LỜI NÓI ĐẦU
Với bầt kỳ doanh nghiệp nào thì mục tiêu cuối cùng của mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh, trong nền kinh tế thị trường là
đem lại lợi nhuận. Với các doanh nghiệp ngoài nhà nước thì mục
tiêu cuối cùng không chỉ là tối đa hoá lợi nhuận mà còn phải tối
đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, nhưng không phải vì thế mà
phủ nhân vai trò đặc biệt quan trọng của lợi nhuận. Nhà kinh tế
học David Begg cũng đã cho rằng ít nhất trong điều kiện nhất
định, giả thiết tối đa hoá lợi nhuận là một mục tiêu quan trọng của
doanh nghiệp cũng không phải là không có lí.
Trong điều kiện hiện nay của nước ta, có lẽ cũng không sai khi
nói rằng một trong những mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp
là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận có vai trò hết sức quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
có tồn tại và phát triển được không, thì điều quan trọng là doanh
nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Lợi nhuận trở thành
động lực để doanh nghiệp naang cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, và đó cũng chính là thước đo đánh giá hiệu quả của hoạt
động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, việc tìm ra giải pháp tăng lợi
nhuận luôn là một trong những vấn đề được các doanh nghiệp
quan tâm hàng đầu khi tiền hành kinh doanh.
Xuất phát từ định hướng trên và từ quá trình tìm hiểu khó khăn,
thuận lợi trong việc thực hiện mục tiêu lợi nhuận của Công ty
Thép Thanh Bình H.T.C , được sự hướng dẫn tận tình của thầy
giáo: Phó Giáo Sư-Tiến sĩ Phạm Quang Trung, và các cô chú, anh
chị trong phòng tài chính kế toán, em chọn đề tài “ Phân tích lợi
nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong
sản xuất kinh doanh tại Công ty Thép Thanh Bình H.T.C”
làm chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề tốt nghiệp được trình
bày theo ba chương:
Chương 1: Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường
Chương 2: thực trạng hoạt động kinh doanh và lợi nhuận của
công ty thép Thanh Bình H.T.C
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận ở công ty
thép Thanh Bình H.T.C
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 LỢI NHUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN ĐỒI VỜI
DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1 HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
a. Doanh nghiệp
Theo luật doanh nghiệp được thông qua vào ngày 26/6/1999 “
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo qui định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Ở nước ta hiện nay có nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động.
Có thể phân loại doanh nghiệp căn cứ vào ngành nghề, hình thức
sở hữu.dựa vào hình thức sở hữu có các loại hình doanh nghiệp
sau:
- Doanh nghiệp Nhà nước
- Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
- Doang nhiệp tư nhân
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Doang nghiệp Nhà nước: theo điều 1 luật doanh nghiệp Nhà
nước “doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước
đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lí, hoạt động kinh doanh,
hoạc công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà
nước giao cho. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có
các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiẹm về toàn bộ hoạt
động kinh doanh trong phạm vi số vốn do Nhà nước quản lí”.
Công ty bao gồm công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu
hạn. là laọi hình doanh nghiệp được thành lập trên số vốn góp của
các thành viên. Hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận, cùng chia
lợi nhuận và cùng chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp.
Doanh ngiệp tư nhân, là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân
làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, gồm các doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy vậy trên thực tế thì bất kỳ laọi hình doanh nghiệp nào muốn
tồn tại và phát triển đều phải nghiên cứu, giải quyết ba vấn đề:
Quyết định sản xuất cái gì, quyết định sản xuất như thế nào và
quyết định sản xuất cho ai.
* Quyết định sản xuất cài gì
Với nền kinh tế thị trường luôn biến động và phát triển, thì nhu
cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ là rất lớn, ngày càng
tăng. Tuy nhiên trên thực tế, nhu cầu có khả năng thanh toán lại
thấp hơn cho nên muốn thoả mãn nhu cầu lớn, trong khả năng
thanh toán lại có hạn, xã hội và con người phải tiến hành lựa chọn
từng loại nhu cầu có lợi nhất. Tổng số các nhu cầu có khả năng
thanh toán của xã hội, của người tiêu dùng, chính là căn cứ là xuất
phát điểm để định hướng cho các chính phủ, doanh nghiệp quyết
định việc sản xuất và cung ứng cái gì. Trên cơ sở nhu cầu của thị
trường, chính phủ và các doanh nghiệp phải tính toán khả năng
sản xuất của nền kinh tế, của doanh nghiệp và các chi phí sản xuất
tương ứng để lựa chọn quyết định sản xuất và cung ứng những gì
mà thị trường có nhu cầu để có thể đạt lợi nhuận tối đa. Việc lựa
chọn và quyết định sản xuất cái gì chính là quyết định sản xuất
những loại hàng hoá nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao,
khi nào cần sản xuất và cung ứng. Cung, cầu, cạnh tranh trên thị
trường có tác động qua lại với nhau, có ảnh hưởng trực tiếp đến
xác điịnh giá cả thị trường và số lượng hàng hoá càn cung ứng.
Giá cả thị trường là thông tin quyết định đối với việc lụă chọn sản
xuất và cung ứng những hàng hoá và dịch vụ nào có lợi nhất cho
cả cầu và cung, có khả năng cạnh tranh mạnhtrên thị trường. Theo
Adam Smith thì giá cả thị trường chính là bàn tay vô hình điều
chỉnh quan hệ cung cầu và giúp chính ta lựa chọn phương thức và
quyết định sản xuất.
* Quyết định sản xuất như thế nào
Sau khi đã lựa chọn được sản xuất cái gì, chính phủ và các
doanh nghiệp phải xem xét và lựa chọn việc sản xuất như thế nào
để có thể cạnh tranh và giành thắng lợi trên thị trường và đạt lưọi
nhuận cao nhất. Tối đa hoá lợi nhuận trở thành động cơ khuyến
khích các doanh nghiệp tìm kiếm, lựa chọn cách thức sản xuất có
hiệu qủa nhất. Để đứng vững và cạnh tranh thắng lợi trên thị
trường, các doanh nghiệp phải luôn nắm bắt đổi mới công nghệ,
kỹ thuật, nâng cao trình độ của cán bộ, công nhân trong doanh
nghiệp.
* Quyết định sản xuất cho ai
Thị trường quyết định giá cả của các yếu tố sản xuất, do đó thị
trường cũng quyết định luôn thu nhập về hàng hoà và dịch vụ
cung ứng trên thị trường. Thu nhập của xã hội, của tập thể hay
của cá nhân phụ thuộc vào quyền sở hữu và giá trị của các yếu tố
sản xuất, phụ thuộc vào lượng hàng hoá và giá cả của các hàng
hoá dịch vụ. Vấn đề mấu chốt ở đây cần giải quyết là những hàng
hoá dịch vụ phânphối cho ai để vừa có thể kích thích mạnh mẽ sự
phát triển kinh tế có hiệu quả cao, vừa đảm bảo công bằng xã hội.
Nói một cách cụ thể, thu nhập Quốc dân, thu nhập của doanh
nghiệp sẽ được phân phối cho xã hội, cho tập thể và cá nhân như
thế nào để tạo động lực kích thích cho sự phát triển kinh tế xã
hộiđáp ứng những nhu cầu công cộng và nhu cầu xã hội khác.
Có một điều không thể phủ nhận, dù mục tiêu hoạt động của
doanh nghiệp là gì đi nữa thì trong hoạt động sản xuất kinh doanh
doanh nghiệp phải luôn cố gắng tìm kiếm và nâng cao lợi nhuận.
Chỉ có như vậy, các doanh nghiệp mới có thể tồn tại và có điều
kiện phát triển trong cơ chế thị trường. Vậy lợi nhuận mang màu
sắc gì và có tầm quaqn trọng như thế nào đối với doanh nghiệp.
b. Hoạt động của doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh là hoạt động đặc thù của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp kinh doanh những hàng hoá và dịch vụ mà thị
trường có nhu cầu, trong khả năng nguồn vốn hiện có của doanh
nghiệp, nhằm thu lợi nhuận cao nhất, nâng coa thu nhập của
người lao động, tích luỹ để đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở
rộng, góp phần tăng thu nhập quốc dân và thúc đẩy nền kinh tế
đất nước phát triển.
Hoạt động tài chính làmột trong những nội dung cơ bản và quan
trọng trong hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động
tài chính chủ yếu giải quyết các vấn đề sau đây:
- Chiến lược đầu tư
- Nguồn vốn đầu tư cho kinh doanh
- Sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp
- Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tìa chính để đảm
bảo trạng thái cân bằng tài chính.
- Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn để đưa ra các quyết định
thu chi cho phù hợp.
Các hoạt động trên nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận cao nhất, sản
xuất kinh doanh không ngừng tăng trưởng và phát triển
1.1.2 LỢI NHUẬN VÀ NGUỒN HÌNH THÀNH LỢI NHUẬN
1.1.2.1 Lợi nhuận
a. Các quan điểm và khái niệm về lợi nhuận
Với lợi nhuận, bức tranh màu hồng đối với mỗi doanh nghiệp thì
có rất nhiều quan điểm khác nhau. Ta có thể thấy được một số
quan điểmvề lợi nhuận của các nhà kinh tế kinh điển:
Lợi nhuận có thể được biểu thị một cách khoa học nhất dựa vào
học thuyết giá trị thặng dư, Karl Marx là nhà kinh tế đầu tiên đã
phân tích một cách khoa học nguồn gốc của lợi nhuận. Theo Karl
Marx lợi nhuận chính là hình thức chuyển hoá của giá trị thặng
dư. Trước Karl Marx, các nhà kinh tế học cổ điển cũng đã tìm ra
nguồn góc manh nha về lợi nhuận nhưng họ vẫn chưa đưa ra được
một luận chứng khoa học về nguồn gốc hình thành lợi nhuận.
Với Adam Smith, thì lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai” vào
sản phẩm của lao động. Theo cách giải thích của ông thì lợi
nhuận, lợi tức, địa tô chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị
thặng dư. Ông chưa thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá
trị thặng dư.
Với D.Ricardo thì xem lợi nhuận chính là phàn giá trị thừa ra
ngoài tiền công, ông chưa biết đến phạm trù của giá trị thặng dư,
tuy vậy ông nhất quán quan điểm cho rằng giá trị công nhân tạo ra
lớn hơn số tiền công mà họ nhận được. Ông coi lợi nhuận là phần
lao động của công nhân mà họ không nhận được tiền công. Về
điểm này Karl Marx đã có nhận xét “ so với Adam Smith thì
D.Ricardo đã đi xa hơn nhiều”. Tuy nhiên, cũng như A.Smith ông
cũng chưa đưa ra được luận chứng về nguồn gốc của lợi nhuận.
Kế thừa những tư tưởng của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển
để lại, kết hợp với sự nghiên cứu sâu sắc nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt là lí luận giá trị hàng hoá, sức lao động, Karl Marx
đã có kết luận đúng đắn “giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư
bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước sẽ mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận”. Như vậy, theo
Karl Marx lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư.
Dựa vào lý luận về lợi nhuận của Karl Marx, các nhà kinh tế học
hiện đại đã phân tích khá sâu sắc về nguồn gốc lợi nhuận của
doanh nghiệp. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại,
tất cả các cá thể khi tiến hành kinh doanh đều muốn thu đựoc lợi
nhuận cao, để có đựơc lợi nhuận cao, mỗi doanh nghiệp phải nhìn
thấy được những cơ hội mà người khác bỏ qua, luôn tìm ra cái
mới mà thị trường có nhu cầu, mặt khác luôn tìm kiếm phương
pháp sản xuất mới hiệu quả hơn để giảm thiểu chi phí sản xuất,
tăng chất lượng sản phẩm, đồng thời mỗi doanh nghiệp cũng phải
biết và chấp nhận mạo hiểm hơn trong kinh doanh. Nói chung,
với chi phí sản xuất ít nhất là nguồn gốc để tăng lợi nhuận của
mỗi doanh nghiệp. Nhưng trong thực tế thì lợi nhuận còn là tiền
thưởng cho việc doanh nghiệp mạnh dạn đổi mới, sáng tạo trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra cũng có những dn thu
được lợi nhuận cao nhờ kiểm soát được các quá trình, các sản
phẩm hay các thị trường đặc biệt mà sự biểu hiện quen thuộc nhất
là độc quyền, độc quyền kinh doanh về một loại hàng hoá dịch
vụ.
Như vậy, nguồn gốc lợi nhuận doanh nghiệp bao gồm: thu nhập
mặc nhiên từ các nguồn lực mà doanh nghiệp đã đầu tư cho kinh
doanh, phần thưởng cho sự mạo hiểm, đổi mới sáng tạo trong
doanh nghiệp và thu nhập do độc quyền.
Như vậy về mặt lượng, các điịnh nghĩa đều thống nhất “lợi
nhuận là khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí”.
Lợi nhuận là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất- kinh
doanh, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt
động của doanh nghiệp.
b. Các loại lợi nhuận của doanh nghiệp
Từ góc độ doanh nghiệp, có thể thấy rằng lợi nhuận của doanh
nghiệp là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh
nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Lợi nhuận doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận tù hoạt động
bất thường.
Khi nói đến lợi nhuận, các nhà kinh tế thường chia lợi nhuận
thành các loại:
* Lợi nhuận kinh tế, lợi nhuận kế toán
Lợi nhuận kinh tế là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí
kinh tế. Bên cạnh những chi phí kinh tế, chí phí phát sinh trong
hoạt động của doanh nghiệp còn bao gồm cả chi phí cơ hội. Đó là
chi phí do việc không sử dụng các nguồn lực (vốn, nhân công) để
đầu tư cho phương án khác tốt nhất mà doanh nghiệp đã bỏ qua.
Lập luận ở đây cho rằng, theo đuổi mục tiêu lợi nhuận của mình,
doanh nghiệp phải thường xuyên chạy theo những cơ hội khác
nhau mà doanh nghiệp có được.
Lợinhuận kế toán là những khoản chênh lệch giữ doanh thu và
chi phí kế toán. Đó là các khoản chi phí phát sinh do doanh
nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh. Việc không tính đến chi
phí cơ hội vào chi phí đã làm cho lợi nhuận kế toán luôn lớn hơn
lợi nhuận kinh tế.
* Lợi nhuận danh nghĩa, lợi nhuận thực tế
Lợi nhuận nếu không điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát được gọi là
lợi nhuận danh nghĩa. Với cùng kết quả đó nhưng ta điều chỉnh
theo tỷ lệ lạm phát thì ta sẽ có lợi nhuận thực tế.
Lợi nhuận danh nghĩa = lợi nhuận thực tế + tỷ lệ lạm phát
1.1.2.2 VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN, CÁC NGUỒN HÌNH
THÀNH LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
Mục đích của bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành kinh doanh
đều mmong muốn tìm kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị
trường thì lợi nhuận là thước đo hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh, là động lực kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp nghiệp
cũng như mỗi người lao động không ngừng sử dụng hợp lý tiết
kiệm các nguồn lực nâng cao sản xuất, chất lượng và hiệu quả của
quá trình sản xuất kinh doanh. Trong họt động sản xuất kinh
doanh để tạo ra được sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, các doanh
nghiệp nhất thiết phải đầu tư những chi phí nhất định. Họ phải
dùng tiền để mua sắm trang thiết bị, dụng cụ để tiến hành sản
xuất. Nừu không tiêu thụ được sản phẩm, tất yếu doanh nghiệp sẽ
gặp khó khăn về tài chính, về lâu dài sẽ không thể tồn tại và phát
triển. Vì vậy, điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi
nhuận hay không. Lợi nhuận đã trở thành đòn bẩy hoạt động và
đòn bấy kinh tế quan trọng, đồng thời còn là chỉ tiêu kinh tế cơ
bản để đánh giá hiệu quả sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để doanh nghiệp mở rộng tái
đầu tư sản xuất, lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự
phòng tài chính, quỹ dự phòng tợ cấp mất việc làm, quỹ phúc lợi
và quỹ khen thưởng. Việc thành lập các quỹ trên đã có tác động
lớn đến việc đề cao tự chủ tài chính doanh nghiệp, tích cực cải
tiến kỹ thuật, động viên kịp thời người lao động đồng thời đề
phòng rủi ro trong kinh doanh. Nhất là trong cơ chế thị trường,
với môi trường luôn biến động và cạnh tranh mạnh mẽ, luôn tồn
tại nhiều thành phần kinh tế thì các quỹ này có ý nghĩa quan trọng
trong hoạt động của doanh nghiệp.
Lợi nhuận có tác động đến mọi mặt của hoạt động doanh nghiệp,
có ảnh hưởng trực tiếp hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng
đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững
chắc, từ đó góp phần củng cố thế mạnh và uy tín của doanh
nghiệp trên thị trường.
Bên cạnh những ý nghĩa đó, lợi nhuận còn là cơ sở để tăng thu
nhập quốc dân, thuế thu nhập doanh nghiệp còn là nguồn thu
quan trọng của Nhà nước, đây là cơ sở cho sự phát triển kinh tế xã
hội. Doanh nghiệp chính là tế bào của nền kinh tế, do đó sự sản
xuất xã hội phụ thuộc vào sự phát triển của các doanh nghiệp và
tất nhiên lợi nhuận của doanh nghiệp giữ vai trò không nhỏ trong
sự phát triển này.
Với nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh, biến động không
ngừng, với nhu cầu sản xuất và tiêu thụ phông phú, đa dạng, do
vậy lợi nhuận của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau
- Thứ nhất: Lợi nhuận của các hoạt động sản xuất kinh doanh
chính và phụ, là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ và
chi phí về khối lượng sản phẩm hàng hoá.
- Thứ hai: Lợi nhuận của các hoạt động liên doanh, liên kết là
số chênh lệch giữa thu nhập phân chia từ kết quả hoạt động
liên doanh liên kết với chi phí của doanh nghiệp đã chia ra để
tham gia liên doanh
- Thứ ba: Lợi nhuận thu được từ các nghiệp vụ tài chính, là
chênh lệch giữa các khoản thu chi thuộc các nghiệp vụ tài
chính trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Thứ tư: Lợi nhuận do các hoạt động sản xuất kinh doanh khác
mang lại là lợi nhuận thu được do kết quả hoạt động kinh tế
khác mang lại
Như vậy suy cho cùng, lợi nhuận luôn luôn là mục tiêu và hướng
phấn đấu của doanh nghiệp. Như vậy qua phân tích trên chúng ta
đã thấyđược vai trò quan trọng như thế nào của lợi nhuận. Trong
phần tiếp theo chúng ta sẽ xem nền tảng của mỗi doanh nghiệp,
lợi nhuận được xác định như thế nào.
1.2 PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LỢI NHUẬN TUYỆT ĐỐI
1.2.1 CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LỢI NHUẬN CỦA
DOANH NGHIỆP
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh số lượng và chất lượng của các
mặt hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào
tổng mức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và tổng chi phí đã bỏ ra để
đạt được kết quả đó.
Với khái niệm đã được nêu ra ở phần trước: lợi nhuận doanh
nghiệp là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh
nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ các hoạt động của
doanh nghiệp. Nhưng đây đã là lợi nhuận mà doanh nghiệp được
sử dụng toàn bộ hay chưa. Tuy nhiên hiện nay còn tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau về lợi nhuận và phương pháp xác định lợi
nhuận chịu thuế thu nhập của doanh nghiệp.
Với Việt Nam hiện đang áp dụng cách tính:
Lîi nhuËn chÞu
thuÕ TNDN
=
Doanh thu (kh«ng cã
VAT, cã thuÕ TT§ B)
=
Chi phÝ (kh«ng cã
VAT, cã thuÕ TT§ B)
Quan điểm thứ hai cho rằng đối với doanh nghiệp thì cả VAT
và thuế TTĐB đều là chi phí của doanh nghiệp, đồng thời dựa vào
tổng thu và tổng chi trong kỳ kinh doanh thì VAT và thuế TTĐB
được coi là chi phí. Vì vậy, khi tính doanh thu và chi phí để xác
định lợi nhuận chịu thuế TNDN phải đưa VAT và thuế TTĐB vào
tính.
Lîi nhuËn chÞu
thuÕ TNDN
=
Doanh thu (cã VAT,
cã thuÕ TT§ B)
=
Chi phÝ (cã VAT,
cã thuÕ TT§ B)
Quan điểm thứ ba cho rằng, VAT và thuế TTĐB đều là thuế
gián thu, người tiêu dùng phải chịu do đó không ảnh hưởng đến
chi phí kinh doanh của doanh nghiệp do vậy VAT và thuế TTĐB
không được coi là chi phí của doanh nghiệp. Do đó trong trường
hợp này, doanh thu để xác định lợi nhuận chịu thuế TNDN là
doanh thu ngoài thuế và chi phí là toàn bộ các khoản chi phí hoạt
động kinh doanh, nhưng không kể VAT và thuế TTĐB phải nộp.
Trong bài nghiên cứu này, sẽ sử dụng quan điểm này để xác định
lợi nhuận chịu thuế TNDN.
Các chỉ tiêu lợi nhuận thường được sử dụng:
* Lợi nhuận gộp
Là doanh thu thuần khi đã trừ đi giá vốn hàng bán. Chỉ tiêu này
được xem xét khi chúng ta muốn biết ảnh hưởng của giá vốn hàng
bán tới kết quả hoạt động kinh doanh như thế nào.
Lợi nhuận gộp = Doanh thu thuần – Giá vốn hàng bán
* Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Là khoản lợi nhuận gộp sau khi trừ đi chi phí bán hàng, chi phí
quản lý doanh nghiệp (chưa tính lãi vay). Đây là chi tiêu lợi
nhuận được xem xét khi chúng ta muốn biết ảnh hưởng của lãi
vay tới hoạt động sản xuất kinh doanh như thế nào.
*Lợi nhuận trước thuế
Là khoản lợi nhuận gộp sau khi trừ chi phí bán hàng và quản lý
doanh nghiệp (bao gồm cả lãi vay).
Lợi nhuận trước thuế = Lợi nhuận gộp - Chi phí bán hàng &
QLDN
Đây là lợi nhuận trước thuế hay chính là lợi nhuận chịu thuế thu
nhập của doanh nghiệp, là cơ sở để tính số thuế thu nhập phải nộp
Nhà nước.
* Lợi nhuận sau thuế
Là lợi nhuận trước thuế sau khi đã trừ đi thuế thu nhập doanh
nghiệp
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế TNDN
Trong đó:
Thuế TNDN = Lợi nhuận trước thuế
TNDN
Thuế suất thuế
Lợi nhuận sau thuế là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả này cao hay
thấp sẽ ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Do đó lợi nhuận sau thuế là chỉ tiêu quan trọng mà
các doanh nghiệp thường quan tâm.
1.2.2. LỢI NHUẬN TUYỆT ĐỐI
Lîi nhuËn
Lîi nhuËn ho¹t
Lîi nhuËn ho¹t
Lîi nhuËn ho¹t
=
+
+
Doanh nghiÖp
® éng kinh doanh
® éng tµi chÝnh
® éng bÊt thêng
Tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận của
doanh nghiệp có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp thuộc các
lĩnh vực kinh doanh khác nhau và môi trường, thể chế kinh tế
khác nhau.
Cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh thông
thường khác với các doanh nghiệp kinh doanh thuộc lĩnh vực tài
chính ngân hàng. Với các doanh nghiệp thông thường, hoạt động
kinh doanh tách biệt với hoạt động tài chính. Cơ cấu lợi nhuận
của các doanh nghiệp này gồm: lợi nhuận hoạt động kinh doanh,
lợi nhuận của hoạt động tài chính, và lợi nhuận hoạt động bất
thường. Trong đó lợi nhuận hoạt động kinh doanh là bộ phận
chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ lợi nhuận. Còn các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, hoạt động tài chính
cũng chính là hoạt động kinh doanh bởi lẽ họ thực hiện chức năng
kinh doanh hàng hoá đặc biệt- tiền tệ. Do vậy cơ cấu lợi nhuận
của doanh nghiệp này chỉ gồm lợi nhuận hoạt động tài chính và
lợi nhuận hoạt động bất thường.
Trong các môi trường kinh tế khác nhau thì tỷ trọng các bộ phận
lợi nhuận trong tổng lợi nhuận cảu doanh nghiệp cùng loại cũng
có dự khác nhau. Chẳng hạn đối với doanh nghiệp kinh doanh
thông thường trong nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ
cao, thị trường tài chính phát triển, thì mảng hoạt động tài chính
của doanh nghiệp sẽ có điều kiện phát triển. Lợi nhuận từ hoạt
động tài chính có thể chiếm tỷ trọng lớn không kếm gì lợi nhuận
hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, trong một nền kinh tế
thị trường ở trình độ thấp, thị trường tài chính chưa phát triển thì
mảng hoạt động tài chính của các doanh nghiệp sẽ bị hạn chế. Do
vậy, lúc này lợi nhuận của hoạt động kinh doanh luôn chiểm tỷ
trọng lớn trong tổn lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.3 LỢI NHUẬN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh là khoản chênh lệch giữa
doanh thu thuần và tổng chi phí hoạt động kinh doanh. Hoặc bằng
lợi nhuận trướng thuế từ hoạt động kinh doanh trừ đi thuế thu
nhập doanh nghiệp.
LNt = Pi Qi – (Qi Zi +Qi Cpi + GT)
Trong đó:
- Pi :Giá bán của sản phẩm thứ i
- Cpi : Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp của sản
phẩm thứ i
- Qi: khối lượng sản phẩm tiêu thụ thứ i
- GT: Các khoản giảm trừ
- Lni (i = 1;3) Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, hoạt động tài
chính và hoạt động bất thường.
Hay:
Lîi nhuËn ho¹t
Tæng chi phÝ SXKD
= Doanh thu thuÇn ® éng kinh doanh
(ngoµi thuÕ)
* Xác định doanh thu thuần
Doanh thu thuần là khoản chênh lệch giữa doanh thu bán hàng
ngoài thuế và các khoản giảm trừ.
Doanh thu thuÇn =
Doanh thu b¸n
C¸c kho¶ n
hµng ngoµi thuÕ
gi¶ m trõ
+ Doanh thu bán hàng ngoài thuế là toàn bộ các khoản doanh thu
về tieu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ không bao gồm VAT đầu
ra và thuế TTĐB.
+ Các khoản giảm trừ bao gồm:
- Chiết khấu bán hàng là số tiền tính trên doanh thu bán hàng
trả cho khách hàng gồm chiết khấu thanh toán và chiết khấu
thương mại. Đây là số tiền giảm trừ cho khách hàng do khách
hàng đã thanh toán số tiền mua hàng (sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ…) trước thời hạn thanh toán đã thoả thuạn hoặc do
được ưu đãi.
- Giảm giá hàng bán là số giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá
đơn, hay các hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân
đặc biệt do hàng có chất kượng kém, không đúng quy cách
yêu cầu… hoặc khách hàng có nhu cầu mua với số lượng lớn.
- Hàng bán bị trả lại là số hàng đã được coi là tiêu thụ nhưng bị
khách hàng trả lại do các nguyên nhân như vi phạm hợp đồng
kinh tế, hàng kém phẩm chất không đạt quy cách sản xuất đề
ra…
* Xác định tổng chi phí
Tổng chi phí doanh nghiệp sử dụng tương ứng với lượng sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ. Tổng chi phí được xác
định theo công thức sau:
Tæng chi phÝ =
Gi¸ vèn
hµng b¸n
+
Chi phÝ
b¸n hµng
+
Chi phÝ qu¶ n lý
Doanh ngiÖp
- Đối với doanh nghiệp thương mại
Giá vốn hàng bán = Giá thành phẩm + Chênh lệch hàng tồn kho
Trong đó:
Chª nh lÖch
hµng tån kho
=
Hµng tån kho
® Çu kú
-
Hµng tån kho
cuèi kú
- Đối với doanh nghiệp sản xuất
Giá vốn hàng bán = Giá vốn hàng mua + Chênh lệch thành phẩm
tồn kho
Trong đó:
Chª nh lÖch thµnh
phÈm tån kho
= (Tån kho ® Çu kú ) - (Tån kho cuèi kú )
Giá thành sản xuất = Chi phí sản xuất + Chênh lệch sản phẩm
dở dang
- Xem thêm -