lời giới thiệu
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu mốc lịch sử đối với nền
kinh tế Việt nam ,đó là điểm xuất phát của nền kinh tế .Nước ta đã chuyển đổi
hoàn toàn từ nền kinh tế tập trung quan tiêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần , mở cửa , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước . Nền kinh tế mở đã làm phát triển về mọi mặt đời sống kinh tế xã hội
và thu nhập kinh tế quốc dân cũng tăng lên ,đồng thời tạo điều kiện cho nước ta
mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới .
Tiêu thụ sản phẩm là khâu lưu thông hàng hoá ,là cầu nối trung gian giữa
một bên là sản xuất phân phối và một bên là tiêu dùng .Mặc dù tiêu thụ sản phẩm
là khâu cuối cùng trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của một chu kỳ
sản xuất nhưng nó đóng vai trò là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp .
Kinh doanh trong cơ chế thị trường ,vấn đề tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò
căn bản.Bản thân các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh
doanh vừa đảm bảo mang lại hiêu quả cho doanh nghiệp mình,vừa phù hợp với
chiến lược phát triển của mình ,vừa phù hợp với chiến lược phát triển chung của
đất nước để phát huy một cách có hiệu quả nhất lợi thế so sánh của đất nước.
Là một ngành kinh tế – kỹ thuật có ưu thế thu hút được nhiều lao động
cho xã hội và tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước (đứng thứ 3 sau ngành dầu khí
và dệt may) ,ngành Da –Giầy Việt Nam đang đươc Chính phủ quan tâm và coi là
ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển hàng công nghiệp tiêu dùng hướng ra
xuất khẩu. Hiện nay trong điều kiện khó khăn nhiều mặt cạnh tranh gay gắt cả
trong và ngoài nước ,thị trường lại biến động …Để đứng vững và tiếp tục phát
triển hơn nữa ,Giày – Da Việt Nam cần không những hoàn thiện chiến lược phát
triển lâu dàu cũng như đề ra được kế hoạch ,biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động
tiêu thụ trong từng giai đoạn cụ thể .
Với ý thức về sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động tiêu thụ ,cũng
như đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động tiêu
-1-
thụ ,với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Nguyễn Văn Tuấn, em xin nghiên cứu
đề tài
“Tiêu thụ sản phẩm Giày- Da ở Việt Nam hiện nay ,thực trạng và giải pháp”
Em rất mong nhận được sự phê bình ,góp ý chân thành của thầy cô và các
bạn.
Sinh viên
Nguyễn Nguyên Hồng
-2-
PHầN I: Lý LUậN CHUNG Về HOạT ĐộNG TIÊU THụ SảN PHẩM
TRONG SảN XUấT KINH DOANH
I/ TIÊU THụ SảN PHẩM Và VAI TRò CủA Nó ĐốI VớI HOạT ĐộNG SảN XUấT KINH
DOANH
1/Quan niệm về tiêu thụ sản phẩm:
Tiêu thụ sản phẩm là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa
một bên là sản xuất phân phối và một bên là tiêu dùng . Trong một doanh nghiệp
,toàn bộ mọi hoạt động sản xuất konh hoanh từ khâu đầu đến khâu cuối của chu
kỳ sản xuất được diễn ra một cách nhịp nhàng ,liên tục ,các khâu có mối liên hệ
mật thiết với nhau ,nối với nhau bằng các mắt xích chặt chẽ, khâu trước là cơ sở
,là tiền đề để thực hiện khâu sau.
Nếu một khâu nào đó bị ách tắc sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sản
xuất kinh doanh .Để quá trình dó được tiến hành thường xuyên ,liên tục thì doanh
nghiệp phải phối hợp thông suốt các khâu trong đó có khâu tiêu thụ sản phẩm là
khâu cuối cùng ,cũng là khâu vô cùng quan trọng . Chỉ khi sản phẩm được tiêu
thụ thì chu kỳ sản xuất kinh doanh mới có thể nối tiếp .Kết quả tiêu thụ ở chu kỳ
trước tạo điều kiện thực hiện chu kỳ tiếp theo . Tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa
quyết định đối với cả chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là quá trình thực hiện giá trị hàng hoá được
chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và vòng chu chuyển vốn sản
xuất kinh doanh đã hoàn thành . Quá trình tiêu thu sản phẩm chỉ kết thúc khi quá
trình thanh toán giữa người mua và người bán diễn ra và quyền sở hữu hàng hoá
được thay đổi .
Sản phẩm hàng hoá được coi là tiêu thụ khi người bán đã nhận tiền hoặc
người mua đã trả tiền .Việc xác định sản lượng tiêu thụ trong năm phải căn cứ
vào sản lượng sản xuất,hợp đồng kinh tế ký kết với khách hàng,nhu cầu thị
trường ,khả năng đổi mới phương thức thanh toán và tình hình tiêu thụ năm
trước.
-3-
2/Vai trò của hoạt động tiêu thụ Sản phẩm :
a/Sự cần thiết của hoạt động tiêu thụ sản phẩm :
Thực tiễn cho thấy, thích ứng với mỗi cơ chế quản lý công tác tiêu thụ sản
phẩm được thể hiện bằng các hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh. Các cơ quan
hành chính kinh tế can thiệp sâu vào nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp
nhưng lại không chịu trách nhiệm về các quyết định của mình...
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này chủ yếu là giao nộp sản phẩm cho
các đơn vị theo địa chỉ và giá cả do nhà nước định sẵn.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình giải quyết các
vấn đề cơ bản của sản xuất kinh doanh là sản xuất cái gì, bằng cách nào, cho ai
nên việc tiêu thụ sản phẩm là một quá tình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc
nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản
xuất, xúc tiến bán hàng... nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất.
Tuy nhiên trong bất cứ nền kinh tế nào thì tiêu thụ sản phẩm cũng vẫn là
giai đoạn cuối của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp, là thực hiện mục đích của sản xuất hàng hoá, là
đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá,
là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất,phân phối và một bên là tiêu dùng.
Trong quá trình tuần hoàn các nguồn vật chất, việc mua và bán các sản phẩm của
doanh nghiệp được thực hiện. Giữa hai khâu này có sự khác nhau, quyết định tới
bản chất của hoạt động thương mại đầu vào và hoạt động thương mại đầu ra của
doanh nghiệp.
ở các doanh nghiệp ,tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng . Quyết
định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đó . Tiêu thụ sản phẩm là giai
đoạn cuối của quá trình sản xuất . các doanh nghiệp chỉ sau hai tiêu thụ được sản
phẩm mới có thể thi hồi được vốn để tiếp tục quá trình tái sản xuất kinh doanh.
Tiêu thụ sản phẩm bảo đảm quá trình sản xuất được liên tục là điều kiện tồn tại
và phát triển của xã hội .
-4-
tiêu thụ sản phẩm trở thành căn cứ quan trọng để doanh nghiệp lập kế
hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý vệ thợi gian ,số lượng ,chất lượng tìm cách
phát huy thế mạnh và hạn chế những điểm yếu của mình .với người tiêu dùng
,tiêu thụ sản phẩm giúp cho họ thoả mãn về nhu cầu hàng háo vì sản phẩm hạng
hoá có diễn tay người tiêu dùng hay không là tuỳ thuộc vào hạot động tiêu thụ
sản phẩm.
Sản phẩm được tiêu thụ tức là được người tiêu dùng chấp nhận . Sức tiêu
thụ sản phẩm của haonh nghiệp thể hiện chất lượng sản phẩm ,uy tín doanh
nghiệp ,sự hợp lý hoá các dây chuyền công nghệ , sự thích ứng với nhu cầu người
tiêu dùng vạ sự hoàn thiện các hoạt động dịch vụ …Nói cách khác tiêu thụ sản
phẩm phản ánh khá đầy đủ điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp .
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng ,giúp
người sản xuất hiểu thêm về sản phẩm của mình và các thông tin về nhu cầu thị
trường ,khách hàng ,từ đó có biện pháp làm cho sản phẩm thoả mãn ngày càng tốt
hơn nhu cầu của người tiêu dùng
Xét trên góc độ vĩ mô , nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất với
những cân bằng ,những quan hệ tỷ lệ nhất định . Sản phẩm sản xuất ra được tiêu
thụ tức là sản xuất xã hội được diễn ra một cách bình thường ,trôi chảy ,tránh
được những mất cân đối , đảm bảo ổn định xã hội .
Tiêu thụ sản phẩm -đó là sự cần thiết hết sức khách quan .
b/ Vai trò của hoạt động tiêu thụ :
Mọi nỗ lức số gắng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đều được đánh giá
và thể hiện qua khả nằng và hiệu quả của hoạt động tiêu thụ sản phẩm . Công tác
tiêu thụ sản phẩm có vai trò rất quan trọng ,đó là :
- Làm tốt công tác tiêu thị sản phẩm sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất
phát triển cân đối ,đáp ứng nhu cầu xã hội .Ngược lại sản phẩm không tiêu thụ
được sẽ làm cho sản xuất ngừng trệ sản phẩm không có gía trị sử dụng .
- Tiêu thụ sản phẩm được coi là một biện pháp để điều tiết sản xuất định
hướng cho sản xuất ,là tiêu chuẩn để xây dựng các chiến lược (dự trữ sản phẩm
-5-
,thu mua, phân phối ,xúc tiến ..) , đánh giá quá trình tổ chức sản xuất, cải tiến
công nghệ .
- Việc tổ chức hợp lý hoá khoa học quá trình tiêu thụ sản phẩm sẽ giảm
tới mức thấp nhất các loại chi phí , góp phần làm giảm giá thàmh tới tay người
tiêu dùng ,nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường .
- Tiêu thụ sản phẩm góp phần củng cố vị trí ,thế lực của doanh nghiệp
,nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng ,thông qua sản phẩm có
chất lưọng tốt , giá cả phải chăng ,phương thức giao dịch mua bán thuận tiện
,dịch vụ bán hàng tốt …sẽ giúp doanh nghiệp thành công trên thương trường .
Thực hiện tốt các khâu của quá trình tiêu thụ giúp vho doanh nghiệp có thể tiêu
thụ được khối lượng sản phẩm lớn và lôi cuốn thêm khách hàng,không ngừng mở
rộng thị trường .
- Làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm là động lực thúc đẩy sản xuất và là
yếu tố tằng nhanh vòng vốn sản xuất kinh doanh .
- Với môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay , việc mua sắm
các yếu tố đầu vào thuận lợi hơn ,quy trình sản xuất gần như ổn định thì sự biến
động về thời gian của một chu kỳ sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vàp công tác tiêu
thụ sản phẩm .Bởi vậy tiêu thụ sản phẩm càng được tiến hành tốt bao nhiêu thì
chu kỳ sản xuất kinh doanh càng ngắn bấy nhiêu ,vòng quay vốn càng nhanh ,
hiệu quả sử dụng vốn càng cao . Thông qua tiêu thụ sản phẩm , các doanh nghiệp
sẽ thực hiện được mục tiêu cơ bản của mình là lợi nhuận , một mục tiêu mà mọi
doanh nghiệp Đang theo đuổi .Lợi nhuận là mục đích quan trọng nhất trong toàn
bộ hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Lợi nhuận là nguồn vốn bổ xung vốn tự có và cũng là nguồn bổ xung
các quỹ của doanh nghiệp , trên cơ sở đó các doanh nghiệp
có điều kiện đầu tư
,xây dựng mua xắm máy móc thiết bị ,từng bước mở tộng và phat triênt quy mô
của doanh nghiệp .Lợi nhuận còn dùng để kích thích vật chất ,khuyến khích
động viên các các bộ công nhân viên quan tâm hơn nữa tới lợi ích chung ,khai
thác tận dụng được mọi tiềm năng của doanh nghiệp .
-6-
- Lợi nhuận chính là biểu hiện mọi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp bằng tiền trên cơ sở so sánh giữa thu nhập và chi phí trong một
đơn vị thời gian nhất định ,Nó được xác định bằng công thức sau:
lợi nhuận = doanh thu – chi phí – thuế
Như vậy muốn có lợi nhuận cao thì ngoài biện pháp giảm chi phí sản xuất
,doanh nghiệp còn đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm ,nâng cao mức lưu
chuyển ,tăng doanh thu bán hàng .Đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ làm
giảm thời gian dự trữ tồn kho , giảm chi phí vận chuyển , bảo quản , hao hụt mất
mát … Tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ giá thành mà vẫn đảm bảo lời nhuận
cao.
3/Tiêu thụ sản phẩm trong sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước .
a/Tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung:
Nước ta duy trì nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan tiêu vao cấp trong
suốt một thời gian dài .Một nền kinh tế mà trong đó các cvấn đề cơ bản là :sản
xuất cái gì ?sản xuất như thế nào ? sản xuất nho ai ? đêù do nhà nước quyết định
qua những chỉ tiêu pháp lệnh bất chấp sự hoạt động của các quy luật kinh tế .Đặc
trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung là nhà nước điều khiển toàn bộ nền
kinh tế quốc dân ,các hoạt động tác nghiệp phụ thuộc vào các chỉ tiêu của nhà
nước . Các doanh nghiệp hoạt động theo kế hoạch phân phối tập trung của nhà
nước ,trong đó nhà nước quy định việc cấp phát vật tư ,giá cả ,khu vực thị trường
và lượng bán .
Sự cứng nhắc trọng hoạt động của nền kinh tế được thể hiện rất rõ thông
qua chế độ cung ứng vật tư ,chế độ phân phối và trao đổi hiện vật do nhà nước tổ
chức quản lý . Cùng với việc cung ứng vật tư cho các doanh nghiệp
sản xuất,
nhà nước cũng là người bao tiêu sản phẩm cho họ . Hoạt động tiêu thụ sản phẩm
không do bản thân doanh nghiệp quyết định ,vì vậy vai trò của nó không được thể
hiện ,kết quả hoạt động tốt hau xấu đều không ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp .Vai trò của khách hàng không được đề cao ,sản phẩm của
-7-
doanh nghiệp có phù hợp với nhu cầu của khách hàng hay không ?giá cả có hợp
lý hay không?các hoạt động dịch vụ kèm theo như thế nào ?…tất cả đều không
phải là những điều mà doanh nghiệp quan tâm . Cái họ quan tâm là làm thế nào
để hoàn thành các kế hoạch nhà nước giao.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này bao gồm các đặc trưng cơ
bản sau :
- Cung – cầu gặp nhau , cân bằng với nhau trước thi trao đổi diễn ra trên thị
trường .
- Vai trò của khách hàng không được đề cao trong các chiến lược tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp . Họ không phải là mối quan tâm hàng đầu của doanh
nghiệp .
- Hoạt động tiêu thụ sản phẩm gần như đồng nghĩa với hoạt động bán hàng.
- Mọi hoạt động tiêu thụ sản phẩm đều dựa trên chế độ phân phối và trao đổi
hiện vật do nhà nước tổ nhức và quản lý trên quy mô toàn xã hội .
b/ Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế thị trường :
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà các quan hệ kinh tế
,phân phối các lợi ích đều do các quy luật của thị trường điều tiết và chi phối
.Như vậy ,khác hẳn với cơ chế cũ ,vai trò của nhà nước không thể quản lý toàn bộ
cáchoạt động của doanh nghiệp mà chỉ giữ vai trò điều tiết nền kinh tế trên giác
độ vĩ mô. các doanh nghiệp
hoàn toàn tự chủ trong việc tiến hành các hoạt động
dản xuất kinh doanh vủa mình trong sự vận động không ngừng của các quy luật
kinh tế cũng như các diễn biế phức tạp trên thương trường .
Trong nền kinh tế thị trường ,các doanh nghiệp phải tự mình quyết định 3
vấn đề trung tâm cho nên việc tiêu thụ sản phẩm cần được hiểu theo nghĩa hẹp và
cả theo nghĩa rộng . Theo nghĩa tộng ,tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế
bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường ,xác định nhu cầu khách hàng
,đặt hàng và tổ chức sản xuất ,thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ ,xúc tiến bán hàng
…nhằm đạt được mục đích hiệu quả cao nhất . Theo hiệp đội kế toán quốc tế thì
tiêu thụ hàng hoá ,lao vụ ,dịch vụ là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm
-8-
hàng hoá ,lao vụ ,dịch vụ đã thực hiên cho khách hàng đồng thời thu được tiền
hàng hoá goặc được quyền thu tiền bán hàng .
Thực tế kinh doanh cho thấy không thiếu những sản phẩm của một doanh
nghiệp rất tốt nhưng vẫn không tiêu thụ dược bởi không biết cách tổ chức tiêu thụ
,không đáp ứng dược những nhu cầu tiêu dùng của xã hội .vì thế tiêu thụ sản
phẩm để trang trải được các khoản chi phí ,bảo đảm kinh doanh có lãi thật sự
không phải là vấn đề dơn giản .Nó đòi hỏi các doanh nghiệp
phải suy nghĩ ,trăn
trở và nhạy bén trước các diễn biến của thị trường hợn nữa ,hoạt động tiêu thụ
không chỉ xuất hiện sau khi đã hoàn thành các khâu trước của quá trình sản xuất
mà nó còn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh .
II/Các nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ da giầy ở Việt Nam :
Hoạt động tiêu thụ giầy da bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố . Trong đó có
một số yếu tố cơ bản sau .
-Thuế quan :Đây là nhân tố ảnh hưởng tới việc sản xuất và tiêu thụ giầy da
.nó tác động tới xuất khẩu của mỗi nước . Chẳng hạn đối với thị trường EU hiện
nay ,họ áp dụng thuế xuất thuế nhập khẩu của giầy là khác nhau với mỗi nước .
Hiện nay đây là nhân tố tích cực cho tiêu thụ da giầy Việt Nam . Ta được hưởng
chế độ thuế quan phổ cập GSP với mức thuế suất thuế nhập khẩu thấp ( 13.38 %
đến 14%) trong khi đó ,trung quốc ,indonesia ,thailand … thì không được hưởng
ưu đãi GSP đối với mặt hàng giầy dép . Có thể nói thuế quan là công cụ tác động
tích cực đối với xuất khẩu giầy và tiêu thụ giầy ở Việt Nam .
-Hạn ngạch :hình thức này áp dụng như là một công cụ chủ yếu trong hàng
rào phi thuế quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong xuất khẩu hàng hoá .
Hiện nay đối với Việt Nam hạn ngạch không áp dụng đối với xuất khẩu
giầy sang EU ,nhưng Trung Quốc ,Indonesia thì bị EU khống chế khối lượng
giầy dép nhập khẩu .Như vậy hạn ngạch cũng là nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu
và tiêu thụ giầy dép .
-Thị trường lao động : lao động là một yếu tố đầu vào đóng góp phần quan
trọng đáng kể trong việc sản xuất và tiêu thụ giầy da nói chung . Do đây là ngành
-9-
sử dụng nhiều lao động nên giá nhân công rẻ sẽ tác động mạnh tới giá cả và tiêu
thụ sản phẩm . Hiện nay ,Việt Nam ,lào ,myama…có giá nhân công rẻ tương đối
so với thailand như vậy ,giá thành của giầy xuất khẩu có lợi hơn so với thailand
và những nước có giá nhân công đắt .
-Các yếu tố khoa học công nghệ :
Yếu tố khoa học công nghệ giúp cho việc sản xuất tạo ra được sản phẩm
với chất lượng cao hơn ,hợp với thị hiếu người tiêu dùng trên thị trường quốc tế
mà giá thành lại thấp hơn.ở nước ta hiện nay đang bị lạc hậu về khoa học và công
nghệ vì vậy muốn nâng cao khả năng tiêu thụ cần chú trọng nghiên cứu yếu tố
này vì chất lượng giầy da ngày càng yêu cầu cao hơn .
-Các yếu tố cạnh tranh :
Cạnh tranh là nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ da giầy Việt Nam . Hiện nay
ở các thị trường tiêu thụ các nước ta phải cạnh tranh rất gay gắt với các nước xuất
khẩu khác để giành khách hàng. Đó là cạnh tranh về chất lượng ,giá cả ,thuế
xuất…
- Thị trường nguyên vật liệu đầu vào :
Có một số quốc gia xuất khẩu giầy tự cung tự cấp được nguyên vật liệu
đầu vào trong toàn bộ quá trình sản xuất như trung quốc .Việt Nam chỉ tự cung
tự cấp được vải ,cao su . Còn một số quốc gia khác lại phải nhập hoàn toàn
nguyên vật liệu như lào … như vậy nguyên vật liệucũng là một thị trường đầu
vào quan trọng trong quá trình sản xuất giầy để xuất khẩu .ở nước ta đối với
nguyên vật liệu trong nước không tự cung cấp được thì sẽ không bị đánh thuế
nhập khẩu.điều này ảnh hưởng có lợi đến tiêu thụ và xuất khẩu .
Ngoài ra còn có các yếu tố như :
* Môi trường văn hoá xã hội:
Yếu tố văn hoá xã hội luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng và có
ảnh hưởng lớn đến sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các thị trường luôn bao gồm con người thực với số tiền mà họ sử dụng
trong việc thoả mãn các nhu cầu của họ. Một cách đơn giản có thể hiểu: thị
trường = khách hàng + túi tiền của họ. Các thông tin về môi trường này cho phép
- 10 -
doanh nghiệp có thể hiểu biết những mức độ khác nhau (từ khái quát đến cụ thể)
về đối tượng phục vụ của mình. Qua đó, có thể đưa ra một cách chính xác sản
phẩm và cách thức phục vụ khách hàng.
Tiêu thức thường được nghiên cứu khi phân tích môi trường văn hoá - xã
hội và ảnh hưởng của nó đến kinh doanh:
+ Dân số (quy mô của nhu cầu và tính đa dạng của nhu cầu): tiêu thức này
ảnh hưởng đến dung lượng thị trường.
+ Xu hướng vận động của dân số: Tiêu thức này ảnh hưởng chủ yếu đến nhu
cầu và việc hình thành các dòng sản phẩm thoả mãn nó trên thị trường.
+ Thu nhập và phân bố thu nhập của người tiêu thụ: Tiêu thức này ảnh
hưởng đến nhu cầu sự lựa chọn loại sản phẩm và chất lượng cần đáp ứng của sản phẩm.
+ Dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, nền văn hoá: Phản ánh quan điểm và
cách thức sử dụng sản phẩm vừa yêu cầu đáp ứng tính riêng biệt về nhu cầu vừa
tạo cơ hội đa dạng hoá khả năng đáp ứng của doanh nghiệp cho nhu cầu.
-Mốt ,thị hiếu ..
Phần II: Nội dung chủ yếu của công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm ở doanh
nghiệp .
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp bao gồm hai loại quá
trình liên quan mật thiết đến sản phẩm: các nghiệp vụ kỹ thuật sản xuất và các
nghiệp vụ kinh tế, tổ chức và kế hoạch hoá tiêu thụ.
Tiêu thụ sản phẩm là tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức kinh tế và kế
hoạch nhằm thực hiện việc nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trường ,tổ chức sản
xuất tiếp nhận sản phẩm ,chuẩn bị hàng hoá và xuất bán theo nhu cầu của khách
hàng với chi phí nhỏ nhất .
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm các nội dung
chính sau :
-Nghiên cưú thị trường tiêu thụ sản phẩm
- 11 -
-Tạo nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu của thị trường .
-Tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu tiêu thụ .
-Quản trị dự trữ sản phẩm ở doanh nghiệp .
-Xác định giá cả trong tiêu thụ .
-Tiến hành phân phối sản phẩm trong các kênh tiêu thụ .
-Xúc tiến bán hàng .
-Phân tích đánh giá hiệu quả tiêu thụ .
I. Xác định nhu cầu thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp là những chủ thể kinh tế
độc lập và phải tự mình quyết định cả ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Lợi
nhuận là mục tiêu sống còn của doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận doanh nghiệp
phải tiêu thụ được hàng hoá, sản phẩm của doanh nghiệp phải phù hợp với nhu
cầu của thị trường. Để tồn tại và phát triển lâu dài thì mỗi doanh nghiệp cần phải
xác định nhu cầu của thị trường về sản phẩm của mình.
Các doanh nghiệp là các tác nhân trên thị trường nên phải nghiên cứu thị
trường để phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh thích ứng với thị trường.
Nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để định ra các chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp từ đó tiến hành lập và thực hiện các kế hoạch kinh doanh, chính
sách thị trường nhằm trả lời cho các câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thé
nào? và sản xuất cho ai?. Tức là thị trường đang những loại sản phẩm gì? đặc
điểm kinh tế kỹ thuật của nó ra sao? Dung lượng về thị trường của loại sản phẩm
đó như thế nào? ai là những người tiêu thụ sản phẩm đó?
Nghiên cứu xác đinh nhu cầu của thị trường là việc cần thiết, đầu tiên đối
với mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu kinh doanh, đang kinh doanh hoặc muốn mở
rộng và phát triển kinh doanh vì thị trường không phải là bất biến mà luôn biến
động, đầy bí ẩn và thay đổi không ngừng. Do đó nghiên cứu xác định nhu cầu
của thị trường phải là việc làm thường xuyên của các doanh nghiệp . Nội dung
nghiên cứu thị trường gồm:
- 12 -
Nghiên cứu các nhân tố của môi trường, để phân tích được những ràng
buộc ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp cũng như những thời cơ
có thể phát sinh.
Thu thập thông tin khái quát về quy mô thị trường chủ yếu qua các tài liệu
thống kê về tiêu thụ và bán hàng giữa các không gian thị trường như:
doanh số bán của ngành và nhóm hàng theo hai chỉ tiêu hiện vật và giá trị:
số lượng người tiêu thụ, người mua và người bán trên thị trường; mức độ
thoả mãn nhu cầu thị trường so với tổng dung lượng thị trường.
Nghiên cứu tổng quan kết cấu địa lý, mặt hàng, phân bố dân cư và sức
mua, vị trí và sức hút, cơ cấu thị trường người bán hiện hữu của thị trường
tổng thể.
Nghiên cứu động thái và xu thế vận động của thị trường ngành, nhóm
hàng, lĩnh vực kinh doanh (tăng trưởng, bão hoà, đình trệ hay suy thoái)
Từ những kết quả phân tích các nội dung trên, doanh nghiệp có cách nhìn
tổng thể về định hướng chọn cặp sản phẩm thị trường triển vọng nhất, đánh
giá tiềm năng thị trường tổng thể, đo lường thị phần và tập khách hàng
tiềm năng của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng phải rất chú ý đến công tác nghiên cứu khách
hàng với các nội dung sau:
Xác định các thông số khái quát và phân loạikhách hàng tiềm năng theo các
chỉ tiêu kinh tế và xã hội học (giới tính, tuổi, thu nhập, nghề nghiệp, tầng lớp xã
hội).
Nghiên cứu tập tính và thói quen, cấu trúc logic lựa chọn của khách hàng và
ảnh hưởng của trao đổi thông tin mua bán đến tiến trình mua hàng của khách
hàng.
Nghiên cứu động cơ mua sắm và hàng vi ứng xử của các khách hàng tiềm
năng
Nghiên cứu tâm lý khách hàng
- 13 -
II. Tạo nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu của thị trường:
Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, nhiệm vụ cơ bản nhất của các doanh
nghiệp
là đảm bảo các loại vật tư hàng hoá cần thiết, đủ về số lượng, tốt về chất
lượng, kịp thời gian yêu cầu và thuận lợi cung ứng cho sản xuất và tiêu dùng đều
đã có nhà nước lo. Nhưng khi chuyển sang cơ chế thị trường, để có nguồn hàng
tốt và ổn định, các doanh nghiệp
phải tự tổ chức công tác tạo nguồn mua hàng.
Công tác tạo nguồn mua hàng là những hoạt động nghiệp vụ nhằm tạo ra nguòn
hàng hoá để đảm bảo cung ứng đầy đủ kịp thời, đồng bộ, đúng quy cách cỡ loại
màu sắc... Cho các nhu cầu của sản xuất và kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của
khách hàng.
1. Vai trò của việc tạo nguồn hàng:
Trong kinh doanh, tạo nguồn và mua hàng là khâu mở đầu cho hoạt động
nghiệp vụ lưu thông hàng hoá (T-H-T’). Nếu không mua được hàng hoặc mua
hàng không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp
không có hàng để bán hoặc số lượng chất lượng thời gian không đáp ứng được
yêu cầu của thị trường làm cho hàng hoá bị ứ đọng, vốn lưu động không lưu
chuyển được, doanh nghiệp không bù đắp nổi chi phí, sẽ không có lãi.
10: Nguồn hàng là một điều kiện của hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu
không có nguồn hàng thì doanh nghiệp không thể tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh.
20: Tạo nguồn và mua hàng phù hợp với yêu cầu của khách hàng sẽ giúp
cho hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi, kịp thời,đẩy nhanh được
tốc độ lưu chuyển của hàng hoá, tạo điều kiện cho doanh nghiệp h\bán hàng
nhanh chóng đồng thời đảm bảo uy tín với khách hàng, làm cho việc cung ứng
hàng diễn ra một cách liên tục, ổn định, tránh đứt đoạn.
30: Giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hạn chế bớt
được tình trạng thừa thiếu, ứ đọng hàng, hàng chậm luân chuyển, kém phẩn chất,
không bán được ảnh hưởng tới uy tín của doanh nghiệp đối với thị trường.
- 14 -
40: Có tác dụng lớn giúp cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp thuận
lợi, thu hồi vốn nhanh, có tiền bù đắp chi phí, có lợi nhuận để phát triển và mở
rộng sẳn suất kinh doanh, tăng thu nhập cho người lao động và thực hiện nghĩa
vụ đối với nhà nước.
2. Phân loại nguồn hàng:
Nguồn hàng của doanh nghiệp được phân chia sắp xếp theo các tiêu thức
cụ thể riêng biệt để doanh nghiệp có các chính sách, biện pháp thích hợp nhằm
khai thác tối đa lợi nhuận của mỗi loại nguồn hàng.
- Theo khối lượng hàng hoá mua được:
Nguồn hàng chính: là nguồn hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng khối
lượng hàng hoá mà doanh nghiệp mua về trong kỳ để đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh và của thị trường.
Nguồn hàng phụ, mới: là nguồn hàng chiếm tỷ lệ nhỏ trong khối lượng
hàng được mua.
Nguồn hàng trôi nổi: là nguồn hàng được mua trên thị trường của đơn vị
tiêu dùng hay đơn vị kinh doanh bán ra.
- Theo nơi sản xuất ra hàng hoá:
Nguồn hàng sản xuất trong nước: là nguồn hàng do các đơn vị thuộc mọi
thành phần kinh tế khai thác, chế biến, gia công, lắp ráp trên lãnh thổ Việt Nam.
Nguồn hàng nhập khẩu: là các nguồn hàng mà trong nước chưa đủ đáp ứng
hoặc đáp ứng không đủ cho nhu cầu sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn hàng tồn kho: là những nguòn có thể là nguồn theo kế hoạch dự trữ
của nhà nước, nguồn tồn kho của các doanh nghiệp ...
- Theo điều kiện địa lý: theo tiêu thức này, nguồn hàng được phân theo các
khoảng cách từ nơi khai thác, đặt hàng, thu mua đưa về doanh nghiệp.
- Theo mối quan hệ kinh doanh:
- 15 -
Nguồn hàng tự sản xuất, khai thác:
Nguồn liên doanh liên kết
Nguồn đặt hàng và thu mua
Nguồn hàng của đơn vị cấp trên
Nguồn hàng nhận đại lý
Nguồn hàng ký gửi.
3. Các hình thức tạo nguồn và mua hàng:
- Mua hàng theo đơn đặt hàng và hợp đồng kinh tế ký trước: hình thức mua hàng
này giúp cho các doanh nghiệp ổn định được nguồn hàng, có nguồn khá chắc
chắn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Doanh ngiệp cần quan tâm theo dõi,
kiểm tra, giúp đỡ và hợp tác chặt chẽ với đơn vị nguồn hàng để thực hiện đúng
hợp đồng đã ký kết.
- Mua hàng không theo hợp đồng: đây là hình thức mua đứt bán đoạn trên thị
trường của doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu ngoài kế hoạch của các khách hàng.
Điều chú ý khi mua hàng theo cách này là phải kiểm tra kỹ số lượng chất lượng,
nguồn gốc của hàng hoá để đảm bảo hàng hoá mua về có thể sản xuất và bán
được cho khách hàng.
- Mua qua đại lý: thường xảy ra khi doanh nghiệp ở những nơi nguồn hàng
không tập trung, không thường xuyên. Khi mua hàng hoá, doanhnghiệp cần phải
có sự lưạ chọn, ký kết hợp đồng chặt chẽ về chất lượng, số lượng, giá cả... Của
hàng mua cũng như lợi ích của hai bên.
- Liên doanh liên kết tạo nguồn hàng: với các doanh nghiệp
sản xuất kinh
doanh do thiếu vốn, kỹ thuật, nguyên vật liệu... làm cho họ không thể nâng cao
được chất lượng và số lượng của sản phẩm, các doanh nghiệp
có thể lợi dụng
ưu thế của mình liên doanh liên kết với họ đảm bảo lợi ích của hai bên.
- Gia công hoặc bán nguyên liệu thu mua thành phẩm: gia công là hình thức
doanh nghiệp đưa nguyên vật liệu đến đơn vị gia công và trả phí gia công khi đơn
- 16 -
vị gia công đã giao hàng (phù hợp với nhu cầu của khách hàng) đủ tiêu chuẩn.
Bán nguyên liệu thu mua thành phẩm là hình thức doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh bán bán nguyên liệu cho đơn vị sản xuất và mua sản phẩm theo hợp đồng.
- Tự sản xuất khai thác hàng hoá: thực chất của hoạt động này là đầu tư vào sản
xuất để tạo nguồn hàng vững chắc, bảo đảm lợi ích của cả người sản xuất lẫn
người kinh doanh. Tuy nhiên việc đầu tư này đòi hỏi có nguồn vốn lớn, sinh lời
chậm và phải hiểu biết về công nghệ.
- Nhận bán hàng uỷ thác và ký gửi: chỉ có ở các doanh nghiệp
thương mại khi
tận dụng mạng lưới bán hàng của mình để bán hàng (hàng hoá không thuộc sở
hữu và vốn của doanh nghiệp thương mại) cho các doanh nghiệp
sản xuất kinh
doanh khác để nhận chi phí uỷ thác hoặc lệ phí ký gửi và làm phong phú thêm
nguồn hàng của doanh nghiệp.
4. Xác định lượng hàng và thị trường cần mua bán:
Xác định lượng hàng cần mua trong kỳ là một vấn đề cực kỳ quan trọng
thường được xác định theo công thức:
M = XXK + DCK – DĐK
Trong đó:
M: số lượng hàng hóa hoặc nguyên vật liệu cần mua theo từng loại trong kỳ theo
đơn vị hiện vật (tấn , tạ ...)
XXK: khối lượng hàng cần bán ra tính theo từng loại, các phương thức bán trong
kỳ kế hoạch.
DCK: khối lượng hàng hoá nguyên vật liệu cần dự trữ ở cuối kỳ kế hoạch.
DĐK: khối lượng hàng hoá nguyên vật liệu tồn đầu kỳ kế hoạch.
Khi mua hàng phải chọn thị trường có giá hạ nhất và khi bán hàng phải
chọn thị trường có giá cao nhất. Nếu gọi PY là đơn giá mua tại thị trường y và PX
là đơn giá mua tại thị trường x, ta có thể tính được khoản doanh thu có thể kiếm
được do việc kinh doanh hàng hoá R = (P X - PY) * Q. ở đây,R lớn hay nhỏ phụ
thuộc vào sự chênh lệch (PX - PY) = H cao hay thấp.
- 17 -
Nếu H< 0 thì không nên mua hàng vì giá thị trường bán thấp bằng và thấp
hơn thị trường mua.
Nếu H > 0 thì ta tính tiếp: H * Q >0, sau khi trừ chi phí vận chuyển chi phí
trả lãi vay ngân hàng, khoản trượt giá do lạm phát, chi phí hao hụt, chi phí
quản lý, đóng thuế, mua bảo hiểm... nếu có lãi thì quyết định mua.
III. Tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu tiêu thụ:
Tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu tiêu thụ là việc thực hiện các hoạt
động dịch vụ kết hợp và phục vụ cho các hoạt động chính của kinh doanh thương
mại hàng hoá nhằm: đáp ứng thuận tiện, văn minh, kịp thời mọi nhu cầu của
khách hàng, gây được tín nhiệm và thiện cảm với khách hàng và có tác dụng thu
hút khách hàng đến với doanh nghiệp; lưu chuyển vật tư hàng hoá nhanh, bán
được nhiều hàng, nâng cao được vòng quay của vốn lưu động; nâng cao thu nhập,
năgn suất lao độngvà doanh thu của doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng suất
lao động xã hội; tạo ra được quan hệ mua bán rộng rãi, thanh toán tin cậy có tác
dụng lớn trong củng cố địa vị và thế lực của doanh nghiệp trên thương trường; sở
dụng hợp lý lao động xã hội, tạo ra kiểu kinh doanh thương mại văn minh phù
hợp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và văn minh xã hội.
Các loại hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu tiêu thụ của các
doanh nghiệp
thương mại có thể được phân loại theo các tiêu thức sau:
-Phân loại theo quá trình mua bán:
Dịch vụ trước khi mua bán hàng hoá: gồm có các dịch vụ về thông tin, giới
thiệu, quảng cáo, chào hàng, về loại hàng hoá và các dịch vụ kèm theo, các dịch
vụ về chuẩn bị hàng hoá, đóng gói sẵn theo yêu cầu cầu khách hàng, đặt hàng
trước, ký hợp đồng... Các dịch vụ về triển lãm hàng hoá tại các hội chợ, quầy
hàng giới thiệu sản phẩm và bầy mẫu hàng...
Dịch vụ trong khi mua bán hàng hoá: là các dịch vụ giao tiếp giưuã khách
hàgn và doanh nghiệp, bao gồm các dịch vụ giới thiệu hàgn hoá, hướng dẫn lựa
chọn hàng hoá, dịch vụ về ký kết hợp đồng, thanh toán tiền hàng, bốc xép hàng
hoá, giao hàng nhanh gọn, kịp thời gian...
- 18 -
Dịch vụ sau khi bán hàng: gồm các dịch vụ như lắp đặt, hướng dẫn sử
dụng, thu mua hàng cũ, sửa chữa bán phụ tùng, gia công tái chế...
- Phân loại hoạt động dịch vụ theo tính chất:
Dịch vụ sản xuất kỹ thuật hoàn thiện sản phẩm: gồm các dịch vụ chuẩn bị
vật tư hàng hoá, phân loại. Chọn lọc ghép đồng bộ đóng gói và gửi hàng; dịchvụ
sửa chưa thiết bị máy móc, thay thế phục hồi giá trị sử dụng của loại vật tư hàng
hoá; kiểm tra cố vấn kỹ thuật vật tư hàng hoá...
Dịch vụ kinh doanh thương mại: là các dịch vụ có tính chất thương mại
như thông tin, giới thiệu quảng cáo sản phẩm, các hoạt động mua bán giao dịch
thương mại, ký gửi hàng hoá, cho thuê kho, cửa hàng, phương tiện, nhân viên...
Dịch vụ bốc xếp vận chuyển và gửi hàng: là nhóm dịch vụ vận tải và xếp
dỡ hàng hoá do các doanh nghiệp có phương tiện chuyên dùng thực hiện phục vụ
khách hàng hoặc các doanh nghiệp khác không có đủ cơ sở cật chất.
IV. Quản trị dự trữ thành phẩm ở các doanh nghiệp :
Dự trữ thành phẩm là những sản phẩm được xuất xưởng và nhập kho thành
phẩm nhưng chưa giao cho khách hàng. Việc hình thành loại dự trữ này là một tất
yếu do phải thực hiện các nghiệp vụ chuẩn bị sản phẩm trước lúc bán và do
không ăn khớp về thời gian sản xuất với thời gian giao hàng.
Đại lượng dự trữ thành phẩm ở các doanh nghiệp cần phải ở mức tối ưu và
đáp ứng hai yêu cầu:Đủ để bán hàng liên tục, tối thiểu nhằm tăng tóc độ chu
chuyển vốn lưu động. Điều này chỉ có thể dạt được bằng chách xây dựng có khoa
học hệ thóng mức dự trữ thành phẩm và tuân thủ các mức đó trong quá trình thực
hiện kế hoạch sản xuất và kinh doanh.
Mức dự trữ thành phẩm là đại lượng dự trữ bình quân năm tính theo ngày ở
cuối kỳ kế hoạch. Căn cứ vào thời gian cần thiết để thực hiện các nghiệp vụ tiêu
thụ, người ta xác định mức này theo phương pháp tính toán. Những nghiệp vụ đó
và thời gian thực hiện ở các doanh nghiệp
có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc
điểm của sản phẩm ,mặt hàng, khối lượng sản xuất, lô hàng giao, hình thức vận
- 19 -
chuyển và các nhân tố khác. Các nghiệp vụ tiêu thụ bao gồm:Tích tụ và chuẩn bị
đồng bộ lô hàng, tiến hành các thí nghiệm, nghiên cứu, lên nhãn hiệu và bao
gói;Giao hàng;vận chuyển hàng về các điểm qui định và làm thủ tục chuyển hàng
cho đơn vị vận tải.
Toàn bộ thời gian để thực hiện các nghiệp vụ trên được gọi là chu kỳ tiêu
thụ và xác định mức dự trữ thành phẩm tính theo ngày. Thời gian cần tích tụ số
hàng đến một lượng đủ cho lô hàng xuất được xác định theo công thức sau:
Vhg
Tkh = -------Vbp
Trong đó:
Vhg : Số lượng sản phẩm của lô hàng xuất bán.
Vbq : Số lượng sản phẩm sản xuất bình quân ngày đêm dùng để giao hàng.
Đại lượng này được tính:
Vbq =
Vo Vnb
n
ở đây :
Vo :Lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch
Việt Namb:Số lượng sản phẩm dùng nội bộ doanh nghiệp
n : Số ngày trong kỳ(360:90:30)
Thời gian để tiến hành thử nghiệm các sản phẩm bằng thời gian theo qui
định phù hợp với điều kiện kỹ thuật và tiêu chuẩn hiện hành. Nó phụ thuộc vào
đặc điểm của các thử nghiệp tiến hành và tính chất sản phẩm. Đối với một số sản
phẩm, thời gian này thường được xác định có tính đến độ dài của quá trình ổn
định có tính chất cơ - lý của sản phẩm thu được trong quá trình sản xuất,vì các
thử nghiệm chỉ có thể tiến hành sau khi kết thúc quá trình đó.
- 20 -
- Xem thêm -