chúng ta đã thỏa thuận với Malaysia
cùng khai thác vùng chồng lấn và hồi hương người Việt di tản. Thái Lan tiếp
tục giải quyết thuận lợi việc cho Việt kiều ngập quốc tịch, khai thông sự hợp
tác về sông Mekong, lập quỹ khu vực, duy trì viện trợ linh hoạt hơn trong đàm
phán về vùng chồng lấn, thỏa thuận về lập lại trật tự trên Vịnh Thái Lan.
Chúng ta cũng kiên trì thúc đẩy đàm phán phán về thềm lục địa với Indonexia.
Tháng 07/1992, Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Bali, trở hành quan sát viên
của ASEAN. Với tư cách là quan sát viên ASEAN , từ năm 1992 ,Việt Nam đã
được mời tham dự các cuộc họp hàng năm Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN. Từ tháng 2/1993, Việt Nam đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia ASEAN
vào thời điểm thích hợp”. Điều này đã được các nước ASEAN, dư luận khu
vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại ,các nước ASEAN tuyên bố “ muốn Việt
Nam sớm gia nhập ASEAN”. Tháng 10/1993, chúng ta tuyên bố chính sách 4
điểm định hướng quan hệ với ASEAN . Tại hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN lần thứ 27 tại Băng cốc 1994, các nước ASEAN đã nhất trí tuyên bố
sẵn sàng công nhận Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN. Ngày
28/07/1995, tại Banda Xeri Beegaoan (Vương quốc Bruney) lễ kết nạp Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thành thành viên thứ 7 của ASEAN đã được
tổ chức trọng thể. Quốc Hội nước ta cũng gia nhập Liên minh Quốc hội
ASEAN (AIPO).Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 11994) và Đại hội VIII (tháng 6-1996) của Đảng đã khẳng định đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần "Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển".
Năm năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới trên mặt trận đối ngoại, Việt
Nam đã giữ vững được môi trường hòa bình, phá được thế bị bao vây cấm vận
về kinh tế và cô lập về chính trị, đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc –
nước láng giềng lớn và Hoa Kỳ - cường quốc số 1 thế giới, gia nhập ASEAN
và đã mở rộng quan hệ với hầu hết các nước ở khắp năm châu ( riêng từ 1991 –
1995 Việt Nam đã lập thêm quan hệ ngoại giao với 42 nước , nâng tổng số các
nước có quan hệ ngoại giao với ta lên 160 nước ). Điều này cho thấy, vị trí, vai
trò và uy tín của Việt Nam ngày một nâng cao ở khu vực và thế giới.
2.3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-đến nay):
2.3.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004):
Tại đại hội lần thứ VIII (6-1996), Đảng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế, nhiều mặt với nhiều nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc
tế. Đồng thời chủ trương “ xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá trình
kinh tế khu vực và thế giới”.
15
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Đại hội xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác, chủ trương
đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới so với đại hội VII như:
Mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác
Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ
chức phi chính phủ.
Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương “Thử
nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII (121997), đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp
định Thương mại Mỹ, Gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ
động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA. Đại hội lần thứ IX (4-2001),
Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Đảng nêu rõ quan điểm về xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “ Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước
hế là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ
mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phài đi đôi với chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội
lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”.
Sau 15 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định;
“thế” và “lực” của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng; vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện. Tuy nhiên, chúng ta còn phải
đối phó với nhiều khó khăn, thử thách “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất
phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt”.
Đại hội VIII (tháng 6-1996) và Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp tục
hoàn thiện đường lối đối ngoại thông qua việc khẳng định "Việt Nam sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển". Ngoài ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và
6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhệp kinh tế.Hội nghị Trung ương
8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện thế giới, khu vực
từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học kinh
nghiệm về đối ngoại. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định
16
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta
trong thời gian tới.
Những thành tựu của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới trong chính sách và
hoạt động đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi lĩnh vực của đất
nước, đem lại những thành tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt: “Từ chỗ
bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước;
đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các nước,
trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế giới”. Chúng ta đã tạo được khuôn
khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích với tất cả các
nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào
không ngừng được củng cố và mở rộng, hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ,
hiệu quả. Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng
cao hiệu quả hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên giới,
lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ chức khu vực và quốc tế. Quan hệ với Trung
Quốc được bình thường hóa hoàn toàn và nâng lên tầm cao mới theo phương
châm 16 chữ "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai". Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới
trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc
Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng
góp tích cực, góp phần vào việc củng cố đoàn kết, duy trì những nguyên tắc cơ
bản, tăng cường hợp tác nội khối, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của của hiệp
hội ở khu vực và trên trường quốc tế.
Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè
truyền thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên,
Mông Cổ; các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung - Đông Âu
trên nhiều lĩnh vực, thể hiện tình nghĩa thủy chung, đoàn kết trong chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, chúng ta đã chủ động khôi
phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung Đông và Mỹ
La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước bạn trong cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết dân tộc.
Không những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp
tác cùng có lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế
giới. Từ chỗ là hai nước thù địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao và hợp tác với Mỹ trên tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương
lai. Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu, nhất là trên các lĩnh vực kinh tế,
thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch, chuyển giao công
17
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
nghệ.
Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực và quốc
tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia
ngày càng sâu rộng vào các định chế kinh tế, tài chính, thương mại của
ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực Đầu tư
ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn
Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ với
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB)... Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX ( 5-12004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt cá điều kiện trong nước để sớm gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc phát triển
đất nước thông qua việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Đặc biệt là
công tác nghiên cứu, tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư;
tham gia giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các
nước khác.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp chặt
chẽ với các mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và
uy tín của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Phong trào
Không liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp..;
tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển kinh tế - xã
hội; đồng thời đóng góp bảo vệ hòa bình và các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi trọng. Về
nhận thức, Đảng khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là
một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Gần đây, Nghị quyết 36
của Bộ Chính trị về đổi mới công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã
được ban hành, nhằm xóa bỏ ngăn cách giữa người Việt ở nước ngoài và người
Việt ở trong nước; tạo điều kiện cho bà con hướng về cội nguồn và tham gia
đóng góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Việt
Nam ở nước ngoài, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với nước sở tại.
2.3.2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 – đến nay)
Tháng 2-2021 vừa qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã
thành công rực rỡ, thông qua Nghị quyết Đại hội và các văn kiện quan trọng,
tổng kết các thành tựu và bài học của nhiệm kỳ qua cũng như 35 năm đổi mới,
đề ra tầm nhìn, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể của đất nước từ nay
đến năm 2045.
18
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Đại hội đã đánh giá: “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng
và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối
tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế
đa phương khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước
láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối
tác khác. Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân được triển
khai đồng bộ và toàn diện. Tiếp tục hoàn thiện và thực thi có hiệu quả cơ chế
quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại; tăng cường công tác bảo hộ công
dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Hội nhập quốc tế tiếp tục được
triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh thủ được
sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín, vai trò của Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao”. Công tác đối ngoại
đã sát cánh cùng cả hệ thống chính trị và toàn dân, thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ chính trị lớn trong cả nhiệm kỳ qua.
Văn kiện Đại hội đã khẳng định những điểm nổi bật về phương hướng đối
ngoại, đó là:
Một là, “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập
và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài
để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. Đây là bước
phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến lược của Đảng ta, vừa là sự nhìn nhận
vai trò quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra những nhiệm vụ rất nặng nề cho
giai đoạn tới. “Vai trò tiên phong của đối ngoại” không chỉ có ngoại giao mà
cả quốc phòng, an ninh và các binh chủng khác, trong sự phối hợp liên ngành
dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Đảng và Nhà nước. Như đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28
(tháng 8-2013): Trong thời bình, công tác đối ngoại sẽ tiếp tục là một mặt trận
quan trọng, cùng với quốc phòng - an ninh đóng vai trò tiên phong, góp phần
bảo vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất nước.
Hai là, đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp
tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại.
Không những vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII còn xác định đây là một
trong những quan điểm chỉ đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định
hướng phát triển của đất nước. Đồng thời, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân
tộc vị kỷ, hẹp hòi mà thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
19
- Xem thêm -