1
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tất cả các hoạt động bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế
quốc dân thì công tác tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Điều đó chứng tỏ rằng chỉ có tiêu thụ sản phẩm thì các
hoạt động khác của doanh nghiệp mới có thể diễn ra một cách liên tục, đảm bảo
cho doanh nghiệp thực hiện được các chỉ tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh,
đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển trên thị trường vốn đầy tính
cạnh tranh.
Hoạt động trong cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước mỗi doanh
nghiệp đều trở thành một chủ thể kinh tế của quá trình tiêu dùng. Nếu không có quá
trình lưu thông thì không có quá trình tiêu dùng và không có quá trình sản xuất.
Mặt khác môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp hoạt động luôn biến động không
ngừng, thị trường luôn vận động theo những quy luật vốn có của nó, do vậy doanh
nghiệp phải nắm bắt xu thế vận động của thị trường, đưa ra các chiến lược, quyết
định sản xuất kinh doanh phù hợp với sự thay đổi của thị trường nói riêng và môi
trường kinh doanh nói chung. Thì doanh nghiệp mới có cơ hội thành công trong
lĩnh vực kinh doanh của mình. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
các doanh nghiệp không những có nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm mà còn có nhiệm
vụ tổ chức tiêu thụ sản phẩm đó. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá
trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển bền vững nếu họ bám sát
và thích ứng với mọi sự thay đổi của thị trường và có trách nhiệm đến cùng với sản
phẩm của mình kể cả khi sản phẩm đó đang được người tiêu dùng sử dụng. Vì thế
chiến lược tiêu thụ sản phẩm là một bộ phận hợp thành vô cùng quan trọng trong
chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giúp doanh
nghiệp thực hiện các mục tiêu cơ bản của sản xuất kinh doanh là: Sản xuất ra sản
phẩm gì? Sản xuất như thế nào? Bán cho ai? Khi nào? Để một mặt tăng cường
được thế lực của doanh nghiệp trên thị trường, mặt khác có thể giúp cho doanh
nghiệp có thể vận dụng tới mức tối đa các ưu thế về trí tuệ và nguồn lực của mình,
2
hạn chế rủi ro nhằm đảm bảo kinh doanh có lãi trong doanh nghiệp. Điều này sẽ
đảm bảo cho sự lớn mạnh của doanh nghệp.
Chình vì vậy công tác chiến lược tiêu thụ sản phẩm được xác định đúng đắn
sẽ là tiền đề giúp cho doanh nghiệp có những chính sách, cách ứng xử phù hợp và
nhạy bén. Nhằm giành được ưu thế so với đối thủ cạnh tranh, tăng thị phần của
mình. Chính vì lẽ đó trong thời gian thực tập tại đây tôi dã chọn đề tài “Phân tích
kết quả tiêu thụ sản phẩm xi măng ở Công ty cổ phần Constrexim Bình Định”
là đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống những lý luận liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
- Phân tích đánh giá thực trạng tiêu thụ sản phẩm xi măng của công ty cổ
phần Constrexim Bình Định.
- Đề xuất những biện pháp nâng cao tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng của
công ty.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng của Công ty cổ phần
Cônstrexim Bình Định từ năn 2006 – 2008 có chiều hướng phát triển như thế nào,
có thuận lợi và khó khăn ra sao dựa trên bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh.
Mặt khác do thời gian thực tập có hạn và sự hạn chế của tôi về tình hình thực
tế kinh doanh ngoài thị trường của công ty như thế nào. Chính vì vậy, bài viết của
tôi không đi sâu vào phân tích chi tiết, không phân tích tất cả các nhân tố mà chỉ
đánh giá một số nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ sản phẩm của
công ty dựa vào những số liệu thu thập được từ nhà máy và những thông tin liên
quan đến lĩnh vực xi măng. Từ đó, đưa ra những biện pháp nhằm cải thiện tình hình
tiêu thụ sản phẩm xi măng của công ty.
Số liệu phân tích được giới hạn trong 3 năm từ 2006 đến 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liêu
3
Các loại dữ liệu bao gồm các báo cáo tài chính ( bảng báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh, bảng cân đối kế toán) để phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm.
Dữ liệu chủ yếu được thu thập từ phòng kinh doanh và phòng tài chính kế toán.
Các dữ liệu khác bao gồm: báo, tạp chí, Internet và các thông tin liên quan
đến lĩnh vực xi măng…
Phương pháp xử lý số liệu: từ số liệu thu thập được, dùng phương pháp so
sánh để đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng của công ty qua từng năm,
dùng phương pháp diễn dịch để đưa ra nhận xét, dùng đồ thị, biểu đồ để xử lý số
liệu….
5. Kết cấu đề tài
Chuyên đề được trình bày gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Chương 2: Thực trạng tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng ở Công ty cổ
phần Constrexim Bình Định.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao mức tiêu thụ sản phẩm xi măng ở
Công ty cổ phần Constrexim Bình Định.
4
Chương một
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
1.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động tiêu thụ sản phẩm
1.1.1. Khái niệm về tiêu thụ
Trên góc độ kinh tế ta hiểu tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển đổi quyền
sở hữu và quyền sử dụng hàng hoá tiền tệ giữa các chủ thể kinh tế. Hay tiêu thụ
hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và vòng chu
chuyển vốn sản xuất kinh doanh của dịch vụ được hình thành. Thực tế cho thấy ứng
với mỗi cơ chế quản lý kinh tế, công tác tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng các
hình thức khác nhau.
Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng
mệnh lệnh. Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp rất sâu vào nghiệp vụ sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm về các quyết
định của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, các vấn đề kinh tế cơ bản hoàn toàn do các
doanh nghiệp tự ý quyết định nên hoạt động tiêu thụ sản phẩm được hiểu theo
nghĩa rộng hơn: “Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất
kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp”. Lúc
này, mỗi doanh nghiệp với một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu, từ việc
nghiên cứu thị trường để xác định nhu cầu khách hàng, việc tổ chức mạng lưới bán
hàng, tổ chức các hoạt động xúc tiến bán hàng… cho đến việc phân tích tình hình
tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Như vậy, hoạt động tiêu thụ sản phẩm được cấu thành
đồng bộ bởi các yếu tố khác nhau bao gồm:
- Các chủ thể kinh tế tham gia (người bán, người mua)
5
- Đối tượng của hoạt động tiêu thụ sản phẩm (hàng hoá, tiền tệ)
- Thị trường, môi trường hoạt động để người bán, người mua giao dịch với
nhau.
1.1.2. Đặc điểm của tiêu thụ sản phẩm trong nền kinh tế thị trường
Tiêu thụ sản phẩm là công việc hàng ngày của các doanh nghiệp đồng thời
cũng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh. Trong thời đại bùng nổ
thông tin, thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, sản phẩm tiêu thụ có tới
hàng vạn hàng nghìn loại khác nhau, có những sản phẩm mới ra đời, có những sản
phẩm còn nằm trong dự đoán, có những sản phẩm chiếm lĩnh thị trường… làm cho
nhu cầu tiêu dùng trên thị trường thường xuyên thay đổi. Vì vậy tiêu thụ sản phẩm
trong nền kinh tế thị trường là việc làm vô cùng khó khăn. Trong thực tế hoạt động
kinh doanh cho thấy có những doanh nghiệp tồn đọng hàng tỷ đồng vốn trong sản
xuất không bán được, để thu hồi vốn này doanh nghiệp phải bán sản phẩm với giá
rẻ, thấp hơn giá thành, chấp nhận thua lỗ, sở dĩ xảy ra tình trạng này là vì sản phẩm
kém chất lượng và sản phẩm không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, sản phẩm
sản xuất ra nhiều trong khi nhu cầu thấp, định giá sản phẩm quá cao, chưa làm cho
người tiêu dùng hiểu rõ giá trị sản phẩm…
Vì vậy quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp phải đạt được các yêu
cầu cơ bản sau:
- Tăng thị phần của doanh nghiệp: giữ vững và mở rộng thị trường (tăng
phần thị trường) là một trong những yêu cầu hàng đầu của quản lý doanh nghiệp.
- Đảm bảo tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Bảo đảm và nâng cao hiệu quả tiêu thụ: để tổ chức công tác tiêu thụ sản
phẩm các doanh nghiệp cần tiến hành tốt các hoạt động quảng cáo, tổ chức
marketing, giao nhận, phương tiện vận chuyển, phương thức thanh toán.
- Tăng tài sản vô hình của doanh nghiệp, đó chính là tăng uy tín của doanh
nghiệp nhờ tăng niền tin đích thực của người tiêu dùng đối với sản phẩm của doanh
nghiệp.
6
- Phục vụ khách hàng góp phần vào việc thoả mãn các nhu cầu phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước.Yêu cầu này thể hiện một khía cạnh chức năng xã hội
của doanh nghiệp và khẳng định vị trí của doanh nghiệp như một tế bào của hệ
thống kinh tế quốc dân.
1.1.3. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm trong hoạt động của doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp (trừ các doanh nghiệp công ích) lợi nhuận vẫn là mục
tiêu đang đặt lên hàng đầu, nhưng lợi nhuận chỉ có được sau khi đã tiêu thụ được
sản phẩm. Vì vậy, tiêu thụ sản phẩm chính là mục đích của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp sản xuất hay kinh doanh chỉ sau khi sản phẩm được tiêu thụ mới có thể thu
hồi được vốn để sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm đảm bảo cho quá trình tái
sản xuất được liên tục, là điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội. Công tác tiêu
thụ có vai trò rất lớn đối với hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong quá
trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là vốn lưu động.
Công tác tiêu thụ sản phẩm là một mắt xích liên kết giữa người sản xuất và
người tiêu dùng. Đối với người sản xuất thì tiêu thụ sản phẩm giúp cho họ hiểu
thêm về sản phẩm của mình từ đó có biện pháp cải tiến làm cho sản phẩm thoả mãn
một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng.
Tóm lại mỗi doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường nếu thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ đem lại hiệu
quả vô cùng to lớn. Có cạnh tranh gay gắt thì việc tiêu thụ sản phẩm mới có ý nghĩa
quan trọng, quyết định sự sống còn của các cơ quan sản xuất kinh doanh. Việc tiêu
thụ nhanh hay chậm, nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào thị trường và rất nhiều yếu tố
khác.
1.2. Nội dung của hoạt động tiêu thụ sản phẩm
1.2.1. Nghiên cứu thị trường
Mọi doanh nghiệp đều quan tâm đến việc quản lý có hiệu quả hoạt động tiêu
thụ sản phẩm. Muốn vậy trước hết doanh nghiệp cần biết nghiên cứu khả năng của
thị trường đối với sản phẩm như thế nào, lựa chọn các thị trường mục tiêu thích
7
hợp ra sao. Việc nghiên cứu phải phát hiện ra được một loạt những khả năng của
thị trường hấp dẫn theo quan điểm riêng của doanh nghiệp. Mọi khả năng đều phải
được nghiên cứu kỹ trước khi xem nó là thị trường mục tiêu sắp tới.
Vì nghiên cứu thị trường không chỉ phục vụ cho những chức năng giá trị
hoạt động tiêu thụ mà mọi hoạt động kinh doanh đều phải dựa trên những tiên đoán
về quy mô, xu hướng biến đổi về cầu của thị trường để: lập kế hoạch cung ứng vật
tư, kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài chính, kế hoạch nhân sự…Cho nên doanh
nghiệp cần đánh giá kỹ hơn mức cầu hiện tại lẫn tương lai.
1.2.2. Các hoạt động ký kết hợp đồng, bảo quản và xuất kho
Hoạt động ký kết hợp đồng:
Công tác này khởi đầu cho một hoạt động tiêu thụ thực tế của doanh nghiệp.
Xã hội ngày càng phát triển về mọi phương diện như thông tin liên lạc hiện đại,
hoạt động giao dịch, hoạt động ký kết hợp đồng đòi hỏi nhiều yêu cầu về hình thức
cũng như sự chặt chẽ về pháp lý. Đối với các doanh nghiệp hiện nay việc ký kết
được một hợp đồng kinh tế có thể là cơ hội phát triển và đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ thì điều này lại càng khó khăn hơn nhiều lần. Vì vậy cần chú ý đến
công tác này cả về hình thức lẫn nội dung.
Hoạt động bảo quản và xuất kho:
Công tác bảo quản và xuất kho cần phải tổ chức khoa học, phù hợp với đặc
điểm sản phẩm của doanh nghiệp nhằm đảm bảo tốt nhất cho công tác tiêu thụ sản
phẩm.
Xuất nhập kho phải đủ về số lượng, chất lượng, chủng loại, quy cách, đảm
bảo chất lượng phục vụ tốt nhất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Hệ
thống kho tàng, bến bãi cần được tổ chức và bố trí phù hợp với công tác bảo quản
và tiêu thụ. Đặc biệt cần xác định lượng hàng dự trữ tối ưu nhằm đáp ứng kịp thời
nhu cầu tiêu dùng của khách hàng nhưng phải hạn chế chi phí bảo quản tồn trữ.
8
Thủ tục xuất hàng cho khách phải đảm bảo nhanh gọn, kịp thời, chính xác, tránh
gây phiền hà cho khách hàng.
1.2.3. Các hình thức phân phối, vận chuyển và giao nhận hàng
Tổ chức phân phối hàng hoá:
Quyết định hình thức phân phối là một trong những quyết định quan trọng có
ảnh hưởng lớn đến công tác tiêu thụ sản phẩm. Tuỳ thuộc vào tình hình tài chính,
đặc điểm sản phẩm, ý đồ kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp chọn lựa cho mình một
hình thức phân phối phù hợp trong những hình thức phân phối sau:
- Phân phối trực tiếp:
Lực lượng bán
hàng của người
sản xuất
Người sản
xuất
Người tiêu
thụ
Sơ đồ 1.1: Hình thức phân phối sản phẩm trực tiếp
+Ưu điểm: Doanh nghiệp trực tiếp quan hệ thị trường và khách hàng, từ
đó có thể nắm bắt được những thông tin về nhu cầu của thị trường, về giá cả sản
phẩm, về cơ hội tạo uy tín với người tiêu dùng, hiểu rõ tình hình bán hàng của
doanh nghiệp và do đó có khả năng thay đổi kịp thời theo yêu cầu của thị trường về
sản phẩm, phương thức tiêu thụ cũng như các dịch vụ sau bán hàng.
+ Nhược điểm: Hoạt động phân phối tiêu thụ sản phẩm bị chậm hơn so
với phương pháp tiêu thụ gián tiếp, tốc độ chu chuyển vốn chậm, doanh nghiệp
phải quan hệ với người bán hàng.
- Phân phối gián tiếp:
Người sản xuất
Người đại lý
Lực lượng bán
hàng của người
sản xuất
Người bán
9
Sơ đồ 1.2: Hình thức phân phối sản phẩm gián tiếp
+ Ưu điểm: Doanh nghiệp có thể tiêu thụ sản phẩm trong thời gian ngắn với
số lượng lớn, thu hồi vốn nhanh, tiết kiệm được chi phí bảo quản sản phẩm.
+ Nhược điểm: Không có quan hệ trực tiếp tới người tiêu dùng, không nhận
được các thông tin phản hồi từ người tiêu dùng trực tiếp về sản phẩm của doanh
nghiệp, không kiểm soát được giá bán của tổ chức trung gian.
Hoạt động vận chuyển và giao nhận hàng:
Trong cơ chế thị trường, công tác tiêu thụ sản phẩm gắn liền với các dịch vụ
đi kèm để đáp ứng tốt nhất những nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, việc tổ chức
vận chuyển hàng hoá phải được chú trọng sao cho hài lòng khách hàng, đem lại
hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải xây dựng chính
sách vận chuyển hợp lý về phương tiện vận chuyển, cước phí vận chuyển, khả năng
đảm bảo an toàn cho hàng hoá, thời gian giao nhận.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ
1.3.1. Những nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Chiến lược sản phẩm:
10
Các doanh nghiệp ngày càng ý thức được sự cần thiết phải nghiên cứu hàng
hoá và dịch vụ cũng như những lợi ích gắn liền với nó. Thời hạn sống của hàng hoá
hiện có hôm nay đang thu ngắn lại và sẽ đến lúc phải thay thế, cải tiến chúng.
Nội dung cơ bản của chiến lược này là quyết định nên đưa ra thị trường sản
phẩm nào cho có lãi, trong thời gian là bao lâu thì nên đưa ra sản phẩm mới hoặc
thay đổi kiểu dáng mẫu mã sản phẩm…Với những quyết định đúng đắn trong từng
thời điểm kinh doanh sẽ mang lại hiệu quả cao cho công tác tiêu thụ sản phẩm cũng
như gia tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính sách giá cả:
Giá cả là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cung và lượng cầu hàng hoá
trên thị trường. Giá cả là một công cụ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Vì vậy,
nghiên cứu giá cả cho tiêu thụ sản phẩm là vấn đề không thể thiếu trong quá trình
sản xuất kinh doanh nói chung. Mức giá của mỗi loại sản phẩm trong suốt chu kỳ
sống của nó cần phải được điều chỉnh theo sự biến động của cung - cầu và của môi
trường kinh doanh. Giá cả trong nhiều trường hợp phải được sử dụng như một công
cụ cạnh tranh đắc lực của doanh nghiệp. Vì vậy, việc xác lập chính sách giá cả
đúng đắn là điều kiện quan trọng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp đạt hiệu quả cao và phát triển khả năng chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên
việc xác lập chính sách giá cả phải đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện mục tiêu
về lợi nhuận hoặc tỉ phần thị trường chiếm lĩnh trong một khoảng thời gian nhất
định.
Công tác hỗ trợ và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm:
Công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm rất quan trọng đối với tất cả các doanh
nghiệp có sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. Vì vậy để công tác tiêu thụ sản phẩm
đạt hiệu quả cao bên cạnh chiến lược sản phẩm, chính sách giá cả doanh nghiệp
còn cần quan tâm đến công tác hỗ trợ và xúc tiến bán hàng. Hoạt động này chủ yếu
là truyền thông tin về sản phẩm và doanh nghiệp tới khách hàng để thuyết phục họ
11
mua. Một số hình thức thường được các doanh nghiệp sử dụng trong các chiến lược
xúc tiến tiêu thụ sản phẩm là:
+ Công tác quảng cáo: quảng cáo là sự truyền thông tin đơn phương của
người bán vào những đối tượng có nhu cầu bằng những phương tiện nhất định
nhằm thu hút sự quan tâm chú ý của khách hàng đối với sản phẩm của doanh
nghiệp, thúc đẩy nhanh hơn quá trình bán hàng, quá trình giới thiệu sản phẩm, tác
động một cách có ý thức đến người tiêu dùng, thuyết phục và động viên họ mua
hàng. Quảng cáo sẽ làm cho hàng bán được nhiều hơn, nhanh hơn, nâng cao uy tín
của doanh nghiệp trên thị trường.
Các hình thức quảng cáo:
- Quảng cáo trên báo chí.
- Quảng cáo trên đài.
- Quảng cáo giao thông.
- Quảng cáo trực tiếp bưu điện.
- Quảng cáo ngoài trời.
+ Khuyến mại: là tất cả những biện pháp tác động tức thời ngắn hạn để
khuyến khích việc dùng thử hoặc mua nhiều hơn sản phẩm nhờ cung cấp những lợi
ích bổ xung cho khách hàng. Các biện pháp khuyến mại chủ yếu là:
- Phân phát hàng mẫu, hàng mới cho người tiêu dùng để họ dùng
thử.
- Áp dụng hình thức chiết khấu giảm giá, thêm hàng hoá đối với
khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp.
- Thưởng, tặng quà cho khách hàng, in ấn và phát hành tài liệu nhằm
cung cấp đầy đủ thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp cho khách hàng.
- Bảo hành sản phẩm và tổ chức dịch vụ sau bán…
+ Tuyên truyền ( mở rộng quan hệ công chúng):
là các hoạt động nhằm
xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho thương hiệu hoặc cho doanh nghiệp trong cộng
đồng. Chẳng hạn như:
12
- Chào hàng: đây là biện pháp thông qua các nhân viên của doanh
nghiệp đi tìm khách hàng để bán sản phẩm.
- Tham gia hội chợ triển lãm: hội chợ là nơi gặp gỡ của các nhà sản
xuất kinh doanh với nhau và với khách hàng, nó cũng là nơi để doanh
nghiệp giới thiệu, quảng cáo, mua bán sản phẩm, tham quan tìm kiếm mặt
hàng mới, ký kết hợp đồng, tìm kiếm thị trường mới, khách hàng mới.
- Tổ chức cửa hàng giới thiệu sản phẩm: cửa hàng giới thiệu sản
phẩm không chỉ đơn giản là để quảng cáo giới thiệu sản phẩm mà còn có
tác dụng hướng dẫn nhu cầu, tạo uy tín và khả năng thâm nhập thị trường
của sản phẩm. Tuy nhiên tuỳ theo điều kiện cụ thể , tuỳ loại sản phẩm mà
doanh nghiệp có nên tổ chức cửa hàng giới thiệu sản phẩm hay không.
1.3.2. Những nhân tố thuộc về môi trường bên ngoài doanh nghiệp
Mức độ cạnh tranh trên thị trường:
Thị trường là môi trường trong đó diễn ra quá trình người bán và người mua
tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá tiêu thụ. Mức độ
cạnh tranh cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hoạt động tiêu thụ nói riêng.
Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp thể
hiện ở thực lực và lợi thế của doanh nghiệp trong việc có thể thoã mãn tốt nhất đòi
hỏi của khách hàng về số lượng, chất lượng, phương thức phục vụ và giá cả. Mức
độ cạnh tranh trên thị trường sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc vào số lượng
doanh nghiệp có sản phẩm cùng cạnh tranh trên thị trường, quy mô và thế lực của
doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp nào có sức mạnh cạnh tranh cao trên thị trường thì
sản phẩm của doanh nghiệp đó được thị trường chấp nhận.
Quan hệ cung cầu:
Cung sản phẩm là lượng sản phẩm có thể cung ứng trên thị trường bao gồm
khối lượng sản phẩm đang lưu thông trên thị trường, khối lượng sản phẩm sẵn sàng
13
tung ra thị trường. Cầu sản phẩm là khả năng mua hàng của mỗi người tiêu dùng
trong từng thời kỳ nhất định ở từng khu vực. Trong kinh doanh giá cả là do quan hệ
cung - cầu quyết định. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả sẽ cao và ngược lại. Do đó,
giá cả hàng hoá có mối quan hệ chặt chẽ với cung - cầu. Hay nói cách khác, nói tới
cung - cầu là nói tới giá cả,
cung - cầu chỉ có nghĩa khi gắn với mặt hàng cụ thể
xuất hiện trên thị trường, người sản xuất sẽ cố gắng tìm cách đáp ứng nhu cầu đó.
Bất cứ một biến động nào ảnh hưởng đến cung - cầu như: giá cả, các yếu tố đầu
vào, năng suất lao động, những biến động khác làm ảnh hưởng đến thu nhập dân
cư, những vấn đề chính trị, xã hội, lạm phát, thất nghiệp… đều làm ảnh hưởng đến
số lượng hàng hoá sản xuất và tiêu thụ.
Thị trường người tiêu dùng: Đây là nhân tố mà nhà sản xuất phải quan tâm
không chỉ khi định giá bán tung ra thị trường mà phải xác định ngay từ khi xây
dựng chiến lược kinh doanh, quyết định phương án sản phẩm đảm bảo tiêu thụ
nhanh nhiều và có lãi. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng được coi là
“thượng đế”. Nhu cầu, thói quen, tập tính sinh hoạt…của người tiêu dùng là
nguyên nhân tác động trực tiếp đến lượng hàng tiêu thụ, trong đó mức thu nhập của
khách hàng có tính quyết định lượng hàng mua.
1.3.3. Chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Nhà nước tác động đến các chủ thể kinh tế thông qua các chính sách, chủ
trương và biện pháp cụ thể nhằm đạt được sự phát triển toàn diện theo định hướng.
Song mức độ tác động phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước, đặc biệt là
chế độ chính trị của nước đó. Điều mà các chủ thể kinh tế hay doanh nghiệp quan
tâm là việc những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước đưa ra có ảnh hưởng như
thế nào đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Có thể nói chính sách kinh tế
vĩ mô của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chẳng hạn như chính sách hạ thấp tỉ lệ vốn vay,
hạn chế nhập khẩu, tăng cường chống buôn lậu…sẽ có tác động tốt đến các doanh
14
nghiệp và ngược lại các chính sách tăng thuế, tăng giá xăng dầu…sẽ ảnh hưởng
tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4. Khái niệm, vai trò và nội dung của phân tích hoạt động kinh doanh
1.4.1. Khái niệm về phân tích
Phân tích hoạt động kinh doanh mang nhiều tính chất khác nhau và phụ
thuộc vào đối tượng cũng như các giải pháp quản lý mà ta áp dụng. Có nhiều loại
hình phân tích kinh tế nhưng chúng đều có một cơ sở chung và phụ thuộc vào đối
tượng phân tích.
Vậy phân tích hoạt động kinh doanh là gì?
Theo phó giáo sư tiến sĩ Phạm Văn Dược – Phân tích hoạt động kinh
doanh – NXB Thống Kê năm 2008
“Phân tích hoạt động kinh doanh là quá trình nghiên cứu để phân tích toàn
bộ quá trình và kết quả hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp, nhằm làm rõ chất
lượng hoạt động kinh doanh và các nguồn tiềm năng cần được khai thác, trên cơ sở
đó đề ra các phương án và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh ở doanh nghiệp”.
Người ta phân biệt hoạt động kinh doanh như một hoạt động thực tiễn, vì
phân tích hoạt động kinh doanh luôn đi trước quyết định và là cơ sở cho việc ra các
quyết định kinh doanh. Phân tích hoạt động kinh doanh như một ngành khoa học,
nó nghiên cứu các phương pháp phân tích có hệ thống và tìm ra các giải pháp áp
dụng chúng ở mỗi doanh nghiệp.
Như vậy phân tích hoạt động kinh doanh là quá trình nhận thức và cải tạo
hoạt động kinh doanh, một cách tự giác và có ý thức, phù hợp với điều kiện cụ thể
và phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, nhằm đem lại hiệu quả
cao hơn cho doanh nghiệp.
Từ đó, ta có thể hiểu phân tích kết quả tiêu thụ là quá trình nghiên cứu để
phân tích toàn bộ quá trình và kết quả tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp, nhằm làm
rõ tình hình hoạt động tiêu thụ và các nguồn tiềm năng cần được khai thác, từ đó đề
15
ra các phương án và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tiêu thụ ở doanh
nghiệp.
1.4.2. Vai trò của phân tích
Để kinh doanh đạt hiệu quả như mong muốn và hạn chế rủi ro xảy ra thì đòi
hỏi doanh nghiệp phải biết tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh của mình,
đồng thời dự toán các hoạt động kinh doanh trong thời gian tới, để vạch ra chiến
lược kinh doanh cho phù hợp. Ngoài việc phân tích các điều kiện bên trong doanh
nghiệp về tài chính, lao động, vật tư…. Doanh nghiệp còn phải quan tâm xem xét
các điều kiện tác động ở bên ngoài như thị trường, khách hàng , đối thủ cạnh
tranh…. Trên cơ sở phân tích đó, doanh nghiệp có thể xác định được rủi ro có thể
xảy ra và có kế hoạch phòng ngừa trước khi xảy ra.
Do đó phân tích hoạt động kinh doanh mang nhiều ý nghĩa và vai trò quan
trọng như sau:
- Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ quan trọng trong những chức
năng quản trị có hiệu quả ở doanh nghiệp.
- Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ để phát hiện những khả năng
tiềm năng trong hoạt động kinh doanh, mà còn là công cụ cải tiến quy chế quản lý
trong kinh doanh.
- Phân tích hoạt động kinh doanh cho phép các nhà doanh nghiệp nhìn nhận
đúng đắn về khả năng, sức mạnh cũng như những hạn chế trong doanh nghiệp của
mình. Chính trên cơ sở này các doanh nghiệp sẽ xác định đúng đắn mục tiêu cùng
các chiến lược kinh doanh có hiệu quả.
- Phân tích hoạt động kinh doanh là cơ sở quan trọng để ra các quyết định
kinh doanh.
- Phân tích là quá trình nhận thức hoạt động kinh doanh, là cơ sở cho việc ra
quyết định đúng đắn trong chức năng quản lý, nhất là các chức năng kiểm tra, đánh
giá và điều hành hoạt động kinh doanh để đạt các mục tiêu kinh doanh.
16
- Phân tích hoạt động kinh doanh là biện pháp quan trọng để phòng ngừa rủi
ro.
- Tài liệu phân tích hoạt động kinh doanh không chỉ cần thiết cho các nhà
quản trị ở bên trong doanh nghiệp mà còn cần thiết cho các đối tượng bên ngoài
khác, khi họ có mối quan hệ về nguồn lợi với doanh nghiệp. Vì, thông qua phân
tích họ mới có thể có quyết định đúng đắn trong việc hợp tác đầu tư, cho vay…với
doanh nghiệp nữa hay không?
1.4.3. Nội dung của phân tích hoạt động kinh doanh
Trong nền cơ chế thị trường các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong hoạt
động kinh doanh, tự trang trải chi phí và đảm bảo có lợi nhuận. Để thực hiện được
điều này, phân tích hoạt động kinh doanh phải thường xuyên kiểm tra đánh giá mọi
diễn biến và kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh, tìm giải pháp khai thác
năng lực của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động. Cho nên nội
dung nghiên cứu chủ yếu của phân tích kinh doanh là:
- Phân tích các chỉ tiêu về kết quả kinh doanh, như: sản lượng sản phẩm,
doanh thu bán hàng, giá thành, lợi nhuận…
- Các chỉ tiêu kết quả kinh doanh được phân tích trong mối quan hệ với các
chỉ tiêu về điều kiện (yếu tố) của quá trình sản xuất kinh doanh, như: lao động, tiền
vốn, vật tư, đất đai…
Để thực hiện nội dung trên, phân tích kinh doanh cần xác định các đặc trưng
về mặt lượng của các giai đoạn, các quá trình kinh doanh (số lượng, kết cấu, quan
hệ, tỷ lệ…) nhằm xác định xu hướng và nhịp độ phát triển, xác định những nguyên
nhân ảnh hưởng đến sự biến động của quá trình kinh doanh, tính chất và trình độ
chặt chẽ của mối liên hệ giữa kết quả kinh doanh với các điều kiện (yếu tố) sản
xuất kinh doanh.
1.5. Phương pháp và nội dung của phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm
17
Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của vòng chu chuyển vốn ở doanh nghiệp.
Sản phẩm hàng hoá chỉ được coi là tiêu thụ khi doanh nghiệp đã nhận được tiền
bán hàng hay khách hàng đã chấp nhận trả tiền cho sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, khi sản xuất đã phát triển thì vấn đề quan trọng
trước hết không phải là sản xuất mà là tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, bởi vì:
- Có tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá, doanh nghiệp mới thu hồi được vốn,
mới có quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo và như vậy sản xuất mới có thể ổn
định và phát triển.
- Sản phẩm hàng hoá có tiêu thụ được, mới xác định được kết quả tài chính
cuối cùng của doanh nghiệp là lãi hay lỗ và lãi lỗ ở mức độ nào.
- Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá xác định được đúng đắn
những nguyên nhân, tìm ra những biện pháp tích cực nhằm đưa quá trình tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp đạt được mục tiêu là: tiêu thụ với khối lượng
lớn sản phẩm hàng hoá, giá bán cao, thị trường ổn định và thu được lợi nhuận cao
trong kinh doanh.
- Doanh thu bán hàng, lợi nhuận của doanh nghiệp là cơ sở để tính ra các chỉ
tiêu chất lượng, nhằm đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ hoạt động kinh doanh.
Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp có những
yêu cầu và nhiệm vụ sau:
- Đánh giá đúng tình hình tiêu thụ về mặt số lượng, chất lượng và mặt hàng,
đánh giá tính kịp thời của tiêu thụ.
- Tìm ra những nguyên nhân và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến tình hình tiêu thụ.
- Đề ra các biện pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối
lượng sản phẩm tiêu thụ cả về mặt số lượng lẫn chất lượng.
Để thực hiện nhiệm vụ của phân tích, có thể sử dụng các phương pháp phân
tích khác nhau và mỗi phương pháp đều có thế mạnh và hạn chế của nó, đòi hỏi
18
phải có trình độ vận dụng thành thạo mới đạt được những mục đích đã đặt ra. Sau
đây là các phương pháp tính toán kỹ thuật thường dùng trong phân tích hoạt động
tiêu thụ:
1.5.1. Phương pháp chi tiết
Đây là phương pháp sử dụng rộng rãi trong phân tích hoạt động kinh doanh
nói chung cũng như phân tích tiêu thụ nói riêng. Mọi kết quả kinh doanh đều cần
thiết và có thể chi tiết theo các hướng khác nhau. Thông thường trong phân tích,
phương pháp chi tiết được thực hiện theo những hướng sau:
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu: các chỉ tiêu biểu hiện kết quả
hoạt động kinh doanh bao gồm nhiều bộ phận cấu thành. Từng bộ phận biểu hiện
chi tiết về một khía cạnh nhất định của kết quả kinh doanh. Phân tích chi tiết theo
các chỉ tiêu cho phép đánh giá một cách chính xác, cụ thể kết quả kinh doanh đạt
được. Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong phân tích mọi mặt kết quả
hoạt động kinh doanh.
- Chi tiết theo thời gian: kết quả kinh doanh bao giờ cũng là kết quả của một
quá trình. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tiến độ thực hiện quá trình đó trong
từng đơn vị thời gian thường không đồng đều nhau. Ví dụ: trong doanh số bán sản
phẩm từng thời gian trong năm không bằng nhau. Việc phân tích chi tiết theo thời
gian giúp ta đánh giá được nhịp điệu, tốc độ phát triển của hoạt động kinh doanh
qua các thời kỳ khác nhau, từ đó tìm nguyên nhân và giải pháp có hiệu lực cho
công việc kinh doanh. Phân tích chi tiết theo thời gian cũng giúp ta nghiên cứu
đồng thời nhịp điệu của các chỉ tiêu có liên quan với nhau từ đó phát hiện những
yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh.
- Chi tiết theo địa điểm: kết quả kinh doanh được thực hiện bởi các phân
xưởng tổ đội sản xuất… hay các cửa hàng, xí nghiệp trực thuộc doanh nghiệp. Phân
tích chi tiết theo địa điểm giúp ta đánh giá kết quả thực hiện hạch toán kinh doanh
nội bộ, phát hiện bộ phận tiên tiến hay lạc hậu trong việc thực hện các mục tiêu
19
kinh doanh, khai thác khả năng tiềm tàng về sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn, đất
đai… trong kinh doanh.
1.5.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng lâu đời và phổ biến nhất.
So sánh trong phân tích là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được
lượng hoá có cùng một nội dung, một tính chất tương tự để xác định xu hướng mức
độ biến động của chỉ tiêu. Nó cho phép ta tổng hợp được những nét chung, tách ra
được những nét riêng của các hiện tượng được so sánh, trên cơ sở đó đánh giá được
các mặt phát triển hay kém phát triển, hiệu quả hay kém hiệu quả để tìm các giải
pháp quản lý tối ưu trong mỗi trường hợp cụ thể. Vì vậy để tiến hành so sánh bắt
buộc phải giải quyết những vấn đề cơ bản như xác định số gốc để so sánh, xác định
điều kiện so sánh, mục tiêu so sánh.
Số gốc để so sánh: Tuỳ thuộc vào mục đích cụ thể của phân tích mà ta xác
định số gốc để so sánh và do đó có nhiều dạng so sánh khác nhau.
So sánh các số liệu thực hiện với các số liệu định mức hay kế hoạch giúp ta
đánh giá mức độ biến động so với mục tiêu đã đặt ra.
So sánh số liệu kỳ này với số liệu kỳ trước (năm trước, quý trước, tháng
trước) giúp ta nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của hiện tượng.
So sánh số liệu của thời gian này với số liệu cùng kỳ của thời gian trước giúp
ta nghiên cứu nhịp điệu thực hiện kinh doanh trong từng khoảng thời gian.
So sánh số liệu thực hiện với các thông số kinh tế kỹ thuật trung bình hoặc
tiên tiến giúp ta đánh giá được mức độ phấn đấu của doanh nghiệp.
So sánh số liệu của doanh nghiệp mình với doanh nghiệp tương đương, điển
hình hoặc doanh nghiệp thuộc đối thủ cạnh tranh giúp ta đánh giá được mặt mạnh
mặt yếu.
So sánh số liệu thực tế với mức hợp đồng đã ký, tổng nhu cầu,… giúp ta biết
được khả năng đáp ứng của thị trường.
20
So sánh các thông số kinh tế kỹ thuật của các phương án kinh tế khác nhau
giúp ta lựa chọn được phương án tối ưu.
1.6. Phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm
1.6.1. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động tiêu thụ
Sau mỗi chu kỳ kinh doanh doanh nghiệp cần tiến hành đánh giá lại hiệu quả
của công tác tiêu thụ sản phẩm để từ đó rút ra những ưu nhược điểm và tìm ra
nguyên nhân của thất bại đó, từ đó đề ra cách khắc phục trong thời gian tới để nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Để dánh giá chung tình hình tiêu thụ sản phẩm ta có thể sử dụng thước đo
hiện vật ( tấn, cái, mét…) hay thước đo giá trị.
Về thước đo hiện vật: nhằm so sánh biến động khối lượng tiêu thụ từng sản
phẩm hàng hoá giữa các kỳ phân tích.
Khối lượng tiêu thụ: Căn cứ và chỉ tiêu này để phát hiện nguyên nhân khối
lượng tiêu thụ không hoàn thành kế hoạch là do khối lượng sản xuất hoặc mua về
để bán, hay là do ứ đọng hàng tồn kho.
Khối lượng
tiêu thụ
=
(1.1)
Khối lượng
tồn kho đầu
kỳ
+
Khối lượng sản
xuất trong kỳ
-
Khối lượng
tồn kho cuối
kỳ
(1.1)
Tốc độ tiêu thụ sản phẩm:
Sản lượng tiêu thụ thực tế
M
x 100
=
Sản lượng tiêu thụ kế hoạch
(1.2)
Nếu M < 1, chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp kém tính phù hợp với thị
trường, các biện pháp nghiệp vụ của hoạt động tiêu thụ, doanh nghiệp tổ chức và
thực hiện chưa tốt,
- Xem thêm -