Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài...

Tài liệu đề tài

.DOCX
19
424
52

Mô tả:

Bán hàng đa cấp
ĐỀ TÀI: PHÁP LUẬT VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP Ở VIỆT NAM Chương 1: Lý luận chung về pháp luật bán hàng đa cấp. 1.1.Nguồn gốc của phương thức bán hàng đa cấp. 1.2.Khái niệm bán hàng đa cấp. 1.3.Đặc trưng của phương thức bán hàng đa cấp. 1.4.Tác động của phương thức bán hàng đa cấp đến nền kinh tế - xã hội 1.5.Khái quát chung về pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam. 1.5.1. Khái niệm pháp luật bán hàng đa cấp 1.5.2. Nội dung của pháp luật về BHĐC ở Việt Nam 1.5.2.1. Quy định về BHĐC trong luật cạnh tranh 1.5.2.2. Quy định về BHĐC trong nghị định 42/2014/NĐ-CP 1.5.2.3. Thông tư 24/2014/TT-BCT về hướng dẫn nghị định 42/2014/NĐ-CP 1.5.2.4. Chế tài xử lý vi phạm về BHĐC bất chính tại nghị định 71/2014/NĐ-CP và nghị định 185/2013/NĐ-CP 1.5.2.5. Pháp luật có liên quan. Chương 2: Thực trạng về pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam 2.1.Thực trạng ngành công nghiệp bán hàng đa cấp ở Việt Nam. 2.1.1. Số lượng doanh nghiệp đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp. 2.1.2. Kết quả bán hàng đa cấp ở Việt Nam. 2.1.3. Số lượng người tham gia bán hàng đa cấp. 2.2.Thực trạng về pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam 2.2.1.Chủ thể tham gia BHĐC 2.2.2.Hợp đồng tham gia BHĐC 2.2.3.Quản lý hoạt động BHĐC 2.2.4.Kiểm soát hoạt động BHĐC 2.3.Thực trạng vi phạm và xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHĐC tại Việt Nam 2.3.1. Vi phạm trong lĩnh lực BHĐC tại Việt Nam 2.3.2. Thực tiễn xử lý vi phạm trong lĩnh lực BHĐC tại Việt Nam 2.4.Khó khăn, bất cập trong quá trình quản lý hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam. 2.2.1. Quy định pháp luật về cấp giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp ở Việt Nam. 2.2.2. Quy định pháp luật trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp. Chương 3: Kiến nghị và đề xuất 3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về bán hàng đa cấp ở Việt Nam. 3.2. Giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về bán hàng đa cấp ở Việt Nam. 3.2.1. 3.2.2. 3.2.3. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BÁN HÀNG ĐA CẤP 1.1 Nguồn gốc của phương thức BHĐC Kinh doanh đa cấp là ngành kinh doanh hiện đại với phương thức kinh doanh đa cấp hay còn gọi là kinh doanh theo mạng (Multi Level Marketing – MLM) đã ra đời và phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ 20, hứa hẹn là ngành triển vọng ở thế kỷ 21. Phương thức BHĐC gắng liền với tên tuổi của nhà hóa học người Mỹ Karl Renborg (1887-1973). Ông là người đầu tiên đã ứng dụng ý tưởng tiếp thị mạng lưới vào trong cuộc sống, tạo ra một hệ thống kinh tế. Nhận thức được vai trò của dinh dưỡng đối với sức khỏe, năm 1927 ông đã bắt đầu chế biến các chất bổ sung dinh dưỡng khác nhau dựa trên cỏ linh lăng là một loại cỏ có chứa rất nhiều vitamin, khoáng chất, đạm và nhiều vi chất có ích khác. Ông đề nghị những người quen của ông thử nghiệm miễn phí sản phẩm nhưng không ai dám dùng thử vì họ không muốn mình làm vật thí nghiệm. Sau nhiều cố gắng mà không đem lại được kết quả, ông hiểu ra rằng chẳng ai chịu đánh giá tốt những thứ cho không, vì vậy ông đã đưa ra một ý tưởng, mà sau này là nguyên lý cho sự phát triển thành một ngành kinh doanh tiên tiến. Renborg đề nghị những người bạn của mình giới thiệu sản phẩm của ông ấy cho những người quen của họ, nếu những người quen của bạn ông mua sản phẩm thì bạn của ông sẽ được hưởng hoa hồng từ việc bán sản phẩm đó. Không chỉ dừng lại ở đó, ông còn nảy ra ý tưởng là nếu người quen của bạn ông giới thiệu tiếp cho người khác thì bạn của ông vẫn lại nhận được hoa hồng. Với cách làm đó, thông tin của sản phẩm đã lang truyền nhanh chóng và rộng rãi. Doanh thu mang lại tăng lên ngoài sức tưởng tượng. Năm 1934, ông sáng lập ra công ty Vitamins California và nhờ phương pháp phân phối mới này, khi người tiêu dùng cũng trở thành người phân phối sản phẩm, công ty của ông đã nhanh chóng đạt doanh số 7 triệu USD mà không hề mất một đồng quảng cáo nào. Sự độc đáo ở chỗ nhờ tiết kiệm được chi phí quảng cáo và các khâu trung gian (đại lý, bán lẻ, kho bãi…) nên những người tham gia vào hệ thống của ông có thể nhận được thù lao cao hơn. Đến năm 1940, Renborg đổi tên công ty thành Nutrilite Products theo tên sản phẩm và vẫn giữ nguyên phương pháp tiêu thụ. Những cộng tác viên của ông tự tìm người mới, chỉ cho người mới đầy đủ thông tin về sản phẩm và dạy cho người mới phương pháp xây dựng mạng lưới bắt đầu từ những người quen của mình. Công ty đảm bảo cho tất cả nhà phân phối độc lập có đủ sản phẩm và nhận hoa hồng không chỉ lượng sản phẩm họ bán ra mà còn trả hoa hồng cho lượng sản phẩm được bán ra bởi những người do họ trực tiếp tìm ra. Những người tham gia mạng lưới của công ty nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của người bảo trợ. Phương pháp phân phối hàng của ông Renborg chính là khởi điểm của ngành kinh doanh theo mạng, ở đây ông chỉ mới áp dụng một tầng, và trong nhiều tài liệu thì năm 1940 là năm khởi đầu của kinh doanh đa cấp và Renborg được coi là ông tổ của ngành kinh doanh này. Nhận thấy được tiềm năng của ngành kinh doanh này, Rich De Vos và Jay Van Andel (2 cộng tác viên của công ty) đã sáng lập ra công ty riêng của mình mang tên American Way Corporation, viết tắt là Amway và hiện nay Amway đã trở thành một trong những công ty hàng đầu thế giới trong ngành kinh doanh đa cấp với chi nhánh trên 80 quốc gia. Vào những năm đầu thuộc thập niên 70, kinh doanh đa cấp bắt đầu nhận được sự quan tâm cũng như sự phản đổi quyết liệt từ dư luận. Năm 1975, trong hội đồng liên bang Hoa Kỳ có những người phản đối kinh doanh đa cấp và quy kết nó với cái gọi là “hình tháp ảo” - một hình thức kinh doanh bất hợp pháp bị cấm ở Hoa Kỳ. Với sự nhầm lẫn đó, công ty Amway đã phải theo đuổi vụ kiện kéo dài 4 năm (1975 – 1979). Cuối cùng Tòa án thương mại liên bang Hoa Kỳ cũng tuyên bố phương thức kinh doanh đa cấp mà Amway đang áp dụng không phải là mô hình “Kim thự tháp ảo” và được chấp nhận về mặt luật pháp. Từ vụ việc đó, những quy định đầu tiên của pháp luật về BHĐC ra đời, đánh dấu những bước thăng trầm của BHĐC. Theo nhiều tài liệu ghi nhận kinh doanh đa cấp trên thế giới đã trải qua ba thời kì như sau:  Từ năm 1940 đến 1979 chỉ có khoảng 30 công ty kinh doanh theo mạng ra đời tại Mỹ, đây là giai đoạn được gọi tên là thời kì thứ nhất - thời kì hình thành phương thức BHĐC.  Từ 1979-1990 là thời kỳ bùng nổ của kinh doanh theo mạng. Mỗi ngày chúng ta có thể thấy hàng trăm công ty kinh doanh theo mạng tuyên bố thành lập với đủ loại sản phẩm và mô hình kinh doanh. Đây là thời kì thứ hai – thời kì hưng thịnh phát triển của phương thức BHĐC  Từ năm 1990, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ và truyền thông, kinh doanh theo mạng mang màu sắc mới, các nhà phân phối có thể đơn giản hoá công việc của mình nhờ vào điện thoại, internet... Ở giai đoạn này - mà theo các chuyên gia gọi là thời kì thứ ba - nhà phân phối giỏi phải là một nhà hùng biện và đi lại như con thoi giữa các mạng lưới. Bất kỳ ai cũng có thể sử dụng thời gian nhàn rỗi của mình để tham gia công việc và làm việc ở bất cứ đâu. Các công ty bán hàng truyền thống như Ford, Colgate, Coca-Cola và nhiều công ty nổi tiếng khác đã bắt đầu áp dụng phương pháp kinh doanh theo mạng để phân phối sản phẩm độc đáo của mình. 1.2 Khái niệm BHĐC Phương diện kinh tế học, BHĐC hay còn được gọi là Kinh doanh tiếp thị mạng lưới (tiếng Anh: Multi-level Marketing Tiếp thị đa cấp) hoặc Kinh doanh theo mạng (Network Marketing) là thuật ngữ chung dùng để chỉ một phương thức marketing sản phẩm kinh doanh/ bán hàng trực tiếp đến tay người tiêu dùng, họ có thể trực tiếp đến mua hàng tại công ty (hoặc qua một nhà phân phối duy nhất) mà không phải thông qua các đại lý hay cửa hàng bán lẻ. Thông qua hệ thống nhà phân phối, sản phẩm sẽ đến tay người tiêu dùng trực tiếp bằng cách trao đổi, gặp gỡ và mua bán trực tiếp mà không phải qua bất kì khâu trung gian nào cả. khách hàng cùng có thể mua hàng trực tiếp tại công ty hoặc nhà phân phối bất kì mà không phải là đại lý hay cửa hàng bán lẽ nào. với phương thức marketing sản phẩm trực tiếp thậm chí là chào bán trực tiếp sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng là một phương thức hữu hiệu nhằm tăng tính tương tác giữa nhà phân phối và người tiêu dùng ngoài ra còn giúp tiết kiệm chi phí sân bãi, kho vận, quảng cáo,… do đó giá thành của sản phẩm sẽ giảm so với phương thức bán hàng truyền thống là thông qua các đại lý hay rất nhiều cửa hàng bán lẻ. Thay vào đó số tiền này sẽ đươc chuyển thành những khoản tiền thưởng cho các nhà phân phối khi bán được sản phẩm, cải thiện chất lượng sản phẩm. Phương thức bán hàng này dựa trên đặt tính “dây chuyền” thông tin của con người, khi một người sử dụng loại sản phẩm này có hiệu quả, thì sẽ giới thiệu thông tin về sản phẩm đó cho người thân, bạn bè cùng biết. NPP không chỉ đơn thuần là nhà bán hàng mà còn chính là người tiêu dùng sản phẩm trong trường hợp này, họ sử dụng những kinh nghiệm của mình để tiếp thị cho sản phẩm. Từ đó đem về khách hàng cho công ty và cho chính bản thân của mình. Mỗi nhà phân phối tuyến trên sẽ có những nhà phân phối tuyến dưới, việc quản lý nội bộ này sẽ thông qua một mã số. Phương diện khoa học pháp luật ở Việt Nam, BHĐC được định nghĩa tại khoản 11 điều 3 Luật cạnh tranh 2004 như sau: Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau; b) Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia; c) Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận. Đầu tiên, BHĐC là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa. Do đó việc bán hàng hóa là một cách trực tiếp đến tay NTD thông qua những những phân phối mà không cần phải đầu tư phát triển mạng lưới đại lí với quy mô rộng, hay các cửa hàng bán lẻ hàng hóa khác của doanh nghiệp. Doanh nghiệp BHĐC có 2 sự lựa chọn trong phương án đầu tư kinh doanh của mình, thứ nhất là việc lựa chọn hình thức sản xuất trực tiếp hàng hóa để cung cấp cho NTD (Công ty Amway VIệt Nam, Công ty Herbelife,..), thứ hai là việc nhập khẩu của nhà sản xuất khác để phân phối lại theo phương thức đa cấp (). Với quy định như trên đối tượng của BHĐC hiện nay vẫn chỉ là hàng hóa. Tuy nghị định 42/2014/NĐ-CP có đề cập đến dịch vụ nhưng chỉ mới dừng ở việc quy định nhằm mục đích “đi kèm” với hàng hóa để pháp luật dường như đã quy định đầy đủ. Chưa có quy định cụ thể nào cụ thể hóa “mặt hàng” dịch vụ được phép kinh doanh với phương thức BHĐC cho nên việc áp dụng vào thực tế rất khó khăn. Theo quy định của pháp luật, hiện nay không phái tất cả các loại hàng hóa đề được kinh doanh theo phương thức BHĐC, những hàng hóa cấm kinh doanh, hàng hóa là thuốc, trang thiết bị y tế, thuốc bảo vệ thực vật,… không được kinh doanh theo phương thức đa cấp (khoản 2 điều 4 nđ 42) Thứ hai, việc bán hàng hóa thông qua hệ thống gồm nhiều nhà phân phối được phân thành những cấp và nhánh khác nhau. Người tham gia BHĐC được công ty tuyển dụng và là công tác viên bán hàng cho công ty, giá bán cho người tham gia bán hàng đa cấp được công ty bán với giá sĩ, sau quá trình tiếp thị sản phẩm NTD bỏ số tiền của mình ra mua sản phẩm đó với giá cao hơn giá sĩ gọi là giá lẽ do công ty BHĐC ấn định. Và khoản tiền chênh lệch giữa giá sĩ và lẻ là tiền hoa hồng mà người tham gia được nhận. Khác với phương thức bán hàng truyền thống, người tham gia BHĐC không được nhận lương mà là thông qua hình thức trả thưởng gọi là hoa hồng khi bán được sản phẩm và tạo lập mạng lưới của mình. Với lợi ích đó, càng thôi thúc người tham gia bán càng nhiều sản phẩm và đặt biệt là tạo lập càng nhiều mạng lưới tuyến dưới của mình càng tốt, như vậy họ sẽ có được phần trăm hoa hồng từ việc bán hàng của tuyến dưới của mình. Với việc ký hợp đồng tham gia vào doanh nghiệp BHĐC, người tham gia sẽ được công ty đào tạo các khóa kiến thức cũng như kỹ năng BHĐC do nhà đào tạo được cấp chứng chỉ trực tiếp huấn luyện. Một khi đạt đến số lượng tuyến dưới nhất định, việc tuyển dụng của Người tham gia sẽ dừng lại, số lượng người tuyến dưới là tùy theo chính sách của mỗi công ty quy định. Người tham gia trực tiếp tiếp thị sản phẩm đến tay NTD không mang danh nghĩa doanh nghiệp. Doanh nghiệp đăng ký BHĐC không chịu trách nhiệm về hành vi của người tham gia BHĐC, doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của mình và các thông tin liên quan đến sản phẩm do họ cung cấp. Thứ ba, Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận. Theo quy định trên, thu nhập chính của những người tham gia BHĐC không phải lương mà là hoa hồng được trả từ việc bán sản phẩm và phần trăm được trích từ hoa hồng của tuyến dưới khi tuyến dưới của mình tuyển dụng thêm được những người khác vào hệ thống. Việc hưởng lợi từ 2 nguồn chính như vậy càng kích lệ người tham gia vừa tích cực dùng sản phẩm, vừa kích lệ họ bán càng nhiều sản phẩm cũng như tạo lập được những nhánh dưới vững chắc. Từ đó giúp cải thiện thu nhập từ hoạt động bán hàng đa cấp. Với những phân tích như trên, việc tham gia bán hàng đa cấp ở mỗi đối tượng khác nhau là khác nhau, đối với doanh nghiệp kinh doanh đa cấp họ hướng tới xây dựng hệ thống vững mạnh với phương thức tiếp thị trực tiếp đến khách hàng, còn ở vị trí của người tham gia bán hàng đa cấp họ tiếp thị sản phẩm và xây dựn hế thống nhằm thu lợi nhuận trực tiếp về mình, Do đó, mỗi đối tượng khác nhau có mục đích khác nhau, cần xây dựng những quy định cụ thể rõ ràng cho từng đối tượng tham gia để hoạt động BHĐC diễn ra hiệu quả. 1.3. Đặc trưng của phương thức bán hàng đa cấp. 1.3.1. BHĐC là phương thức bán hàng trực tiếp Như đã đề cập ở trên, tại quy định của Luật cạnh tranh BHĐC là phương thức tiếp thị bán lẻ hàng hóa, trong đó hàng hóa được bán trực tiếp từ người sang người và không thông qua hệ thống đại lý nào cả. Đây là một đặc trưng rất nổi bật của phương thức BHĐC so với phương thức bán hàng truyền thống khi sử dụng rất nhiều đại lý và chi nhánh để phân phối hàng hóa của mình đến tay người tiêu dùng. Việc sử dụng cách tiếp cận trực tiếp từ người phân phối của công ty đến người tiêu dùng dựa trên thói quen truyền tay nhau về hàng hóa có chất lượng tốt và hiệu quả sử dụng cao. 1.3.2. Người phân phối độc lập với công ty. Theo phương thức kinh doanh truyền thống, việc một công ty sử dụng nhiều hệ thống đại lý bán lẻ cố định để tiếp thị sản phẩm nhằm đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng là cần thiết và bắt buộc. Nhưng với phương thức BHĐC, công ty chỉ cần những cộng tác viên hay còn gọi là người phân phối, sử dụng kiến thức cũng như kỹ năng của mình để tiếp thị sản phẩm. Họ - những người phân phối hoạt động trên danh nghĩa bản thân cá nhân, không phải là nhân viên của công ty nên họ không nhân danh công ty BHĐC để bán sản phẩm như đại lý. Người phân phối và công ty BHĐC có mối quan hệ ràng buộc thông qua hợp đồng tham gia BHĐC bằng văn bản được pháp luật quy định. Hàng hóa thuộc quyền sử hữu của họ, việc thu lợi nhuận từ khoản tiền chênh lệch giữa giá mua vào và bán ra, địa điểm bán hàng là tư do không phải điểm cố định,… 1.3.3. Người phân phối được trả hoa hồng với hoạt động kinh doanh của mình Khi tham gia vào quá trình kinh doanh nói chung và mạng lưới BHĐC nói riêng, mục đích cuối cùng là tìm kiếm lợi nhuận. Những người phân phối trong công ty kinh doanh đa cấp được hưởng hoa hồng từ doanh số bán hàng của họ. Bên cạnh đó, điểm nổi bật của phương thức này việc người phân phối có thể tự tạo lập cho mình mạng lưới với những tuyến dưới phụ thuộc vào mình. Lợi nhuận họ kiếm được còn căng cứ vào số lượng sản phẩm hay doanh số mà tuyến dưới của mình bán được, với điều kiện mạng lưới đó được công ty chấp nhận. Theo đó, lợi nhuận của người phân phối tăng theo cấp số nhân nếu tuyến dưới của mình bán được hàng hóa. Hoa hồng đó có thể tăng rất nhanh nếu mạng lưới của người đó có càng nhiều tuyến dưới được công ty chấp nhận. Và điều này cũng là vấn đề làm xuất hiện mô hình biến trướng “kim tự tháp ảo” hay BHĐC bất chính mà ta sẽ tìm hiểu trong khóa luận này. 1.3.4. Bản chất của phương thức BHĐC là cấp số nhân Sự phát triển và tiềm lực về kinh tế các công ty kinh doanh theo phương thức bán hàng truyền thống có thể căn cứ vào số lượng đại lý bán lẻ nằm trong chuổi kinh doanh của công ty đó. Nhưng với những công ty kinh doanh theo phương thức BHĐC, cơ sở để đẩy mạnh sự phát triển của công ty là số lượng người tham gia vào mạng lưới đa cấp. Và chúng ta gọi đây là tăng trưởng số lượng theo cấp số nhân, bởi vì một người sẽ tìm kiếm cấp dưới cho mình bằng cách truyền bá những kinh nghiệm, niềm đam mê cũng như sự thành đạt của mình cho những người xung quanh. Từ đó hình thành nên mạng lưới rất nhiều cấp bậc và nhánh, nhà phân phối ở trên sẽ nhận được lợi ích theo cấp số nhân mà những nhà phân phối tuyến dưới của mình mang lại. 1.3.5. Hàng hóa trong kinh doanh đa cấp được công ty mua lại Đặc điểm nổi bật trong phương thức kinh doanh đa cấp được khá nhiều pháp luật của nhiều quốc gia công nhận là việc mua lại hàng hóa từ nhà phân phối của công ty. Theo pháp luật Việt Nam công ty mua lại sản phẩm của người tham gia với giá thành tối thiểu bằng 90% giá trị hàng hóa mà người tham gia đã bỏ ra để mua hàng hóa sau khi trừ đi các chi phí hợp lý. (nguồn) 1.4. Tác động của phương thức bán hàng đa cấp đến nền kinh tế - xã hội BHĐC xuất hiện vào thế kỷ 20 và là bước đột phá trong thế giới kinh doanh của loài người. Đúng như vậy, kinh doanh đa cấp là phương thức tiếp thị sản phẩm trực tiếp đến tay người tiêu dùng, các công ty kinh doanh theo phương thức này sử dụng mạng lưới người phân phối ở mức độ lớn có thể hoàn toàn thay thế các đại lý cố định thông thường. Thay vì NTD phải bỏ công sức đến các cửa hàng, đại lý, trung tâm thương mại để mua sắm trong khi cuộc sống của con người đang ngày càng bân rộn và thời gian rất ít thì bây giờ vấn đề đó không còn lo ngại với hàng hóa đến tận tay NTD, làm cho họ bớt tốn kém thời gian, tiền bạc và công sức để mua hàng hóa ở nơi khác. Điều đó làm cho nền kinh doanh đa cấp có vai trò cức kì quan trọng. Chính vì hàng hóa được tiếp thị tận tay cho NTD nên tránh được hiện tượng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ đang là vấn nạn trên thị trường của chúng ta. NTD có thể được mua trực tiếp hàng hóa từ nhà sản xuất mà không qua bất kì một khâu trung gian nào làm cho xuất xứ của hàng hóa được hạn chế bị tác động tiêu cực. Theo phương thức bán hàng truyền thống, công ty muốn NTD biết đến rộng rãi sản phẩm của mình đòi hỏi cần một chương trình quảng cáo, tiếp thị,… sản phẩm thật quy mô và đầu tư. Bên cạnh đó, hàng hóa được lưu thông trong thị trường cần đến sân bãi, nhà kho,… Tất cả các chi phí để thực hiện những công đoạn đó tiêu tốn một khoản tiền không hề nhỏ đối với doanh nghiệp làm tăng giá thành sản phẩm ảnh hưởng đến NTD. Nhưng với BHĐC việc tiếp thị tận tay NTD đã giúp doanh nghiệp không còn lo ngại về vấn đề chi phí để đưa sản phẩm đến với NTD không còn quá lớn, mà là vấn đề rất dễ dàng. Để đưa được những sản phẩm đến tay phần lớn NTD, đòi hỏi công ty BHĐC cần một lượng lớn nhà phân phối cho mình. Điều này làm kích thích lao động, làm cho người lao động có công văn việc làm, nhằm giải quyết một phần nào đó việc làm cho xã hội. Không những thế việc tham gia vào mạng lưới BHĐC không cần đòi hỏi quá nhiều điều kiện như ở các công ty kinh doanh khác như bằng cấp, kinh nghiệm, kỹ năng, vốn,…do đó, những người bình thường cũng có thể dễ dàng tham gia BHĐC (sinh viên, người nội trợ, công nhân,...) từ đó giúp cải thiện thu nhập, cải thiện cuộc sống. 1.5 Khái quát chung về pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam. 1.5.1. Khái niệm pháp luật bán hàng đa cấp Ngành kinh doanh đa cấp xuất hiện ở Việt Nam chưa lâu đồng thời việc pháp luật thừa nhận nó còn chậm chạp và thiếu tính khả thi, cho nên đến hiện nay vẫn chưa có một khái niệm hoàn chỉnh và chuẩn xác nào cho việc điều chỉnh BHĐC ở Việt Nam. Hiện nay, các văn bản quy định về bán hàng đa cấp chỉ tập trung ở các văn bản dưới luật mà cụ thể là nghị định 42/2014/NĐ-CP quy định về việc quản lý hoạt động BHĐC. Văn bản này ban hành để hướng dẫn cụ thể hơn các quy định về BHĐC tại luật cạnh tranh, và đây cũng là văn bản luật duy nhất quy định về BHĐC. Để xác định được khái niệm pháp luật BHĐC chúng ta cần xác định được nội hàm mà khái niệm đó quy định. Ở đây, pháp luật BHĐC có phạm vi là quy định hoạt động BHĐC và quản lý hoạt động BHĐC. Với nội hàm đó pháp luật BHĐC tác động đến ba nhóm chủ thể: doanh nghiệp BHĐC, người phân phối và NTD. Nhưng hiện nay chúng ta chưa thấy được các quy định của pháp luật quan tâm tới NTD, bởi NTD là trung tâm của các mối quan hệ trên. Với những phân tích trên, chúng ta có thể hình thành nên khái niệm pháp luật BHĐC như sau: Pháp luật BHĐC là hệ thống các văn bản pháp luật mà nòng cốt là luật cạnh tranh ghi nhận sự tồn tại của phương thức BHĐC và hoạt động quản lý BHĐC của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 1.5.2. Nội dung của pháp luật về BHĐC ở Việt Nam 1.5.2.1. Quy định về BHĐC ở luật cạnh tranh Hoạt động BHĐC ở Việt Nam xuất hiện vào những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ 20. Năm 1998 một công ty ở TP Hồ Chí Minh bắt đầu kinh doanh theo phương thức đa cấp và sau đó hàng loạt các công ty ra đời với phương thức kinh doanh đa cấp, nhưng mãi đến năm 2005 nhà nước ta mới ghi nhận lần đầu tiên hoạt động BHĐC tại khoản 11 Điều 3 và Điều 48 của Luật cạnh tranh 2004. Bước đầu tiên Luật cạnh tranh 2004 đã định hình được BHĐC là phương thức bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện được quy định tại khoản 11 Điều 3 như sau:    Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau; Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia; Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận. Theo quy định tại Điều 48 Luật cạnh tranh về BHĐC bất chính, doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hành vi BHĐC nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới BHĐC sau: 1. Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp; 2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại; 3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp; 4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia. 1.5.2.2. Quy định tại nghị định 42/2014/NĐ-CP Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp quy định chi tiết các điều khoản về BHĐC được quy định tại Luật cạnh tranh. Theo đó, nghị định được ban hàng với những nội dung về phạm vi đối tượng tham gia BHĐC, đối tượng được kinh doanh theo phương thức đa cấp, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh đa cấp và người tham gia BHĐC cũng như chức năng và quyền hạn của cơ quan nhà nước trong hoạt động quản lý về BHĐC ở Việt Nam.  Chủ thể kinh doanh đa cấp. Chủ thể kinh doanh theo phương thức đa cấp là doanh nghiệp được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép đăng ký hoạt động BHĐC. Doanh nghiệp được cấp Giấy phép đăng ký hoạt động BHĐC là doanh nghiệp có đủ điều kiện bao gồm:  Là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam theo quy định của pháp luật, có đăng ký kinh doanh ngành bán lẻ theo phương thức đa cấp.  Có vốn pháp định là 10 tỷ VNĐ.  Hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp phù hợp với nội dung ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư.  Có đủ điều kiện kinh doanh hoặc được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật trong trường hợp kinh doanh hàng hóa kinh doanh có điều kiện.  Ký quỹ tại một ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam bằng 5% vốn điều lệ nhưng không thấp hơn 5 tỷ VNĐ.  Có Quy tắc hoạt động, Chương trình trả thưởng, Chương trình đào tạo cơ bản không trái quy định của pháp luật.  Thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần, người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần phải là những cá nhân chưa từng giữ một trong các chức vụ nêu trên tại doanh nghiệp bán hàng đa cấp đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định tại Điểm b, Điểm c Khoản 1 Điều 14 Nghị định này.  Đối tượng được kinh doanh theo phương thức đa cấp:  Hàng hóa được đưa vào kinh doanh theo phương thức đa cấp phải phù hợp với pháp luật có liên quan, đặc biệt trừ các loại sau:  Hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, Danh mục hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng hóa đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp buộc phải thu hồi, cấm lưu thông hoặc tạm ngừng lưu thông theo quy định của pháp luật;  Hàng hóa là thuốc; trang thiết bị y tế; các loại thuốc thú y (bao gồm cả thuốc thú y thủy sản), thuốc bảo vệ thực vật; hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế; các loại hóa chất nguy hiểm và sản phẩm có hóa chất nguy hiểm theo quy định của pháp luật.  Đối với các loại dịch vụ và hình thức khác không phải mua bán hàng hóa không được kinh doanh theo phương thức đa cấp, trừ khi pháp luật có quy định khác. Như vậy hiện nay, với lần sửa đổi bổ sung đầu tiên văn bản về quản lý bán hàng đa cấp vẫn chưa cho phép dịch vụ là loại hình kinh doanh theo phương thức đa cấp. Chỉ có hàng hóa được tự do kinh doanh.           - Trách nhiệm của doanh nghiệp BHĐC Theo quy định tại điều 22 nghị định 42, doanh nghiệp có trách nhiệm: Công bố công khai tại trụ sở và cung cấp cho người có dự định tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp của doanh nghiệp các tài liệu liên quan tới hoạt động và hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp của doanh nghiệp. Thường xuyên giám sát hoạt động của người tham gia bán hàng đa cấp để bảo đảm người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện đúng Quy tắc hoạt động, Chương trình trả thưởng của doanh nghiệp. Chịu trách nhiệm đối với hoạt động bán hàng đa cấp của người tham gia bán hàng đa cấp trong những trường hợp sau: Được thực hiện tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp; Được thực hiện bên ngoài trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp, trừ trường hợp hoạt động đó không liên quan đến doanh nghiệp. Bảo đảm tính trung thực và độ chính xác của các thông tin cung cấp cho người tham gia bán hàng đa cấp. Bảo đảm chất lượng và các dịch vụ bảo hành, hậu mãi (nếu có) cho hàng hóa được bán theo phương thức đa cấp. Giải quyết các khiếu nại của người tham gia bán hàng đa cấp và người tiêu dùng. Khấu trừ tiền thuế thu nhập cá nhân của người tham gia bán hàng đa cấp để nộp vào ngân sách nhà nước trước khi chi trả hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác cho người tham gia bán hàng đa cấp. Quản lý người tham gia bán hàng đa cấp qua hệ thống Thẻ thành viên theo quy định tại Điều 21 Nghị định này.  Thông báo cho người tham gia bán hàng đa cấp những hàng hóa thuộc diện không được doanh nghiệp mua lại trước khi người đó tiến hành mua hàng.  Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Những hành vi bị cấm của doanh nghiệp BHĐC được quy định tại điều 5 của nghị định 42/2014. - Người tham gia BHĐC  Điều kiện đối với người tham gia bán hàng đa cấp Được quy định tại điều 19 nghị định 42, Người tham gia bán hàng đa cấp là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Những trường hợp sau không được tham gia bán hàng đa cấp:  Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc có tiền án về các tội sản xuất, buôn bán hàng giả, quảng cáo gian dối, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng, các tội về lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ trái phép tài sản.  Người nước ngoài không có Giấy phép lao động tại Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền cấp.  Trách nhiệm của người tham gia bán hàng đa cấp  Xuất trình Thẻ thành viên trước khi giới thiệu hàng hóa hoặc tiếp thị bán hàng.  Cung cấp đầy đủ những thông tin về doanh nghiệp và hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp của doanh nghiệp khi bảo trợ một người khác tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp.  Thông tin trung thực, chính xác về hàng hóa được chào bán.  Tuân thủ quy định trong Quy tắc hoạt động, Chương trình trả thưởng của doanh nghiệp.  Trường hợp không tuân thủ các quy định tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định này và Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều này và gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc người tham gia bán hàng đa cấp khác, người tham gia bán hàng đa cấp có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã gây ra theo quy định của pháp luật.  Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm của Bộ công thương và trách nhiệm giám sát của UBND các cấp được quy định tương ứng tại Điều 32 và 33 của nghị định 42. 1.5.2.3 Quy định về BHĐC tại thông tư 24/2014/TT-BCT Cơ quan cấp giấy đăng ký hoạt động BHĐC là Cục quản lý cạnh tranh nơi doanh nghiệp đề nghị cấp Giấy đăng ký hoạt động BHĐC đăng ký kinh doanh. Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp Cục Quản lý cạnh tranh có trách nhiệm tiếp nhận, thẩm định và cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp cho doanh nghiệp đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp. Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp như sau: 1. Tiếp nhận hồ sơ a) Doanh nghiệp đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp nộp 01 (một) bộ hồ sơ quy định tại Điều 2 Thông tư này (kèm theo bản sao lưu trên đĩa CD-ROM hoặc USB) đến Văn phòng Cục Quản lý cạnh tranh. Hồ sơ có thể được nộp trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện; b) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, Cục Quản lý cạnh tranh có trách nhiệm kiểm tra tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ. Trường hợp hồ sơ không đầy đủ, hợp lệ, Cục Quản lý cạnh tranh thông báo cho doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung hồ sơ trong vòng 30 ngày; c) Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Cục Quản lý cạnh tranh thông báo sửa đổi, bổ sung hồ sơ, doanh nghiệp đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp không sửa đổi, bổ sung hồ sơ theo yêu cầu thì Cục Quản lý cạnh tranh trả lại hồ sơ. 2. Thẩm định hồ sơ a) Sau khi nhận hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, Cục Quản lý cạnh tranh thẩm định hồ sơ và ban hành văn bản thẩm định trong thời hạn 15 ngày làm việc; b) Nội dung thẩm định: - Kiểm tra các mẫu văn bản, tài liệu do doanh nghiệp cung cấp, đảm bảo tính phù hợp vớicác quy định của pháp luật; - Thẩm định nội dung các tài liệu liên quan đến hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp, tài liệu liên quan đến hoạt động bán hàng đa cấp của doanh nghiệp, đảm bảo phù hợp với các quy định của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP. 3. Cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp Trường hợp hồ sơ của doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện quy định tại Nghị định số 42/2014/NĐ-CP, Cục Quản lý cạnh tranh cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo mẫu M-03 của Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư này và giao lại cho doanh nghiệp 01 (một) bản các tài liệu quy định tại khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 2 Thông tư này có xác nhận của Cục Quản lý cạnh tranh. Trường hợp hồ sơ của doanh nghiệp chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Nghị định số 42/2014/NĐ-CP, Cục Quản lý cạnh tranh thông báo bằng văn bản yêu cầu doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung hồ sơ. Thời hạn sửa đổi, bổ sung hồ sơ không quá 30 ngày. Trường hợp hồ sơ của doanh nghiệp không đáp ứng đủ điều kiện quy định tại Nghị định số 42/2014/NĐ-CP hoặc doanh nghiệp không sửa đổi, bổ sung hồ sơ đúng thời hạn, Cục Quản lý cạnh tranh trả lại hồ sơ và thông báo cho doanh nghiệp bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do trả lại hồ sơ. 4. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp, Cục Quản lý cạnh tranh có trách nhiệm công bố trên trang thông tin điện tử của Cục Quản lý cạnh tranh và gửi bản sao Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp kèm theo bản sao các tài liệu quy định tại khoản 2, khoản 5 và khoản 6 Điều 2 Thông tư này đến các Sở Công Thương trên toàn quốc bằng một trong các phương thức sau: a) Gửi qua bưu điện; b) Fax; c) Thư điện tử.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan